Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 47

Tổng truy cập: 1360817

DỤ NGÔN NHỮNG TÁ ĐIỀN SÁT NHÂN

DỤ  NGÔN NHỮNG TÁ ĐIỀN SÁT NHÂN- Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long

Ngữ cảnh

Tác giả Mátthêu đặt bài dụ ngôn này giữa dụ ngôn Hai người con (Mt 21,28-32) và dụ ngôn Bữa tiệc hoàng gia (Mt 22,1-14), trong ngữ cảnh lịch sử và văn chương là các xung đột ngày càng trầm trọng giữa Đức Giêsu và các thủ lãnh dân Israel (x. các chương Mt 21, 22 và 23). Sau khi đã nhấn mạnh rằng những người thu thuế và các cô gái điếm, giống như người con bướng bỉnh rồi ngoan ngoãn trong bài dụ ngôn, đã đón tiếp ý muốn của Chúa Cha được biểu lộ trong lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu (trong khi những người Pharisêu và các thủ lãnh của dân đã từ khước), Đức Giêsu xác định trong một dụ ngôn thứ hai thế nào là tiếp đón Người Con. Người lấy lại đề tài “nói” và “làm” (cc. 28-31) và đề tài cây vả không ra trái (cc. 19-20) để kêu gọi các thủ lãnh thêm một lần nữa, bằng cách làm cho họ hiểu rằng giờ phút cung cấp hoa trái (cc. 34 và 41) đã đến, giờ phút quyết liệt khi mà Thiên Chúa yêu cầu cây nho của Ngài tính sổ.

Bố cục

Bài này có thể chia làm hai phần:

-Dụ ngôn những tá điền sát nhân: Hành động của dân Chúa (21,33-41):

– giới thiệu hoàn cảnh: Vườn nho của ông chủ (c. 33),

– các tá điền sát nhân (cc. 34-39):

. giết các đầy tớ (cc. 34-36),

. giết người con (cc. 37-39).

– cách xử sự của ông chủ (cc. 40-41);

Kết luận từ dụ ngôn: Hành động của Thiên Chúa (21,42-43):

– đối với Đức Kitô (c. 42),

– đối với dân Chúa (c. 43).

Vài điểm chú giải

– Chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho (33): Ở đây cũng như trong Is 5, tác giả liệt kê ra những công việc ông chủ làm cho vườn nho nhằm nêu bật tình yêu cũng như quyền tuyệt đối của ông trên vườn nho. Nó thuộc về ông bởi vì ông đã tạo ra nó từ đầu. Tháp canh là để bảo vệ nó, nhất là vào mùa hái trái. Bồn đạp nho là để trích chất cốt của nho. Các chi tiết nêu rõ sự tương phản giữa tình yêu của ông chủ đối với vườn nho của ông và sự độc ác của các tá điền không cho ông hưởng hoa trái của công sức chăm sóc của ông.

– Gần đến mùa hái nho (34): Mùa hái nho có lẽ gợi đến thời điểm quyết liệt, lúc mà Thiên Chúa yêu cầu dân Ngài phải tính sổ. Nếu dịch sát câu này là “Khi mùa hái nho đã đến gần”, chúng ta gặp lại cùng một động từ như Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu đã dùng (x. 3,2 và 4,17). Vậy dường như Mt muốn ám chỉ rằng thời điểm tính sổ trùng vào thời điểm Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu xuất hiện. Do lời rao giảng của hai vị sứ giả đó của Thiên Chúa, bây giờ Israel phải “sinh hoa quả xứng với lòng sám hối” (3,8).

– Bọn tá điền … đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ (35): Có một sự tiệm tiến trong cách sử dụng các động từ: quan hệ giữa ông chủ và các tá điền các lúc càng trở nên xấu hơn. Việc ném đá các ngôn sứ là một đề tài truyền thống trong Do Thái giáo và Kitô giáo tiên khởi (x. 2 Sb 24,21; Dt 11,37; nhất là Mt 23,37; Lc 13,34).

