Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 42
Tổng truy cập: 1359695
DỤ NGÔN MƯỜI TRINH NỮ
DỤ NGÔN MƯỜI TRINH NỮ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Bấy giờ về Nước Trời thì cũng in như mười thiếu nữ”: Công thức nhập đề này, duy nhất trong Diễn từ cánh chung, nhắc lại công thức nhập đề của các dụ ngôn về Nước Trời ở chương 13; nó không muốn bảo: Nước Trời giống như mười thiếu nữ, nhưng là: bấy giờ, nghĩa là vào lúc Nước Trời tỏ hiện lần sau hết, có những người giống như các thiếu nữ trong dụ ngôn; tránh ra chữ bấy giờ có cùng một nghĩa với câu 31: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người… “.
“Đi đón lang quân”: Lối so sánh Chúa Giêsu với lang quân chuẩn bị hôn lễ của mình và hình ảnh của chính lễ cưới rất quen thuộc dù ý niệm Messia-lang quân xa lạ với Do thái giáo thời suy đồi. Song tâm điểm của dụ ngôn nằm trong tầm quan trọng được gán cho lúc lang quân đến. Như dụ ngôn đi trước và dụ ngôn nén vâng tiếp liền sau, dụ ngôn mười trinh nữ phải được đọc và hiểu như là lời chú giải toàn bồ giáo huấn của các câu 36-42, chương 24.
“Các cô thiếp đi mà ngủ cả”. Các trinh nữ không bị khiển trách vì đã ngủ, bởi thời gian hoạt động đã qua đối với các cô, nhưng là vì đã chẳng chịu làm công việc phải làm (các cô khờ) ngay từ đầu lễ cưới (đem đủ dầu có nghĩa là trung thành). Bởi thế, lời khuyên hãy tỉnh thức của c.13 không mâu thuẫn với giấc ngủ đó của mười trinh nữ, vì nó được áp dụng vào thời gian trước khi cử hành lễ cưới. Phải tỉnh thức bây giờ để có thể bình thản mà ngủ, với số dầu đã dự tru, trong thời gian cuộc lễ.
“E không đủ cho cả chúng em và các chị”: Toàn bộ ý nghĩa dụ ngôn kết tinh trong câu trả lời cứng rắn này đối với các trinh nữ khờ dại chẳng chịu phòng xa. Không còn vấn đề cho hay ngay cả cho mượn chính cái điều bảo đảm cho ta ơn cứu rỗi. Ta thình lình được đưa vào một bầu khí hết sức nghiêm khắc xa hẳn rọi thứ tình cảm, mọi thứ nhân đạo.
KẾT LUẬN
Phải tỉnh thức bây giờ, nghĩa là phải dự trữ đủ dầu, phải trung thành (24,45; 25,23) và phải làm các việc cần làm lập tức để khỏi phải “thức dậy” (sống lại) cách thình lình trong giờ Phán xét. Nếu biết giờ Phán xét hay biết các dấu hiệu tiên báo hiển nhiên, có lẽ con người sẽ trì hoàn việc sống trung thành; nhưng trong phần hai này của Diễn từ cánh chung, một nhấn mạnh sự vô tri của nhân loại về Giờ đó và vì thế, ông chẳng đề cập gì đến các dấu chỉ tiên báo ngày tận cùng nữa cả.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Chúa đến. Đối với mười trinh nữ, đó là một xác tín chắc chắn, hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón và chờ đợi chàng rể tại nơi ấn định họ đã xác tín chàng sẽ tới đến độ không lo âu gì trước sự chậm trễ ấy. Họ đã thiếp đi và ngủ cả, đó là dấu hiệu họ đang bình thản tâm hồn.
Ta cũng tin Chúa đến. Tuy nhiên đôi lần việc chờ đợi làm ta bớt tin tưởng. Chắc chắn, Người đến, nhưng mọi sự xem ra quá bình lặng. Người đến, nhưng chẳng có dấu hiệu gì, người hình như bất động. Khi chẳng có gì xảy ra, khi không một dấu hiệu tiên báo nào xuất hiện, thì sự hao mòn của thời gian dễ tàn phá lòng kiên nhẫn của’ ta, các câu hỏi bắt đầu nổi dậy, nghi ngại chen vào lung lay những xác tín chắc chắn nhất; dần dần chính sự mù mờ của kiến thức làm tắt ngủm ngọn đèn nội tâm của ta và đặt trong ta một thái độ dửng dưng nào đó, vì các biến cố đoan hứa xem ra đáng ngờ. Bấy giờ nếu thình lình xảy ra một tai biến, sự chờ đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi như hoàn toàn vô ích. Chúa đến, đó là điều chắc chắn, là một xác tín bình thản phải được củng cố trong ta. Đó không phải là một giả thuyết, một khả hữu đơn thuần, mà là thực tại hiển nhiên của tương lai ta. Và vì liên hệ tới tương lai ta nên đó chính là viễn tượng duy nhất chắc chắn như cái chợt thể lý của ta. Ước gì niềm xác tín này làm lòng ta tràn ngập bình an, tinh thần ta hoàn toàn thanh thản.
- Chúa đến, và đến bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười trinh nữ. “Nửa đêm, có tiếng kêu…” như thể việc đi sang ngày mai ấy cũng là việc chuyển từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà ta đang nghe lúc này đây của Thánh lễ. Đấy như là một dấu báo hiệu; trước đó nó đã cho thấy thật là phi lý khi ta trong mình sẽ có đủ giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn loa vang (1Tx 4, 16), như một “con đường Đamas” xem ra bình thường nhưng lại có tính cách quyết định, cuộc giá lâm ấy sẽ áp đặt sẽ mang đi tất cả, và sẽ ban sức sống cho những gì phù hợp với nó cho những ai đón chờ nó, và sẽ tiêu diệt những gì còn lại.
- Nhưng hăng hái đi đón Chúa và chờ đợi Người đến trong một đức tin an tĩnh thì cũng chẳng đủ tí nào. Phải tích cực chuẩn bị cuộc gặp gỡ đố bằng cách dự trữ thật nhiều việc lành phúc đức, nhiều hành vi xả thân phục vụ các kẻ “bé mọn” quanh ta, nhiều trung tín đối với các công việc khác nhau thuộc bổn phận bậc sống ta. Chỉ có đời sống hoàn toàn tận hiến cho Chúa và cho anh em mới sẽ có thể rạng ngời như ánh sáng trong đêm tối trần gian và cho phép ta nghỉ yên giấc ngàn thu vì biết rằng Chúa sẽ mở rộng cho ta cánh cửa phòng tiệc của Người.
Bài Tin mừng hôm nay là một dụ ngôn về 5 cô trinh nữ khờ dại và 5 cô trinh nữ khôn ngoan. Các cô khờ dại bị loại khỏi tiệc cưới, vì họ thờ ơ không chuẩn bị thích hợp. Còn các cô khôn ngoan thì được đón nhận vào tiệc cưới. Người kitô hữu cũng vậy, nếu thờ ơ không chuẩn bị thích hợp, họ cũng sẽ bị loại khỏi bữa tiệc cánh chung của Thiên Chúa.