– Ông lại sai (36): Nếu tác giả Mt nói đến lần sai phái thứ hai này có lẽ vì ông muốn ám chỉ đến việc truyền thống Do Thái phân chia các ngôn sứ ra các ngôn sứ trước và các ngôn sứ sau.

– Sau cùng (37): Công thức này có ý nói rằng đối với các tá điền, đây là cơ hội cuối cùng để họ có thể hoán cải.

– Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi (38): Theo ba Tin Mừng Nhất Lãm, các tá điền tức khắc nhận ra người thừa tự (Dt 1,2; Rm 8,17). Tội ác của họ không phải là hậu quả của một sự lầm lẫn bi đát, hoặc của một tình trạng thiếu lòng tin nơi Vị sứ giả: Họ hành động với ý thức hoàn toàn về mức độ trầm trọng của hoàn cảnh. Họ đã từ khước Thiên Chúa nơi bản thân Đấng Ngài sai đến.

– Quẳng ra bên ngoài vườn nho (39): Chi tiết này ám chỉ đến việc Đức Giêsu bị giết chết bên ngoài tường thành Giêrusalem.

– Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên … (42): “Loại bỏ” (apodokimazô) là một động từ chuyên môn để nói về việc một người có thẩm quyền tuyên bố một đồng bạc là vô giá trị vì bị coi là giả mạo. “Lại trở nên” là một thái bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là: “Thiên Chúa đã làm cho lại trở nên”. Đây là một hành vi tuyệt vời của Thiên Chúa toàn năng.

– một dân (43): Từ ngữ này ở số đơn nên không thể có nghĩa là “các dân nước” tức là “các dân ngoại”, nhưng có nghĩa là một tập thể đang được thành lập và phát triển: ta có thể nghĩ đến “Dân thánh” trong Xh 19,6. Dân thánh được tạo thành bởi tất cả những ai mang hoa trái của Nước Trời, nghĩa là những người đón tiếp Người Con và làm thành dân mới của Thiên Chúa quanh Người Con ấy (x. Rm 9,25; 1 Pr 2,10).

Ý nghĩa của bản văn

Đức Giêsu kể cho các đối thủ của Người một câu truyện khác.

* Dụ ngôn những tá điền sát nhân: Hành động của dân Chúa (33-41)

Trong một bài ca với giọng cảm động, ngôn sứ Isaia đã ví dân Israel với một vườn nho được Thiên Chúa chăm sóc, bảo vệ. Ngài hy vọng sẽ nhận được hoa quả ngon ngọt: “Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại. Vậy bây giờ, dân Giêrusalem và người Giuđa hỡi, xin phân xử đôi đàng giữ tôi với vườn nho, có làm gì hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?… Vậy bây giờ tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi: hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo” (Is 5,2b.3.4a.5). Rào giậu (x. Tv 80,13-14) là để bảo vệ vườn nho khỏi bị thú hoang và trộm phá hoại. Bồn đạp nho thường được đục khoét vào đá, gồm có hai chậu, một chậu chứa các chùm nho để nghiền, chậu kia hứng nước cốt nho chảy ra. Tháp canh là để đuổi chim và trộm cướp. Chủ vườn nho đã làm tất cả những gì cần cho vườn nho.

Các câu đầu của bài dụ ngôn Đức Giêsu kể được trực tiếp vay mượn từ bản văn trên. Nhưng bài ca của Isaia chỉ là một khởi điểm mà thôi, câu truyện được kể trong dụ ngôn được triển khai theo một chiều hướng khác. Ý tưởng căn bản vẫn còn đó: Israel không sinh hoa trái nên đã đáng bị kết án. Nhưng nay bài dụ ngôn đi sang một chiều hướng mới do chi tiết vườn nho được giao cho các tá điền canh tác: Đức Giêsu kể một truyện mới về “vườn nho cũ”. Trong bài ca Isaia, người chủ vườn nho (Thiên Chúa) và vườn nho (Israel) liên kết mật thiết với nhau: Thiên Chúa trồng vườn nho, Ngài thất vọng về kết quả nên đe dọa phá hủy. Trong bài dụ ngôn, vườn nho không phải là Israel mà là Nước Thiên Chúa (c. 43). Hình ảnh vườn nho-Nước Thiên Chúa đã được Thiên Chúa cưu mang trong quá khứ của Israel, nghĩa là Thiên Chúa đã muốn giao phó Nước Thiên Chúa (= kế hoạch cứu độ và ân sủng của Ngài được tượng trưng bằng giao ước) cho Israel lịch sử, nhưng Israel đã thất trung với chương trình cứu độ này khi vi phạm giao ước đã được các ngôn sứ thay nhau đến nhắc lại.

Dân Israel đã không nghe các sứ giả của Thiên Chúa, họ đã cứng lòng lại (x. Gr 7,24-26). Sau này, Đức Giêsu cũng nối tiếp chuỗi những lời kể ra sự bất phục tùng của dân Thiên Chúa (x. Mt 23,34-36). Và nếu họ đã không nghe các ngôn sứ, họ cũng sẽ chẳng nghe Con Thiên Chúa. Ngược lại, họ đối xử với Người Con còn độc ác hơn nữa, bởi vì họ không chỉ bắt Người Con ấy mà giết đi như đã giết các đầy tớ, họ còn quẳng Người ra bên ngoài vườn nho để xử Người cách ô nhục nhất: họ đã đóng đinh Người.  

Vườn nho đã được giao cho các tá điền để họ mang lại hoa trái. Các hoa trái của vườn nho trong dụ ngôn là những hoa trái của Nước Thiên Chúa trong thực tế. Các tá điền là “dân Thiên Chúa”. Dân đầu đã thất bại, họ đã không mang lại hoa trái, họ đã làm cho ông chủ hoàn toàn thất vọng. Một dân khác sẽ được nhận lấy vườn nho, nghĩa là Nước Thiên Chúa; dân này sẽ không làm cho ông chủ phải thất vọng, họ sẽ mang lại hoa trái mà dâng cho Thiên Chúa. Các hoa trái ấy là sự công chính vượt xa sự công chính của các kinh sư và Pharisêu (Mt 5,20). 

Câu 40 bắt đầu với một quy chiếu về thời gian. Ông chủ trở về; chúng ta sắp được thấy chuyện gì xảy ra. Tác giả lại dùng Isaia (5,3-4) mà thách thức các thính giả bằng một câu hỏi để phán đoán. Câu trả thật rõ ràng: “Ông sẽ tru diệt bọn chúng” (c. 41). Vườn nho sẽ được giao cho những tá điền khác. Các nhà lãnh đạo Israel vừa tuyên bố chính án quyết trên mình.

* Kết luận từ dụ ngôn: Hành động của Thiên Chúa (42-43)

Sự từ khước của dân cũ đã tới cao điểm khi họ giết Người Con; còn dân mới sẽ được thiết lập trong máu Đức Giêsu, máu Giao ước (26,28). Đức Giêsu hỏi bằng giọng châm biếm: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này sao?” (c. 42). Dĩ nhiên các đối thủ của Người phải biết nhờ Kinh Thánh. Nhưng nay Kinh Thánh trở thành một tòa án phúc thẩm trong cuộc tranh luận với các nhà lãnh đạo Do Thái. Các Kitô hữu xác tín rằng Kinh Thánh làm chứng về Đức Kitô. Câu trích kia lấy từ Tv 117,22-23 theo Bản LXX nói một cách bóng bảy về một tảng đá: tảng đá bị loại vì vô giá trị lại trở thành đá tảng góc tường nâng đỡ cả tòa nhà. Giáo Hội thấy đây là hình ảnh báo trước điều huyền diệu Thiên Chúa thực hiện: Đấng Mêsia bị loại trừ đã trở nên Đức Chúa khi sống lại từ trong kẻ chết (Cv 4,11; 1 Pr 2,7).

Trên cái nền đen tối này với việc kết án Israel, lời Thiên Chúa hứa vẫn nổi lên rạng rỡ:kế hoạch Thiên Chúa muốn là nhân loại mang hoa trái không hề bị vĩnh viễn thất bại với sự suy thoái của Israel. Một dân mới sẽ được thành lập, họ sẽ được giao phó Nước Thiên Chúa cho và họ sẽ mang hoa trái. Nhưng các hoa trái này sẽ không phải là kết quả của nỗ lực con người, mà sẽ là “hoa quả của Thần Khí” (Gl 5,22).