Cuộc đời vốn là một hành trình đầy bất ngờ; bởi luôn có nhiều điều xảy ra ngoài dự kiến của ta. Sự bất ngờ đôi khi gây thú vị, nhưng cũng lắm lúc làm đớn đau, tan nát… và thường làm cho ta khó hoạch định tương lai một cách chắc chắn. Năm cô trinh nữ khôn ngoan đã biết dự phòng, bằng cách mang dầu theo với đèn; điều đó làm cho các cô có thể ứng xử đúng đắn khi điều bất ngờ xảy đến.
Cuộc đời là một hành trình và khôn ngoan là biết dự liệu tối đa.
Cuộc đời là một cuộc phiêu lưu, có niềm vui, có hạnh phúc; nhưng cũng không thiếu nỗi đau, bất hạnh. Những đau khổ và bất hạnh đó nhiều khi vùi dập con thuyền đời của ta, làm cho ta thất vọng, chán nản. Người kitô hữu cần phải luôn hy vọng đạt đến bến bờ hạnh phúc, để có đủ sức mạnh hoàn tất cuộc hành trình này. Khi nào chúng ta sẽ đạt đến bến bờ hạnh phúc? Chúng ta không biết, cũng như các cô trinh nữ không biết khi nào chàng rể đến. Nhưng chúng ta hy vọng sẽ có ngày toại nguyện, như các trinh nữ biết chắc chàng rể sẽ đến.
Cuộc đời vốn là một bến đợi, và khôn ngoan là biết sống trong hy vọng.
Cuộc đời có quá nhiều khó khăn sẽ dễ làm cho chúng ta chai lì; sự mong đợi lâu ngày có thể làm chúng ta dửng dưng với mọi sự; những khó khăn hằng ngày khiến chúng ta luôn phải tìm cách giải quyết những chuyện trước mắt; và cuối cùng chúng ta có thể lâm vào tình trạng chẳng còn biết mình trông đợi ai, mình hy vọng điều gì, mình sống trên đời để làm gì nữa. Lúc 5 cô khờ dại đi mua dầu, thì chàng rể đã đến; có thể Chúa đến đang lúc chúng ta bận tâm chuyện gì khác chăng?
Cuộc đời là bến mê; và khôn ngoan là biết tỉnh thức.
Để đón nhận Chúa, chúng ta cần biết dự liệu sẵn sàng biết kiên nhẫn hy vọng và biết tỉnh thức sáng suốt.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến với con trong bí tích tình yêu này
Và Chúa vẫn hằng đến với con trong từng bước cuộc đời của con.
Xin cho con biết tỉnh thức,
để nghe được tiếng bước chân của Ngài.
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Thế giới đang trải qua những biến động. Cảnh bắn giết bừa bãi xảy ra như cơm bữa. Động đất, lụt lội, chiến tranh càng ngày càng đe dọa mạng sống con người. Bệnh ung thư, liệt kháng làm rất nhiều người thất vọng. Cuộc sống càng bấp bênh hơn nữa với những tiên tri xuất hiện đó đây báo trước ngày tận thế. Nhiều người đã chuẩn bị dầu đèn, hoa nến không phải ra đón Chúa Kitô như mười cô trinh nữ, nhưng để phòng thân trước những biến cố năm 2000.
Phải chăng đó là một chuẩn bị chu đáo và khôn ngoan? Ngày Chúa đến đem lại niềm vui hay nỗi buồn? Chúng ta phải chuẩn bị làm sao để xứng đáng đón Chúa?
AI DẠI AI KHÔN?
Đám cưới là một hình ảnh tuyệt vời diễn tả niềm vui lớn nhất đời người. Cô dâu chú rể là những nhân vật chính. Nhưng trong dụ ngôn mười trinh nữ hôm nay, chú rể có vẻ quan trọng hơn. Chính thời gian đợi chú rể sẽ cho thấy một lằn ranh chia cắt các cô thành hai nhóm với số phận rõ rệt. Bên ngoài các cô có đầy đủ điều kiện như nhau. Cô nào cũng có đèn. Thực tế không đúng như các cô dự liệu. “Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi và ngủ cả” (Mt 25:5).
Tin chàng rể đến như sét đánh. Thật bất ngờ. Nửa đêm có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!” (Mt 25:6) Tiếng la lớn đến nỗi khiến tất cả các cô đều thức giấc. Lúc đó các cô khờ cuống cuồng cầu cứu các cô khôn: “Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi” (Mt 25:8). Chính dầu trong đèn đã chia các cô thành hai hạng khờ và khôn. Nhìn bên ngoài không thể biết được. Nghe lời các cô khôn khéo léo từ chối, các cô khờ không nói thêm được lời nào. Trách móc ai bây giờ? Lòng các cô thật bấn loạn. Thế là ba chân bốn cẳng, các cô khờ chạy ra ngoài chợ mua dầu châm đèn. Thời gian thật gấp rút. Khi các cô về tới nhà, tất cả đã xong. Thật vậy, “đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại” (Mt 25:10).
Thế là ranh giới đã phân biệt rõ ràng. Có một khoảng cách xa thăm thẳm giữa bên trong và bên ngoài, mặc dầu hai bên còn nghe thấy tiếng nhau. Bên trong chan hòa ánh sáng và niềm vui. Bên ngoài bóng đêm tràn ngập. Gió bão sẽ nổi lên. Chắc chắn đèn sẽ tắt. Sương đêm bao phủ rợn rùng. Bao nguy hiểm vây bọc chung quanh. Làm sao các cô có thể đi trong đêm tối?
Chỉ vì một chút bất cẩn, các cô khờ đã không được dự tiệc cưới. Cuộc đời từ nay phiêu lưu vô định hướng. Tất cả xảy ra ngoài ý muốn. Nhưng tại sao các cô khôn có thể chuẩn bị chu đáo như thế? Các cô có giật mình, kinh hoàng như các cô khờ không? Thực ra việc chàng rể đến chậm hay đúng giờ chẳng ảnh hưởng gì tới các cô khôn. Các cô luôn ở trong tình trạng sẵn sàng. Chính tình trạng sẵn sàng nói lên sự khôn ngoan của các cô.
Cùng một sự kiện có thể là niềm vui cho người này, nhưng lại là nỗi kinh hoàng cho người khác. Chú rể đã đem tất cả các cô khôn vào niềm vui bất tận, nhưng lại đẩy các cô dại vào đêm tối mịt mùng và đầy nguy hiểm. Tất cả tùy thuộc vào thái độ của các cô. Mặc dù thời gian ngắn ngủi, nhưng cũng đủ cho mỗi cô chuẩn bị dầu đèn cần thiết cho ngày vui tân hôn.
CHỜ ĐỢI VÀ CANH THỨC
Cuộc đời cũng giống như người tử tội ngồi chờ ngày ra pháp trường. Một triết gia Pháp đã nói như thế. Hình ảnh thật rợn rùng và đầy thất vọng. Giờ phút kinh hoàng đó chẳng khác lúc các cô khờ khi nghe tin chú rể đến. Nếu cuộc đời như thế, ai còn muốn sống làm gì?! Chẳng lẽ con người sinh ra để chết?