+ Kết luận

Dụ ngôn Những tá điền sát nhân này đã có trong TM Mc, trong đó vườn nho là biểu tượng truyền thống để gọi Israel, nên câu truyện có ý nghĩa biểu tượng (Mc 12,1-12; Mt 21,33-43; x. Is 5,1-10). Tác giả Mt đã nêu bật khía cạnh lịch sử cứu độ của câu truyện này. Thời kairos, thời phán xét, đã gần kề (21,34.40). Các nhà lãnh đạo Do Thái hiểu rõ là Đức Giêsu nói về họ.

Dụ ngôn này cho chúng ta hiểu rõ cách tác giả giải thích sự chống đối đang nhắm vào Đức Giêsu. Sự loại trừ Người phải chịu ở trong cùng chiều hướng với tình cảnh của các ngôn sứ. Bởi vì Đức Giêsu là sứ giả cuối cùng và cao quý nhất của Thiên Chúa, vì là Con Thiên Chúa, hậu quả của việc loại trừ Người sẽ rất tàn khốc. Đối với tác giả, xác tín này đã được xác nhận trong những cuộc tàn phá Giêrusalem vào năm 70. Ngài cũng thấy được các dấu vết của chương trình cứu độ của Thiên Chúa ngay giữa lòng bi kịch: Nếu Israel đã bỏ mất cơ hội trả lời lại sứ điệp của Thiên Chúa mời gọi hoán cải để được cứu độ, Dân ngoại sẽ đáp trả. Vì thế vai trò ưu tuyển của các tá điền sẽ được chuyển cho những người khác, những người này sẽ làm sản sinh hoa trái dồi dào.

Vị trí của các Kitô hữu là ở đó. Sứ điệp của Thiên Chúa hôm nay đang được gửi đến cho họ, và Thiên Chúa cũng đang chờ đợi họ đáp lại.

Gợi ý suy niệm

-Thiên Chúa đã tạo dựng loài người với tình yêu thương âu yếm sâu xa. Trong nhân loại này, Ngài đã chọn ra một nhóm người mang những lời Ngài hứa, họ có nhiệm vụ làm cho Ngài hiện diện giữa nhân loại. Ngài đã ân cần nuôi dưỡng, chăm sóc họ, và sai họ đi làm chứng về tình thương của Ngài. Đáng tiếc, thay vì sản sinh những hoa quả ngon ngọt của lòng trung thành và của sự bình an, họ đã tạo ra sự hận thù, ghen ghét, bạo lực.

-Thiên Chúa tiếp tục phái các sứ giả đến: Ngài ân cần và kiên trì tìm cách cứu lấy dân Ngài. “Dân” đây cũng có thể là một tập thể như giáo xứ, gia đình hay những cá nhân (mỗi người trong chúng ta). Trong thực tế, Thiên Chúa chỉ dừng lại khi cái chết đến đóng ấn trên một cuộc đời vĩnh viễn từ khước tình yêu của Ngài.

-Tội nặng nhất của các tá điền là từ chối đón tiếp các ngôn sứ và Người Con mà Chúa Cha sai phái đến. Tuy nhiên, Đức Giêsu cho biết tội ấy bắt nguồn từ chỗ họ muốn chiếm lấy vườn nho. Mỗi lần chúng ta muốn coi Nước Thiên Chúa là chuyện riêng của chúng ta, mỗi lần chúng ta nhắm một thành công tưởng như là để phụng sự Thiên Chúa nhưng thật ra là để thỏa mãn nhu cầu chúng ta là tỏ ra mình quan trọng, là tạo một ảnh hưởng, khi đó chúng ta đang chiếm hữu vườn nho của Thiên Chúa, bởi vì thật ra chúng ta đang phục vụ chính mình dưới cái vỏ bề ngoài là sự tận tụy và sự đạo đức.

-Không có gì có thể ngăn chặn hành động uy quyền của Thiên Chúa trong thế giới. Bởi vì Thiên Chúa đủ quyền năng để đưa mọi chuyện (kể cả điều ác) vào việc thực hiện các kế hoạch của Ngài. Trong đời sống chúng ta, nếu chúng ta sẵn sàng dâng cho Thiên Chúa tất cả những gì làm nên con người chúng ta, tất cả những gì chúng ta có, Thiên Chúa sẽ có thể làm những điều kỳ diệu xuyên qua chúng ta. Trong lịch sử các thánh, Thiên Chúa đã tỏ ra thích dùng những giới hạn của con người để thực hiện những chương trình vĩ đại trong Giáo Hội.     

CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN- Năm A

VƯỜN NHO CỦA CHÚA- Lm Giuse Đinh lập Liễm

DẪN NHẬP.

Ngày xưa Thiên Chúa đã chọn Israel là dân riêng của Ngài và coi dân Ngài như “vườn nho” được Ngài săn sóc cẩn thận. Ngài chỉ mong cho vườn nho đem lại nhiều hoa quả tốt tươi, nhưng vườn nho chỉ đem lại những trái nho dại đắng đót. Cả những người trồng nho cũng phản loạn, bất trung trong việc canh tác ,  nên Thiên Chúa đã trao vườn nho cho người khác.

Ngày nay, chúng ta cũng được coi là vườn nho mới của Chúa. Tất cả những gì Chúa ân cần săn sóc ban cho đều là hồng ân của Chúa. Chúng ta được tự do hành động, sắp xếp công việc theo ý ta, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm ấy.  Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng làm việc cho tốt để đáp lại tình thương của Chúa đối với chúng ta.

Sách có chữ rằng :”Tiền xa ký phúc, hậu xa khả giới” : Xe trước đổ xe sau phải coi chừng. Dân Do thái ngày xưa đã bất trung nên đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Ngày nay chúng ta là dân Do thái mới được Thiên Chúa săn sóc giữ gìn, chúng ta phải tránh xa vết xe cũ kẻo phải hư đi, nhưng phải trung thành với những hồng ân Chúa ban, bằng cách làm cho ơn Chúa được sinh hoa kết quả dồi dào trong đời sống; đồng thời cũng phải biết chia sẻ cho người khác nữa.

TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1 : Is 5,1-7.

Tiên tri Isaia đã dùng “bài ca cây nho” để nói lên tình yêu của Thiên Chúa đã yêu dân Chúa như thế nào và dân Chúa đã đáp lại ra sao.  Trong dụ ngôn này, “vườn nho” tượng trưng cho dân Israel. Thiên Chúa đã yêu thương và săn sóc dân Chúa như thế nào, Ngài chỉ muốn cho nó sinh ra  những hoa trái ngon ngọt. Nhưng than ôi ! trước sự yêu thương và săn sóc của Thiên Chúa, dân Chúa vẫn bất trung, bạc tình bạc nghĩa giống như vườn nho  chỉ sinh ra những trái nho đắng đót.

Trước sự bất trung ấy, Thiên Chúa định bỏ mặc dân Israel cho quân thù giấy xéo, phải làm tôi ngoại bang. bị đi lưu đầy.  Thực tế đã chứng minh : những sự việc này đã xẩy ra trong lịch sự dân Israel.

+ Bài đọc 2 : Pl 4, 6-9.

Gặp những hoàn cảnh khó khăn, nhiều người tỏ ra xao xuyến ngã lòng, thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Philipphê hãy trút bỏ mọi lo âu và hãy tin tưởng vào Chúa để được bình an trong tâm hồn. Ngài đưa ra cho tín hữu bí quyết để được sự bình an ấy :

– Hãy cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh :”Anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bầy trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”.

– Hãy sống với lương tâm trong sáng và hãy đem ra thực hành những điều đã được học hỏi nơi thánh Phaolô.

+ Bài Tin mừng : Mt 21, 33-43.

Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn này để cảnh giác các nhà lãnh đạo Do thái : vua chúa, luật sĩ, biệt phái và những tư  tế. Thiên Chúa đã giao dân Chúa – là cây nho qúi – cho những nhà lãnh đạo Do thái, nhưng những người này lại khai thác cây nho để hưởng lợi riêng, bách hại những tiên tri, những sứ giả của Thiên Chúa và giết cả Con  của Người.

Đồng thời Chúa Giêsu cũng cảnh cáo dân Do thái : đáng lẽ dân Do thái phải biết ơn Chúa khi gọi họ vào Nước Trời, và đáp lại họ phải có một đời sống tốt, như một phần hoa lợi nộp cho Thiên Chúa là chủ vườn nho.  Nhưng chẳng những họ không làm thế mà còn giết luôn cả Chúa Giêsu, Con duy nhất của Thiên Chúa.

Do đó, Chúa Giêsu kết luận :”Nước Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.

THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Hãy sinh hoa trái tốt

TÌM HIỂU DỤ NGÔN.

Tục lệ trồng nho ở Palestine.

Palestine là một vùng đồi núi thích hợp cho việc trồng nho, nên trồng nho  là một nghề rất quen thuộc.  Chúa Giêsu muốn dùng vườn nho để làm dụ ngôn. Vườn nho thường có hàng rào làm bằng hàng rào gai dầy để ngăn chặn heo rừng vào phá và kẻ trộm có thể vào ăn trộm nho.  Mỗi vườn nho đếu có hầm ép rượu gồm hai cái chậu đục từ đá hay xây bằng gạch, cái này đặt cao hơn cái kia và nối với nhau bằng hai cái rãnh.  Nho được ép từ chậu cao  sẽ chảy xuống chậu thấp.  Cái tháp trong vườn được dùng cho hai mục đích. Nó dùng làm chòi canh kẻ trộm khi mùa nho chín và làm chỗ cho người làm việc trong vườn nho.

Những người có nhiều đất thì thường đem đất đai cho mướn, giống như ở Việt nam xưa cho tá điền phát canh thu tô.  Tiền cho mướn phải trả bằng ba cách : bằng tiền, bằng số trái cây nhất định hoặc bằng số bách phân của hoa mầu.

Hành động của những người trồng nho mướn cũng không phải là việc bất thường. Trong thời Chúa Giêsu, xứ Palestine ở vào thời kinh tế bất ổn, người làm công bất mãn và làm loạn . Hành động của những tá điền tìm giết con chủ vườn không phải là chuyện không xẩy ra.

Ý nghĩa dụ ngôn.

Bài Tin mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn  những người làm vườn nho giết người, để trình bầy về sự tương phản giữa tình yêu của Thiên Chúa với sự độc ác của những kẻ bất trung vô ơn bội nghĩa với tình thương yêu ấy.

Theo từng chi tiết, vườn nho ám chỉ Nước Thiên Chúa hay là Nước Trời được trao cho dân Do thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là các tiên tri, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến đều bị ngược đãi hoặc bị giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, Nước Thiên Chúa được chuyển sang cho một dân tộc khác là Hội thánh, một dân phổ quát và Công giáo,  sẽ lan tràn trên khắp thế giới.

Ý nghĩa câu chuyện thật rõ ràng đối với thính giả Do thái thời Chúa Giêsu.  Thiên Chúa đã chọn người Do thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết chết các tiên tri của Thiên Chúa và đóng đinh chính Con của Ngài chết trên thập giá.

Rồi Thiên Chúa kêu mời những người Do thái, là chúng ta đây, làm những tá điền mới trong vườn nho của Ngài, làm công dân mới trong Nước Thiên Chúa. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải nộp một loại “tiền thuế”, một loại “dịch vụ”, một loại “nợ” về ân huệ gia nhập dân Chúa.

NHỮNG BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.

Đọc dụ ngôn này, chúng ta có thể rút ra được mấy bài học để thực hành trong đời sống hằng ngày :

– Lòng yêu thương và kiên nhẫn của Thiên Chúa.

– Sự tự do của con người trong cuộc sống.

– Phải sinh hoa trái tốt trong đời sống.

Lòng yêu thương và kiên nhẫn của Thiên Chúa.