Khác hẳn với cái nhìn đầy bi quan đó, Đức Giêsu so sánh cuộc đời như giờ phút chờ đợi chú rể đến trong tiệc cưới. Niềm vui đó chỉ dành cho những ai có một thái độ sẵn sàng như các cô khôn. Khôn không phải lo lắng quá về sự sống đời này. Chắc chắn cuộc sống này bảo đảm tới mấy cũng có lúc chấm dứt. Chắc chúng ta còn nhớ nhà triệu phú vô địch đánh Golf mới đây đã bị tai nạn trên phản lực riêng… Không một hành khách nào trên phản lực 747 của Ai cập vừa qua có thể biết trước số phận mình kết thúc quá nhanh chóng và gọn gàng như vậy. Chúng ta cũng không thể biết trước những gì sẽ xảy ra cho chính mình khi phải lìa bỏ cõi thế. Bởi vậy bao lâu còn sống, chúng ta phải một thái độ khôn ngoan.
Thái độ khôn ngoan nhất là nghe lời Đức Giêsu khuyên: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25:13). Giờ phút bí mật đó hằng ám ảnh chúng ta. Người ta tìm mọi cách để quên giờ phút đó. Nhưng càng quên hình như càng được nhắc nhở dưới nhiều hình thức khác nhau. Tất cả không tùy thuộc vào trí nhớ, nhưng vào cái nhìn chúng ta về giờ phút đó. Quên hay không, cái gì phải tới sẽ tới. Chúng ta cần sự bình an thực sự trong giờ phút kinh hoàng đó.
Nhưng sự bình an làm sao đến được khi chúng ta không chuẩn bị? Phải chuẩn bị những gì và bằng cách nào? “Thái độ lo lắng về tương lai và tinh thần lãnh đạm phản ánh cuộc đời chúng ta thiếu vắng niềm tin” (Fahey:1994). Giả sử tận thế đến năm 2000, liệu những tích trữ gạo nước, than củi bảo đảm kéo dài sự sống hơn được bao lâu? Chính những lo lắng đó sẽ giết chết họ khi cơn biến động tới. Những lo lắng đó chỉ chứng tỏ một đức tin hời hợt, nông cạn. Trái lại nếu lắng nghe lời Chúa, chúng ta sẽ thấy phải chuẩn bị thứ dầu nào để rước Chúa trong ngày vui tiệc cưới.
Chắc chắn ngày Chúa đến sẽ là ngày vui tột độ cho những ai trọn đời phục vụ. Bản chất Kitô hữu là phục vụ. Chỉ hành động mới bảo đảm cho chúng ta khỏi rơi vào nguy cơ của những người suốt ngày kêu: “Lạy Chúa, lạy Chúa!” mà thực tế không sống đạo. Hố ngăn cách giữa đức tin và hành động sẽ chôn sống chúng ta trong nỗi kinh hoàng ngày cánh chung.
Người ta vẫn nói đùa: “Đoàn kết chết chùm, chia rẽ chết lẻ tẻ.” Chết tập thể hay cá nhân cũng thế thôi. Đời sống cá nhân luôn bị đe dọa vì tai nạn, bệnh tật. Tận thế đến hằng ngày cho bao nhiêu người chung quanh ta. Tận thế đến cũng chẳng ăn thua gì đối với những người đã chết. Chỉ người sống tận thế mới thành vấn đề đáng lo sợ. Chẳng có gì đánh tan được nỗi lo sợ đó.
Chỉ ơn thánh mới bảo đảm chúng ta chiếm được niềm vui và bình an đích thực trong Chúa. Chính vì thế, thánh Phaolô đã nói: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1:21). Lợi gì? Lợi là được kết hiệp với Đức Kitô trong Thiên Chúa. Bởi vậy ngay khi còn sống, thánh nhân đã tâm sự: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô, và được kết hợp với Người” (Pl 3:8-9). Đó là một thái độ khôn ngoan cần thiết chuẩn bị đón Chúa. Nếu ai cũng như thánh Phaolô, làm sao phải sợ giờ Chúa đến? Chính Thánh Linh đang hướng dẫn chúng ta chuẩn bị dầu đèn cần thiết để đón Chúa Kitô vào tiệc cưới muôn đời.
(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano, OP)
Thưa Quí vị,
Vào thời tiết này, nhiều nơi trên đất nước Hoa Kỳ, nhất là ờ miền Nam ấm áp, cây cối vẫn còn rực sáng trong nắng cuối thu. Trời đất quả là một bức tranh tuyệt đẹp. Lá vàng nhuộm màu sặc sỡ khắp đó đây. Nhiều thi nhân, hoạ sĩ gọi là mùa pháo bông của thiên nhiên. Tiết đông chưa tới, gió lạnh nghiệt ngã chưa thổi luồn qua các khóm lá vàng trên cành khô. Ánh sáng mặt trời óng ả đọng từng mảng trên triền núi, mái nhà, ngọn cây cao làm tăng thêm vẻ rực rỡ cho các phiến lá đầy màu sắc cuối thu. Những tia sáng nhạt xuyên qua kẽ lá làm bầu khí ban chiều thật yên tĩnh. Mọi người đều khao khát những khoảnh khắc nhàn rỗi để đi dạo chơi trong quang cảnh quyến rũ của vạn vật vào những buổi chiều tàn cuối năm.
Nhưng có điều chi không ổn trong tâm trí tôi: Cảnh trí rực rỡ kia lại như báo trước cái chết có sẵn trong thiên nhiên. Những tấm lá vàng cực kỳ đẹp đẽ kia lại đang nói rằng chúng sắp qua đời, đang tàn tạ dần. Những chiếc lá vàng cho biết rằng chúng đang run rẩy chết trên các cành cây, chẳng mấy chốc nữa sẽ quay cuồng trong gió lạnh rồi rơi xuống mặt đất khô, người ta sẽ gom chúng lại, chở đi đổ ở mãi tận đâu xa. Chấm hết một đời lá. Chắc chắn mùa đông sẽ tới, năm tận tháng cùng. Những người trọng tuổi, các thân hình đau yếu, bệnh hoạn rất sợ mùa lạnh lẽo, gía rét này. Bởi nó có nghĩa là họ sẽ bị giam hãm dài ngày trong những căn phòng chật hẹp, tù túng bốn bề, từng giây từng phút ngóng đợi đến khi tuyết tan, nước chảy, cho đến ngày lại được chống gậy đi đây đi đó cho khuây khoả tấm lòng, lại được thấy cây xanh nẩy lộc, chim hót líu lo.