Suy nghĩ về thái độ của ông chủ vườn nho đối với các tá điền,  ta thấy chủ vườn nho đã cố gắng tới ba lần để giúp các tá điền thay đổi đường lối. Ông sai hết người đại diện này đến người đại diện khác đến với họ.  Ông không đến báo thù ngay khi người đại diện ban đầu bị ngược đãi, ông cho những người tá điền hết cơ hội này đến cơ hội khác để đáp ứng đòi hỏi của ông.  Khi ông thấy rằng có kiên nhẫn hơn nữa cũng vô ích, ông ta mới ra tay xét xử  đám này và bắt họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.   Cuối cùng, ông chủ lấy lại vườn nho và trao lại cho người khác.

Thiên Chúa cũng cư xử với chúng ta y như thế.  Cha chúng ta trên trời vô cùng kiên nhẫn.  Nhưng rồi sẽ đến lúc sự kiên nhẫn của Chúa sẽ nhường bước cho sự xét xử.  Và chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

Sự tự do của con người.

Ông chủ vườn nho đã sắp xếp mọi thứ : có hàng rào, có hầm ép rượu và tháp canh để giúp cho công việc được dễ dàng. Ông chủ không những giao công việc để làm, mà còn giao phương tiện để làm nữa.  Ông chủ vườn để những người tá điền làm công việc theo sở thích của mình và chỉ đòi họ canh tác để đến mùa thu hoa lợi, chứ không phải là người độc đoán, ông như một vị chỉ huy khôn ngoan trao công tác rồi để cho họ làm.

Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tin của ông chủ. Những người tá điền cố tình thực hiện kế hoạch chống lại và không vâng phục chủ mình.

Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.

Phải làm nảy sinh ra hoa trái tốt.

  1. a) Những ơn lành đã nhận.

Tất cả mọi cái chúng ta có là do Chúa mà có, ngay cả con người chúng ta, mạng sống chúng ta. Chúng ta phải nói như thánh Phaolô :”Tất cả là hồng ân”.  Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đặt một câu hỏi khiến mọi người chúng ta phải suy nghĩ :”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận” (1Cr 4,7).

Thật vậy, những ân phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết xử dụng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người Chúa ban cho một vốn liếng khác nhau không ai giống ai : người mười nén, người năm nén, người một nén… nhưng tất cả đều giống nhau ở chỗ là phải cố gắng làm sinh lời tùy theo sức của mình. Chúa chỉ đòi chúng ta cố gắng chứ không đòi kết quả.

Tóm lại, tất cả đều do Chúa ban. Ta đúng là một vườn nho được Chúa chăm sóc ân cần.

Chúa chờ đợi gì nơi ta ?

Chúa muốn ta nhận biết tất cả là bởi Chúa. Thế mà chúng ta vô tình coi những thứ đó là của riêng ta. Như thế, chúng ta cũng giống như những tá điền muốn chiếm đoạt vườn nho của chủ.  Nhiều khi chúng ta chỉ biết dùng những thứ ấy cho riêng mình mà không nghĩ tới tha nhân, Giáo hội và xã hội.

Ngoài ra, trong việc làm sinh hoa kết quả trong đời sống, tâm lý thông thường con người ta là muốn làm việc lớn, được nhiều lợi nhuận, được nhiều người biết đến. Nhưng trước mặt Chúa, mọi việc dù lớn dù nhỏ không quan hệ, miễn là chúng ta làm việc cho Chúa, vì Chúa và làm hết khả năng của mình. Trong cuộc sống của chúng ta, chẳng mấy khi có việc lớn mà chỉ là những việc nhỏ, nhưng trung thành  chu toàn được những việc nhỏ lại là việc khó như ngạn ngữ La tinh có câu :”Communia, non communiter” : làm công việc tầm thường nhưng bằng một cách phi thường.  Thánh Têrêsa Hài đồng đã làm gương cho chúng ta về vấn đề này.

Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết không làm những việc nhỏ cho Ngài. Nếu không trung thành trong những việc nhỏ thì không ai tin tưởng mà trao cho chúng ta việc lớn hơn.  Kinh thánh nói :”Ai trung thành trong việc nhỏ mọn cũng sẽ trung thành trong việc lớn”.

Truyện : Vị thiên thần dễ tính.

Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền năng của Thiên Chúa.  Vị thiên thần đồng ý.  Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện :”Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”.  Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng.  Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được.  Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khỏe cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khỏe ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.

Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tốt những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm :”Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành  những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thủy, một người cha hiền tận tụy với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.

Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng CN, năm A, tr 212-213)

  1. b) Lãnh nhận và cho đi.

Ta nhắc lại một lần nữa lời thánh Phaolô :”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận”(1Cr 4,7). Phải, tất cả những gì ta đang có là do ta lãnh nhận từ tay Chúa, một cách trực tiếp hay gián tiếp. Nhưng không chỉ nhận, ta còn phải biết cho, bởi vì, trên căn bản, ta nhận không phải chỉ cho riêng mình mà còn cho người khác nữa.

 Con sông chỉ nhận nước vào mà không cho nước thoát ra thì không thể nhận thêm nước được, nó sẽ trở thành cái ao tù.  Nó phải phân phối nước đi thì nó mới trở nên trong sạch được bằng cách nhận thêm nước khác. Nước Biển Chết là một thứ nước mặn chát, hôi thối vì chỉ nhận nước tư øcác sông chảy vào mà không có lối thoát ra.

Có một mối tương quan biện chứng giữa nhận và cho : đã nhận thì phải cho đi, cho đi thì mới nhận vào được,  nếu chỉ nhận mà không cho đi thì bị tắc nghẽn. Con người cũng thế, nếu chỉ biết nhận lãnh cho mình mà không biết chia sẻ cho nguời khác thì người đó chỉ biết co cụm lại, thay vì làm giầu thì chỉ làm cho mình nghèo đi. Những người chỉ biết co cụm lại không thông ra cho người khác thì không bao giờ có niềm vui vì người ta chỉ có thể có niềm vui khi mở lòng ra với người khác.

 Truyện : Không biết chia sẻ.

Một người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn đó là điều mà con người may mắm này đã cảm nhận được.

Tuy nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi hỏi, đòi hỏi thách thức nhất của người nghèo  bỗng nhiên trở thành giầu có là : hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc, bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ, trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó là thói thường của người đời.

Kẻ trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy, lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi người. Nhưng dần dà con số người đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng, cho đến một lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên. Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn nữa.

Một hôm, ông đề nghị với vợ :

– Hay là ta dọn đi một nơi khác.

Người vợ lắc đầu bảo :

– Mình có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.

Nhưng người chồng giải thích :

– Mình sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết mình sẽ đi đâu, và sẽ cố gắng sống một cách đơn giản để không ai để ý đến mình nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho biết mình đã trúng số.

Người vợ thắc mắc :

– Còn tiền bạc thì mình để ở đâu?

Chồng trả lời dứt khoát :

– Mình sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể không hề trúng số, chỉ đem ra dùng  khi nào cần thiết mà thôi.

Thế là cả gia đình đã dọn đến một nơi khác như dự kiến : họ lén lút ra đi nên không ai biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn quá nhỏ nên không biết việc gì đã xẩy ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột.  Ngày qua ngày, chính họ cũng quên rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết thì tất cả mọi tài sản đều mất hết. Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để trao lại tài sản cho chúng.

Câu chuyện ngụ ngôn trên đây nhắc cho chúng ta lời khuyên của Chúa Giêsu  :”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không”.  Tất cả những gì Chúa ban cho ta, không phải chỉ dành cho riêng mình nhưng còn phải cho kẻ khác nữa.  Chúng ta chỉ có được niềm vui khi chúng ta biết mở lòng ra với người khác. Còn niềm vui nào lớn hơn khi niềm tin được sinh lợi bằng những hoa trái của yêu thương, của phục vụ. Còn niềm vui nào lớn hơn khi chúng ta cảm nhận được Chúa đang đến qua từng cố gắng sống niềm yêu thương chia sẻ của chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống.

home Mục lục Lưu trữ