Thật kỳ diệu, phụng vụ của Hội Thánh luôn đi song song với cảnh sắc thiên nhiên. Nó cũng đang kết thúc một chu kỳ, chù kỳ năm A. Chúng ta đang ở trong ba tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, trước khi bước vào mùa vọng năm tới, năm B. Suy tư và lời kinh nguyện của chúng ta cũng đang hướng về ngày cánh chung, kết thúc thời gian trần thế. Mọi chỉ dẫn của phụng vụ đều nhắc nhớ các tín hữu phải ngẫm nghĩ, không những về sự chết riêng của mình, mà còn về kết thúc tất cả các kinh nghiệm mà chúng ta phải trải qua trong cuộc đời. Những thành công và thất bại, những ân huệ và tội lỗi, những trung tín và phản bội. Các bài đọc Thánh kinh cũng hằng khuyến khích cộng đồng suy niệm về những thực tại chắc chắn và bền vững của kiếp sống con người, những phù vân mau qua của thế gian mà không đáng tín hữu đầu tư thời gian, sức lực hoặc tiền tài, những điểm hội tụ chính đáng của cuộc sống mỗi người, cũng như những điều phải gạt bỏ đi, những chi nâng đỡ và cứu giúp chúng ta qua khó khăn khủng hoảng trong cuộc sống.
Tác giả sách Khôn ngoan bộc lộ sự hiện diện của một nhân tố tối cần thiết cho các linh hồn để vượt qua biển đời trần thế là Khôn Ngoan. Sách này được soạn bằng ngôn ngữ Hy Lạp ở thành phố Alexandria, nước Ai Cập vào khoảng giữa các năm 100 và 50 trước Chúa Cứu Thế. Bà chúa Khôn Ngoan “sáng chói và không hề tàn tạ” là tâm điểm của sách. Bà sánh đôi với khao học, triết học, thần học và các môn khác của khôn ngoan nhân loại. Bà không thể thiếu trong tư duy và hành động của một con người khôn khéo. Bà dạy dỗ những việc lành phải làm, việc ác phải tránh, để được hạnh phúc trong cuộc đời hiện tại và sự sống mai hậu. Bà được nhân cánh hoá để thi hành ý muốn của Thượng Đế nơi trần gian. Hội Thánh có thói quen đồng hoá Bà chúa Khôn Ngoan với Đức Giêsu Kitô, khuyên dạy chúng ta lấy Bà làm tiêu chuẩn để lọc lựa những phù vân thế tục, giữ vững những điều chi “sáng chói và không hề tàn ta” của cuộc sống trên thế gian này, khi những xoắn vặn mùa đông, những gian nan thử thách, những tin tức không vui ập đến, bà chúa khôn ngoan sẽ là điểm tựa để chúng ta chống đỡ, kêu cầu. Bà là ngọn hải đăng “sáng chói không hề tàn tạ” hướng dẫn mọi cuộc đời vượt biển trần gian trong tối tăm.
Như vậy chúng ta có thể đáp trả bài đọc 1 trong thánh lễ hôm nay bắng cách mời mọc Bà đến cư ngụ trong linh hồn mình. Bí tích thánh thể sẽ khích lệ chúng ta canh thức và ngóng trông Bà, vì Bà luôn luôn gặp gỡ linh hồn với mọi nỗi “lắng lo”. Tác giả bài đọc còn gợi ý rằng tất cả những ai cất công tìm kiếm ngôn khoan sẽ được gặp Bà: “Ai kiếm tìm Đức khôn ngoan thì Đức khôn ngoan cho gặp, ai khao khát Đức ngôn ngoan thì đức khôn ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết.” Điều kiện duy nhất là có một trái tim trong sạch, thành thật kiếm tìm. Sách các Vua quyển thứ I còn cho hay khôn ngoan là ân huệ Chúa ban và cung cấp cho người tìm kiếm “một trái tim hiểu biết để phán đoán và phân biệt phải trái” (1V 3,9). Mọi sự trên trần gian sẽ qua đi, nhưng Bà chúa khôn ngoan sẽ dẫn chúng ta đến với những chi vững bền, bởi bà giống như Thượng Đế toàn năng và bất biến (Kn 7,22-27). Hơn nữa, ngay cả khi chúng ta chỉ khởi sự tìm kiếm thì Đức khôn ngoan đã ngự sẵn trong lòng: “Ai từ sáng sớm đã tìm Đức khôn ngoan thì không phải nhọc nhằn vất vả, họ sẽ thấy Đức khôn ngoan ngồi ngay trước cửa nhà”. Khôn ngoan như vậy là ân huệ hơn là cố gắng thủ đắc. Nó chỉ đường dẫn nẻo để chúng ta tận lực sống trung tín và tỉnh thức.
Chúa Giêsu là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh, là Khôn Ngoan Thiên Chúa nhập thể. Những ai hằng ngày kiếm tìm Ngài, sẽ thấy Ngài là ánh sáng “rực chói và không hề tàn tạ”. Trong Tin mừng hôm nay chúng ta ngồi dưới chân Ngài mà học cho biết khôn ngoan để bước đi trên những đường lối Thiên Chúa, không bị thế gian, ma quỉ, xác thịt lừa đảo trong những chuyện chóng qua. Phong tục tập quán cưới hỏi ở thời Ngài khác xa bây giờ. Cô dâu và đoàn tuỳ tùng ngồi ở nhà đợi chú rể và đám bạn bè tới dự tiệc. Tại sao tiệc lại trễ? Ấy là vì theo thói tục thời đó, người bên chú rể còn phải thương lượng với bố cô dâu và gia đình. Càng thương lượng lâu thì là dấu cô dâu càng đắt giá và danh tiếng. Có khi người ta phải thức thâu đêm hay nhiều ngày để thương lượng. (Patricia Sanchez: Lời Chúa chúng ta cử hành, năm A). Cuối cùng, chú rể và bạn bè cũng đến. Tiệc cưới khởi sự. Nó có thể kéo dài cả tuần lễ, vì vậy Chúa đã sử dụng tục lệ này để minh hoạ cho việc Ngài trở lại bất ưng và tuyên bố triều đại Thiên Chúa ngự trị. Mặc dầu thời giờ trở lại là việc chắc chắn, nhưng chúng ta vẫn dễ dàng vô tâm, không sẵn sàng, đúng như năm cô gái khờ dại trong truyện ngụ ngôn.
Hàng chữ cuối cùng của Tin Mừng hôm nay thật đột ngột và dứt khoát: “Rồi người ta khoá cửa lại.” Không phải chỉ khép mà khoá lại (locked). Những cánh cửa mở rộng đón khách, nay được khoá lại. Tiếng then lóc cóc gài vào ổ nhắc tôi nhớ đến ngay các cánh cửa của nhà tù đóng lại. Nhưng đây là tiệc cưới, không phải nhà giam. Những thực khách bên trong đang hưởng sự vui mừng hớn hở của bữa tiệc. Họ chấm dứt những giây phút mong đợi dài dằng dặc. Những ai ở ngoài là vĩnh viễn ở ngoài. Họ lỡ hẳn cơ hội dự tiệc, bởi đã hoang phí thời giơ, sức lực vào những công việc vô ích, không dự trữ dầu đèn đầy đủ. Rõ ràng họ ngu ngốc hết cỡ. Đáng lý, khi chờ đợi họ phải tỉnh thức canh phòng, làm những chi cần làm do hoàn cảnh đòi hỏi, để không phải rơi vào kết thúc đáng buồn.
Khi đang viết những dòng này, tôi nhận được cú điện thoại của một anh bạn. Anh báo cho tôi hay rằng bạn anh, 45 tuổi, cha của hai đứa nhỏ, chồng của một người vợ trẻ, vừa mới đột ngột qua đời khi vượt qua chỗ quẹo gấp. Gia đình anh rất buồn và đau lòng. Anh là một lực sĩ nổi tiếng, chẳng bao giờ ngờ rằng mình sẽ vĩnh viễn ra đi chỉ sau một cuộc chạy đua vào buổi chiều thu như hôm nay. Người ta vẫn hy vọng anh còn nhiều sức lực, đèn của anh còn cháy sáng và có nhiều dầu, anh còn đủ thời gian để nói những lời yêu thương với vợ con, lời xin lỗi với bạn bè. Người ta vẫn hy vọng anh sống khôn ngoan, biết thương cảm những ai bất hạnh, giúp đỡ hàng xóm láng giềng khi gặp khó khăn, thực phẩm cho người đói, nước uống cho người khát, đón tiếp khách lạ, áo mặc cho kẻ trần truồng, thăm viếng người tù tội hay yếu đau (Lễ Chúa Kitô Vua chúng ta sẽ được nghe Tin Mừng Chúa phán xét về những công việc tương tự).
Câu truyện Tin Mừng Chúa nhật này không những nói đến ngày cánh chung, nhưng cả đến thời khắc hiện tại. Nó nhắc nhở chúng ta phải luôn tỉnh thức và hướng dẫn cuộc đời mỗi người theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, tỏ hiện nơi Đức Kitô. Chúng ta chưa được trông thấy ngày Ngài trở lại. mà chỉ được kinh nghiệm những công việc hằng ngày, lao động, học hành, buôn bán, cầy cấy, gieo trồng… Nhưng đôi khi cũng gặp những điều bất ngờ xảy đến cho mình, cho gia đình và bạn bè thân yêu. Chúng ta có luôn luôn sẵn sàng không? Nó tuỳ vào dầu đèn của mình đầy đủ hay thiếu thốn. Nếu hiện thời chúng ta phí phạm thời giờ, tiền của, sức lực, e rằng lúc gặp những khủng hoảng chúng ta chẳng thể trở tay kịp. Thời gian đã hết, muộn quá rồi, cửa đã khoá. Chúa giảng dụ ngôn là để cảnh giác toàn thể nhân loại luôn tỉnh thức chờ đợi ngày Ngài xuất hiện. Ngài luôn sẵn lòng ban khôn ngoan giúp chúng ta sống trung thành và xứng đáng.
Để kết thức bài suy niệm, xin kể một câu truyện nhỏ: Trong một vụ đắm tàu, đoàn thuỷ thủ chết hết, chỉ còn sót lại một thanh niên trẻ. Nhờ tấm ván anh lênh đênh trên mặt biển cả suốt mấy ngày đêm. Anh hoàn toàn kiệt sức vì đói khát, gío lạnh, nằm chờ chết. Trời phật thương tình, nổi cơn gió lớn đưa anh dạt vào một hòn đảo giữa đại dương. Cư dân trên đảo cứu anh sống, rồi phong làm vua. Anh ngỡ ngàng hết sức, tưởng mình nằm mơ. Dân trên đảo bàn tán sôi nổi với nhau mà anh chẳng hiểu chi. Anh cố gắng học ngôn ngữ của họ. Sau hiểu ra, theo thói tục, mỗi người chỉ được làm vua có một năm, sau đó bị đày ra một hòn đảo hoang vu, xa cư dân và bỏ cho chết đói. Anh thủy thủ trẻ lo lắng sợ hãi quá. Vận may hoá thành tai hoạ. Anh thức suốt đêm, tìm ra một phương kế để không bị chết đói sau khi mãn hạn một năm. Anh dùng quyền làm Vua của mình phái một số nông dân giỏi ra đảo canh tác trước, biến nó thành màu mỡ, sản xuất đủ lương thực thực phẩm. Nhờ khôn ngoan anh đã thành công lớn. Sau năm mãn hạn anh ung dung ra đảo với tương lai vững chắc.
Chúng ta cũng chỉ làm vua ở thế gian này bất quá một đời người, cho nên phải biết khôn ngoan lợi dụng thời gian, tài năng để lo liệu cho cuộc sống tương lai như người thuỷ thủ trẻ. Bằng không, sẽ ngu dốt như năm cô trinh nữ dại khờ. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể soi sáng chúng ta trong thánh lễ này để làm những quyết định Khôn Ngoan cho cuộc đời mình. Amen.
Tỉnh thức trong tình yêu
Chắc chắn rằng dụ ngôn mười trinh nữ hướng tới thời cuối cùng, tương tự như các dụ ngôn trong đoạn trước và tiếp liền sau dụ ngôn này (chủ nhà, người đầy tớ trung tín, những nén vàng). Các dụ ngôn này có một ý nghĩa rõ ràng và được nhắc đi nhắc lại, đó là sự tỉnh thức. Người ta không biết giờ nào Chúa sẽ đến, và rất có thể Người sẽ “đến trễ”, nên phải chuẩn bị sẵn sàng và kiên trì trước mọi tình huống.
Riêng về dụ ngôn mười trinh nữ, có lẽ không nên để ý đến những chi tiết có vẻ như giả tạo của câu chuyện: dụ ngôn không phải là một phóng sự hay một bài mô tả phong tục đám cưới, đúng và đủ mọi tình tiết. Trái lại, nên chú ý đến bài học của dụ ngôn, đó là sự khôn ngoan, biết phòng xa.
Điều dễ nhận thấy trong dụ ngôn này là bài học về sự “tỉnh thức”. Bài học này làm người đọc liên tưởng đến lời cảnh giác của thánh Phao-lô: “ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). Trong mười trinh nữ đi đón chàng rể, có năm cô khôn và năm cô dại.
Các cô khôn là những người biết phòng xa và chuẩn bị đầy đủ, cũng giống như người xây nhà trên đá (Mt 7,24), hay người quản gia biết chăm sóc gia nhân lúc vắng chủ (Mt 24,45). Các cô là hình ảnh của những người biết “lắng nghe và thi hành” những lời Đức Giêsu nói, những người có óc phê phán đúng đắn và tế nhị về thực tại của cuộc sống, kèm theo một ý chí cương quyết hành động.
Ngược lại, các cô dại là những cô không biết dự trữ phòng xa, không biết trù liệu trước hoàn cảnh bất trắc. Các cô là hình ảnh tiêu biểu cho những người lơ là, thiếu đầu óc thực tế, thiếu phán đoán, gây ảnh hưởng tai hại đến cuộc sống, nhất là đời sống vĩnh cửu.
Quả thật, các cô khôn đã chuẩn bị dầu đèn đầy đủ, lại còn mang theo bình dầu dự trữ, đề phòng trường hợp phải chờ đợi lâu. Các cô đã được vào dự tiệc cưới, như là phần thưởng cho thái độ sẵn sàng của mình. Trong khi đó, các cô dại, đã không mang dầu, lại còn mất thời giờ chạy đi mua, nên trở về quá trễ và không được vào dự tiệc cưới. Các cô đã bị ngăn lại, vì đèn của các cô hết dầu, và các cô đến quá trễ: dựa theo lời thánh Âu-gút-ti-nô, các cô đã thiếu điều quan trọng là dấu chỉ tình yêu và đã không sẵn sàng đáp ứng trước tình yêu.
Người ta có thể ngạc nhiên và đặt câu hỏi: Tại sao các cô khôn lại xử sự có vẻ như thiếu đức ái, đó là không giúp đỡ chị em mình đang gặp khó khăn. Thật ra, ở đây không chú trọng đến đức bác ái, nhưng muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa mỗi người phải chịu trách nhiệm về tự do và hạnh kiểm của mình, không được nông nỗi nhẹ dạ. Hơn nữa, sự kiện các cô trinh nữ phải chờ đợi lâu và chú rể chậm đến có thể cho thấy rằng lòng thương xót được gia hạn thêm một thời gian dài, rất dài, và đến một ngày, giai đoạn này sẽ chấm dứt. Thời gian chờ đợi có kéo dài thêm gợi lên tính cách nghiêm trọng của lời mời, đồng thời cũng bao hàm ý nghĩa: Đấng Cứu Thế không phải là sản phẩm theo sự suy đoán của con người. Đàng khác, nên hiểu thời gian này như một hồng ân được ban tặng để mỗi người kịp sửa chữa những thiếu sót và sai lầm của mình. Mỗi người đều có cơ hội để đáp ứng bằng chính tình yêu của mình.
Và như vậy, dụ ngôn không chỉ nói đến sự tỉnh thức. Hay nói cách khác, tỉnh thức chính là phải chuẩn bị đầy đủ cho cuộc lữ hành “”trên mặt đất đầy đau thương, bi tráng và kỳ diệu này”” (Chúc thư của ĐGH Phao-lô VI). Mỗi người phải mang theo đèn, và phải dự trữ dầu, nguổn đem lại ánh sáng, tức là phải có lòng hiếu khách, phải có tình yêu và niềm vui (ý nghĩa của dầu theo Kinh Thánh). Không có dầu, ngọn đèn sẽ tắt, người ta sẽ chìm trong tối tăm, và không được vào dự tiệc cưới.
Giữ ngọn đèn luôn cháy sáng
Nếu có ai được mời đi gặp một nhân vật họ vẫn mong đợi, hẳn là họ sẽ chuẩn bị rất kỹ càng, có khi tỏ ra nóng nảy, bồn chồn. Nếu họ vốn là người thờ ơ, hẳn họ sẽ phải thu xếp để có mặt đúng giờ, có khi còn đến sớm hơn giờ hẹn. Nếu nhân vật được mong đợi lại là người có khả năng làm thay đổi cuộc đời, thì người ta lại càng náo nức chờ đợi, và chuẩn bị kỹ lưỡng hơn.
Chàng rể trong dụ ngôn chính là Đức Giêsu. Với lòng yêu thương vô bờ, Thiên Chúa Cha đã trao phó cho Người trọn vẹn vận mạng của tất cả nhân loại cũng như của mỗi người. Người đã đến trần gian để dẫn đưa nhân loại đến tham dự sự sống và niềm vui vĩnh cửu trong Thiên Chúa. Chính Người đang đến gặp nhân loại và nhân loại phải tiến về với Người, bởi vì Người là sự sống, sự sống đời đời. “”Mà sự sống đời đời chính là nhận biết Cha, Đấng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô.”” (Ga 17,3)
Chàng rể có thể đến trễ, nhưng người ta vẫn phải chờ đợi, vẫn phải sẵn sàng. Ngọn đèn của mỗi người luôn phải có đủ dầu để đi đón chàng rể. Người ta có thể ngủ quên, nhưng vẫn có thái độ sẵn sàng: khi nghe tiếng kêu vào lúc nửa đêm, họ cũng đủ dầu đèn để đi đón chàng rể và dự tiệc cưới.
Như thế, dầu đèn chính là khát vọng tìm gặp Thiên Chúa. Khát vọng này cần được nuôi dưỡng để khỏi phai tàn trong cuộc chờ đợi. Các cô trinh nữ đi đón chàng rể, lúc khởi đầu tất cả đều vui mừng. Nhưng trong lúc chờ đợi, năm cô đã để cho lòng nhiệt thành của mình nguội dần, và khi chàng rể đến, các cô đâm bối rối, khát vọng của các cô đã tắt lịm. Có biết bao cuộc gặp gỡ đã bị vỡ tan bởi vì ngọn đèn khát vọng đã tắt ngúm.
Đúng vậy, đôi khi cuộc chờ đợi có thể kéo dài và biến thành một thử thách khắc nghiệt, nhất là với những người phải bước đi trong đêm tối, tiến bước rất lâu với cảm tưởng rằng không bao giờ gặp được chàng rể mình vẫn ước mong. Thật ra, tình trạng này là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn khoét sâu tâm hồn con người, để rồi ngày mai hay một lúc nào đó, Người sẽ bước vào. Phần con người, họ phải nuôi dưỡng lòng nhiệt thành bằng lòng tin, bằng việc cầu nguyện. Thiên Chúa sẽ không để cho kẻ chờ đợi Người phải thất vọng.
Sự nghèo khó nội tâm
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.”
Đây là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong suốt diễn từ loan báo ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang. Ở đây, Đức Giêsu đã bày tỏ rõ ràng Người là Đấng Cứu Thế trước khi Người chịu khỗ nạn và phục sinh.
Người mong muốn chúng ta chờ đón Người, và không được bỏ cuộc; Người mong muốn chúng ta chuẩn bị dầu đèn để khi Người trở lại, mặc dù bất thình lình, và chúng ta đang thiếp ngủ, chúng ta sẵn sàng đến gặp Người như Người cũng nhận ra chúng ta.
Phải chuẩn bị dầu đèn! Đây là một trách nhiệm nhưng chúng ta hãy yên lòng: Nếu Thánh Thần sử dụng dầu, thì chính Người cũng sẽ quan tâm không để chúng ta thiếu dầu.
Chúng ta nhớ lại câu chuyện bà goá ở Xa-rơ-phát: “vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán” (1 V 17,16). Bà goá này đã đặt tất cả niềm tin vào vị sứ giả của Thiên Chúa, nên vò dầu của bà đã không cạn.
Thật vậy, khi phục vụ Thiên Chúa và người khác, chúng ta vẫn phải khôn ngoan, dự phòng, nhưng cũng cần phải nhớ rằng sự khôn ngoan đích thực và cao cả nhất chính là sự nghèo khó trong tâm hồn, là lòng tin tuyệt đối, là xác tín rằng Thiên Chúa vẫn đang ở bên cạnh chúng ta và nâng đỡ sự yếu hèn, sự mỏi mệt của chúng ta. Chính Người vẫn bao bọc chúng ta trong tình yêu thương của Người để chúng ta luôn trở thành ánh sáng cho thế giới, thành anh em của mọi người, thành người cứu vớt những gì đã hư mất và thành chứng ta sống động của niềm vui.
Giếng nước trong khu vườn,
ngọn đèn tạo ánh sáng,
kho báu trong ngăn tủ,
Man-na trong Hòm Bia.
Lạy Chúa, Ngài là Chúa của con. H. Suso.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chúng ta đang sống vào những tuần cuối cùng của năm phụng vụ, vì thế các bài Tin Mừng của những Chúa Nhật cuối năm, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay, đều hướng chúng ta về thời gian tận cùng, về cái chết. Khi nào, lúc nào sự kiện đó xảy đến? Không ai biết trước, cho nên, phải khôn ngoan tính toán, để luôn luôn sẵn sàng. Đó là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta qua dụ ngôn mười cô trinh nữ phù dâu cầm đèn đi đón chàng rể.
Trước hết, chúng ta nên biết qua tục lệ của người Do Thái về vấn đề rước dâu. Tục lệ Do Thái thường rước dâu về ban đêm, trước khi rước dâu, hai họ đôi bên đã có những bữa tiệc linh đình khoản đãi bà con họ hàng. Rồi một ngày nào đó, đàng trai chọn một giờ tốt nhất từ sau khi hoàng hôn xuống, để đến rước cô dâu về. Khi đi rước, họ thường chọn con đường xa nhất để đi cho người ta biết mặt cô dâu, chú rể, và người ta có thể chúc mừng đôi tân hôn ngay trên đường đi. Nhóm phù rể mang đuốc soi đường, nhóm phù dâu cầm đèn soi mặt đôi tân hôn cho thêm lộng lẫy. Có khi có ban nhạc đi theo giúp vui ca hát lôi kéo sự chú ý của nhiều người. Tới nhà trai, mọi người vào dự tiệc cưới.
Trong dụ ngôn hôm nay, đặc biệt nhấn mạnh đến những cô phù dâu, đó là mười cô trinh nữ, đang cùng với cô dâu chờ nhà trai đến rước dâu về. Có năm cô khôn và năm cô dại. Chúng ta nên nhớ, đây chỉ là một dụ ngôn mà thôi, chứ làm gì lại có những cô phù dâu khờ dại đến thế: quần áo chỉnh tề và trang sức lộng lẫy, mà lại quên đổ dầu vào đèn, nhất là đang lúc vui vẻ như vậy mà lại ngủ mệt làm sao được? và giả như không có dầu thì đi chung dưới ánh sáng của những cô bạn khác, chứ ai lại khờ đến nỗi lúc đó còn đi mua dầu?
Cũng thế, làm gì có chuyện nhà trai chậm trễ đến nỗi mãi nửa đêm mới tới? Và khi tới chẳng lẽ không có tiếng kèn, tiếng hát, tiếng nói chuyện để làm cho nhà gái biết đã đến hay sao mà lại phải có tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón”, rồi khi đã vào phòng tiệc, cần gì phải đóng cửa, và chú rể tỏ ra quá khắc nghiệt đối với các cô phù dâu đi mua dầu đến trễ? Xin nhớ, đây chỉ là một dụ ngôn, chứ không có đám cưới nào hay đám rước dâu nào như thế. Dụ ngôn dựa vào tục lệ cưới xin để diễn tả một chân lý hay để dạy một điều gì đó.
Thực vậy, ở đây Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh quen thụôc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy một bài học là phải luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể, nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đón ngày chung cục của thế giới, ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại. Ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần biết rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày tận số, ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên, đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Nói rõ hơn, Kinh Thánh và giáo lý dạy cho chúng ta biết: mỗi người đều có hai kiếp phải sống và được sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu, một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai, một đời sống hành hương và một đời sống quê thật, một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết một lần, đó là điều tất nhiên, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra một lần. Sự chết đến với mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến, và việc Chúa đến này xảy ra bất ngờ, bí mật, trừ một vài trường hợp họa hiếm được Chúa cho biết trước ngày giờ chết, còn hầu hết đều không hay biết gì cả. Thiên Chúa muốn giữ bí mật như vậy để chúng ta luôn sẵn sàng, và do đó cố gắng sống tốt lành, thánh thiện.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người dại. Khôn hay dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? năm cô phù dâu bị gọi là dại, vì đã không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, nghĩa là ơn cứu độ của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng, sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời, sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào.
Chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình còn lâu mới chết: mình còn trẻ, mình khỏe mạnh, còn lâu mới chết, vì không thiếu gì trường hợp “lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời ”, chẳng hạn trong vụ hỏa hoạn thảm khốc tại trung tâm thương mại quốc tế tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 29 tháng mười, hơn 50 người đã thiệt mạng, những người ấy có biết hôm ấy là ngày cuối cùng của mình không? Quả thực, không ai biết trước về ngày giờ chết của mình, không ai phỏng định được tuổi nao mình sẽ từ biệt cõi đời, đó là quyền phép trong tay Chúa. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng. Chúng ta hãy nhớ: đời sống hiện nay, tuy là tạm bợ, nhưng sẽ quyết định đời sống mai sau của chúng ta. Chúng ta phải sống thế nào để đem lại cho mình hạnh phúc ở đời này và cả hạnh phúc đời sau. “Thiên đàng hỏa ngục hai quê. Ai khôn thì về ai dại thì xa”. Được bao nhiêu người khôn biết tìm về quê thật để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu? Đồng thời cũng biết bao người dại đến nỗi phải sa hỏa ngục trầm luân muôn đời? Khôn hay dại là tùy mỗi người chúng ta.
Lời Chúa Và Thánh Thể
Thái độ thức tỉnh luôn là lời nhắc nhở của Đức Giêsu trên hành trình loan báo Tin Mừng. Lời nhắc nhở ấy quy hướng đời sống các tín hữu về Vương Quốc của Thiên Chúa. Sự tỉnh thức, cảnh tỉnh thường xuyên theo Tin Mừng phải như người đầy tớ trung tín tỉnh thức chờ đợi chủ đi ăn cưới về, và nhất là thái độ tỉnh thức trong Tin Mừng hôm nay được ví như mười cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Ông chủ hay chàng rể là nhân vật chính sẽ xuất hiện vào ngày người ta không ngờ, vào giờ người ta không biết. Thiên Chúa cũng sẽ ngự đến trong cuộc đời mỗi người một cách bất ngờ như vậy, vì thế thái độ tỉnh thức là cần thiết để chờ đón Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, thân phận con người dù sớm hay muộn chúng con cũng phải đối diện với ngày được diện kiến Thánh Nhan, ngày đó không được báo trước và ngày ấy đến cũng rất bất ngờ. Khoảnh khắc ấy trong suy nghĩ của chúng con tưởng chừng như rất đáng sợ, nỗi sợ hãi xâm chiếm chúng con khi nghĩ đến điều ấy. Chính trong nỗi sợ hãi ấy hình ảnh Thiên Chúa đã bị bóp méo, từ một Thiên Chúa của lòng thương xót, của sự khoan hồng, nhân hậu bị thay thế bởi hình ảnh Thiên Chúa của sự đoán phạt, của huỷ diệt, chỉ chực chờ giáng xuống loài người những tai hoạ khổ đau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận thấy rằng lời nhắc nhở thức tỉnh không phải là tiếng kêu của tử thần đang kề sẵn lưỡi hái, nhưng hơn bao giờ hết thanh âm của lời thức tỉnh là lời mời gọi đầy yêu thương và khẩn thiết của Thiên Chúa dành cho chúng con. Xin giúp chúng con hiểu rằng lời mời gọi thức tỉnh ấy không nhằm đẩy chúng con vào sự sợ hãi khôn cùng, nhưng mang lại một niềm hy vọng mới, khai mở cho chúng con thực sự thấy được kế hoạch yêu thương Chúa đang thực hiện trên cuộc sống chúng con khi chúng con thực sự hoán cải để cho Chúa biến đổi.
Những cô trinh nữ trong Tin Mừng cũng đã ngủ vùi trong sự chờ đợi mỏi mòn vị Lang Quân đến muộn. Thế nhưng chính trong trạng thái ngủ mê ấy, Lời Chúa đã phân định được cái khôn và cái dại của các trinh nữ. Cái khôn của các trinh nữ khôn ngoan không phải vì các cô không ngủ nhưng là thái độ biết chuẩn bị hành trang cho chuyến hành trình đi đón chàng rể của mình với đèn và dầu đổ đầy bình.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, trong hành trình cuộc sống mưu sinh, chúng con đã không ngừng nỗ lực để thay đổi cuộc sống. Những nỗ lực ấy thật đáng quý và trân trọng vì Thiên Chúa luôn chúc phúc cho những công việc góp phần xây dựng cuộc sống con người. Thế nhưng, chúng con lại thường mang những nỗ lực cá nhân ấy gắn kết với đời sống tâm linh khi chúng con tự hỏi: “Tôi sẽ làm gì để có được hạnh phúc Nước Trời?”. Một cách nào đó, chúng con biến những giá trị thiêng liêng thành món hàng có thể mua bán hay đặt điều kiện để trao đổi bằng vật chất.
Lạy Chúa Giêsu, hằng ngày Lời Chúa luôn mời gọi chúng con tỉnh thức để biết hối cải, sẵn sàng để biết biến đổi thành con người mới, con người của Phúc Âm, thế nhưng chúng con không những không thức tỉnh mà còn tự ru ngủ chính mình, tạo cho mình một lương tâm yên ổn bằng những nghĩa vụ phải thực hiện trong đạo mà loại bỏ điều quan trọng nhất, điều làm nên giá trị của việc đạo đức đó là lòng mến nhiệt thành.
Lạy Chúa, xin đổ đầy bình dầu đức tin của chúng con để ngọn lửa tình mến bùng lên xua tan bóng đêm mê lầm đang ru ngủ con người và tâm hồn chúng con. Xin Lời Chúa trở nên tiếng chuông luôn vang vọng để tâm hồn chúng con luôn tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa trong niềm hy vọng và hân hoan như các trinh nữ chờ đón Tân Lang. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu. Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như 10 trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau: Bá tước Hen-ri-đơ Ba-vi-e, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôn-gang. Một hôm thánh Uôn-gang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ: “Sau sáu…” chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Hen-ri suy nghĩ mãi, không hiểu “Sau sáu…”nghĩa là gì? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng: sau sáu tuần chăng? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sáu sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.
Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn 10 cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho 10 cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Chúng ta hãy nhớ: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.
(Suy niệm của Phêrô Mai Viết Độ, OP)
Một cách thế, Chúa Giêsu thường dùng để giảng dạy dân chúng là dùng các dụ ngôn. Những hình ảnh rất đỗi quen thuộc và gần gũi với họ để nói về nước trời hoặc thời cánh chung. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng hình ảnh các trinh nữ sẵn sàng đón rước Tân lang, để nói với chúng ta đang hiện diện nơi trần thế cũng là thời điểm sẵn sàng để đón Chúa, và ngày ấy không ai biết ngoài Thiên Chúa. Vì thế: “Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Lc 12, 40)
Khi mặc lấy thân phận con người, Chúa Giêsu đã thấy rõ những yếu đuối, bất toàn của nhân thế. Vì vậy Chúa đã có những lời khuyên nhủ, dạy dỗ, hầu mong con người được nên trọn lành. Hôm nay Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn mười trinh nữ để cảnh giác con người: “vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”, (Mt 25, 13). Chấp nhận làm người là chấp nhận bản tình yếu đuối, bất toàn, chưa hoàn thiện nghĩa là còn nhiều thiếu xót. Sống trên đời, con người phải chiến đấu không những mưu mô của ma quỉ, cám dỗ của thế gian mà còn cả với chính bản thân mình. Không vì thế mà ta nản lòng, buông xuôi, chính Chúa Giêsu đã đi qua con đường ấy và Ngài đã chiến thắng khải hoàn. Vậy bước theo chân Chúa chúng ta còn sợ hãi chi.
Chính Chúa Giêsu đã khuyên bảo chúng ta hãy sẵn sàng để đón chờ Ngài trở lại. Chúa Giêsu có ý nhắc nhở ta sửa soạn ngày “con Người sẽ đến”. Chúa nhấn mạnh đến tính cách bất ngờ, Chúa sẽ đến vào lúc chúng ta đang làm việc này, việc nọ, ở ngoài đồng hoặc ở trong nhà, đang làm hay ở bất cứ một nơi nào khác. Cái chết thình lình của những người chung quanh chúng ta là một bằng chứng. Ngài đến với mỗi người và với tất cả mọi người, nhưng Chúa chỉ ban ân phúc vinh quang cho những ai tỉnh thức và tin tưởng nơi Ngài. “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại” (Mt 24, 40). Thật vậy, nếu không biết trước ngay giờ Chúa đến thì còn gì hơn là chúng ta hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng trong mỗi phút giây của cuộc sống.
Hãy tỉnh thức đó là lời mời gọi của Chúa Giêsu qua mọi thời, mọi hoàn cảnh. Tỉnh thức là thái độ luôn giữ tâm hồn trong sạch, biết sống như Đức Kitô đã sống, biết siêng năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và bí tích giao hoà. Trên hết, luôn y thức được mục đích đời mình là sống xứng với phẩm giá cao cả của mình là hình ảnh, và con cái Thiên Chúa. Nhờ đó chúng ta mới có thể luôn sẵn sàng và ra đi để đón nhận hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chia sẻ cơm áo cho những người kém may mắn; nghèo đói, bệnh tật, đó mới là điều Chúa muốn chúng con thực hiện. Qua đó chúng con mới thể hiện được tình lên đới, sự hiệp nhất trong tình bác ái. Hiệp nhất là chúng con biết góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng một gia đình nhân loại, biết yêu thương. Đó mới là tỉnh thức và chờ đợi Chúa đến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến sửa lại trong ngoài chúng con, để chúng con xứng đáng đón mừng ngày Chúa đến với mỗi người chúng con. Và xin giữ hồn chúng con luôn tỉnh thức để chúng con nhận biết Chúa đang đến và ở với chúng con, qua những dấu chỉ của cuộc đời này. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam