Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 92

Tổng truy cập: 1356708

ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT

ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT (*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Phục Sinh năm B này có chung một chủ đề: Đức Giê-su Ki-tô là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta.

Cv 4: 8-12     

Khi bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, thánh Phê-rô giải thích cho những người đã kết án tử Đức Giê-su trước đây, rằng họ đã loại bỏ Đấng mà chỉ ở nơi Ngài con người mới gặp được ơn cứu độ.

1Ga 3: 1-2          

Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan nhắc nhở rằng được liên kết với Đức Giê-su, chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa và được bảo đãm dự phần vào số phận vinh quang của Ngài.

Ga 10: 11-18

Tin Mừng hôm nay giới thiệu Đức Giê-su là vị Mục Tử nhân lành, chỉ mình Ngài mới có thể dẫn chúng ta vào ràn chiên của Thiên Chúa, vì Ngài hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.

BÀI ĐỌC I (Cv 4: 8-12)

Việc thánh Phê-rô bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng là kết quả của một sự kiện mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật vừa qua: sau khi chữa lành một người què trước cửa Đền Thờ, vị thủ lãnh của các Tông Đồ đã ngỏ lời với đám đông kinh ngạc. Những lời phát biểu của thánh nhân đã làm bối rối các vị lãnh đạo Giê-ru-sa-lem và chắc chắn gây bực tức cho nhóm Sa-đu-xê-ô.

Chúng ta biết rằng nhóm Sa-đu-xê-ô không tin vào sự phục sinh của thân xác, vì cho rằng quan niệm nầy xuất hiện rất muộn thời trong niềm tin Ít-ra-en. Theo họ, sự tinh tuyền đạo lý đòi buộc người ta phải gắn bó với niềm tin thời kỳ trước lưu đày, ở đó không có dấu vết nào của niềm tin vào sự sống lại mai sau. Vì thế, họ không thể nào chấp nhận khi nghe nói về việc Đức Giê-su sống lại.

Thánh Phê-rô và thánh Gioan bị bắt cùng nhau ở Cửa Đền Thờ khi hai ngài lên Đền Thờ cầu nguyện và chữa lành người què. Cả hai ngài bị giam trong tù suốt đêm. Sáng hôm sau, họ bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, tức Tòa Thượng Thẩm Do thái, để bị chất vấn và tra hỏi.

*1.Nơi diễn ra phiên tòa.

Hai vị Tông Đồ bị điệu ra trước những quan tòa mà, trước đây vài tuần, chính họ đã kết án tử Đức Giê-su: Thượng Tế đương nhiệm Cai-pha chủ trì Thượng Hội Đồng, Thượng Tế mãn nhiệm Kha-nan là bố vợ của Thượng Tế Cai-pha, cùng với các kỳ mục và các kinh sư.

 Phiên tòa diễn ra cũng một nơi trước đây đã xử Đức Giê-su. Vào lúc Đức Giê-su bị bắt, trời đã tối nên các thành viên Thượng Hội Đồng tụ họp vội vàng trong dinh Thượng Tế Cai-pha. Dinh Thượng Tế Cai-pha có lẽ đã gợi cho thánh Phê-rô nhớ lại kỷ niệm đau buồn của mình. Nhưng thật là khác biệt biết bao giữa thái độ hèn nhát của người môn đệ sợ hãi vào đêm bi thảm đến nỗi đã chối thầy mình đến ba lần và cái dũng khí của vị Tông Đồ được biến cố Phục Sinh soi sáng và được đầy tràn Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần.

*2.Chứng từ của thánh Phê-rô trước Thượng Hội Đồng.

Giờ của sự thật đã điểm. Thánh Phê-rô phục hồi quyền của Đức Giê-su mà họ đã kết án trước đây, buộc tội những kẻ giết Ngài và công bố sự phục sinh của Đấng chịu đóng đinh. Thánh nhân dạn dĩ phát biểu: “Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng” (4: 10a).

 Thật ra, người ta tra hỏi các ngài là nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà hai ông đã chữa lành người què nầy. Thánh Phê-rô quả quyết: “Chính nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người đứng trước mặt quý vị đây được lành mạnh” (4: 10b) Và vị Tông Đồ còn cất cao giọng hơn nữa: “Đấng ấy là viên đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (4: 11).

Thật thú vị biết bao khi thánh Phê-rô công bố sứ điệp Phục Sinh trước Thượng Hội Đồng nầy đã lăng nhục và bêu xấu Đức Giê-su. Thật tốt đẹp biết mấy khi những người đại diện chính thức của dân Chúa chọn nghe trực tiếp lời loan báo ơn cứu độ từ nay đạt được nhờ Đấng mà họ đã giết chết. Khi trích dẫn Kinh Thánh: “Viên đá mà thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118), vị Tông Đồ minh chứng rằng chân lý thuộc về phía của mình, bởi vì các ngôn sứ đã báo trước rằng chính họ là những thợ xây nhà Ít-ra-en đã loại bỏ đá tảng góc tường nầy.

Hơn nữa, sự hiện diện của người què được chữa lành trước tòa án nầy không là lời chứng hùng hồn rằng Đức Giê-su là nguồn ơn cứu độ sao? Phải nói rằng chính nhờ sự hiện diện của người được chữa lành nầy mà hai vị Tông Đồ được cứu: “Họ lại thấy người đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào” (Cv 4: 14). Cuối cùng, hai ông được thả ra, vì Thượng Hội Đồng sợ đám đông dân chúng: “Ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra” (Cv 4: 21). Nhưng chẳng bao lâu sau, thánh Phê-rô và thánh Gioan bị bắt một lần nữa, lần nầy hai ông bị đánh đòn và cấm không được nói đến danh Đức Giê-su; nhưng các ngài không thể nín lặng được và sẽ không bao giờ còn nín lặng.

BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 1-2)

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Gioan tập trung vào một chủ đề duy nhất: “ơn làm con Thiên Chúa”. Người Ki-tô hữu là con Thiên Chúa ngay từ bây giờ, nhờ tình yêu của Chúa Cha. Nhưng ơn nghĩa tử nầy sẽ thăng hoa viên mãn chỉ khi chúng ta nên giống hoàn toàn với Con của Ngài vào ngày Ngài trở lại trong vinh quang.

*1.Ơn làm con Thiên Chúa (3: 1):

Thiên Chúa là tình yêu, đó là chủ đề hàng đầu của thần học Gioan. Thánh Gioan ngây ngất trước điều kỳ diệu nầy: “Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (3: 1a). Đây không chỉ là tước hiệu mà Ngài ban tặng cho chúng ta, nhưng là một thực tại thâm sâu: “Thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (4: 1b). Theo văn hóa Do thái, một danh xưng diễn tả một thực tại tận căn của con người: như vậy, Chúa Cha yêu thương chúng ta đến mức Ngài liên kết chúng ta vào Con của Ngài khi gọi chúng ta là con của Ngài. Phẩm vị nầy làm cho chúng ta khác với thế gian: “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người” (3: 1c). Lời phát biểu nầy vang dội những lời của Đức Giê-su cho các môn đệ của Ngài trong Tin Mừng Gioan: “Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15: 18).

Toàn bộ bức thư nầy được cấu trúc theo lối phản đề: cuộc sống người Ki tô hữu đối lập với cuộc sống của những kẻ cứng lòng tin hay những người lạc giáo. Ở đây, lối phản đề bao phủ một vùng rộng lớn: thế gian, được hiểu theo nghĩa tiêu cực, là thế giới của tội lỗi, bởi vì “thế gian đã không biết Thiên Chúa”.

 *2.Sự biến đổi trong tương lai (3: 2):

Đoạn trích nầy có thể được đặt nhan đề: “Từ phép Thánh Tẩy đến sự biến đổi làm con Thiên Chúa của chúng ta”. Chúng ta đã được biến đổi rồi bởi cuộc sống làm con Thiên Chúa của chúng ta, nhưng đây chỉ là giai đoạn đầu tiên. Ơn làm con Thiên Chúa được thành toàn chỉ khi chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài. Điều nầy sẽ chỉ xuất hiện vào thời chung cuộc “khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. Thánh Phao-lô cũng gợi lên sự biến đổi tương lai nầy trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 20-21). Thật ra, theo thánh Gioan, ngay từ bây giờ sự biến đổi này đã được ươm mầm rồi ở nơi chức năng làm con Thiên Chúa của chúng ta: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa”.

TIN MỪNG (Ga 10: 11-18)

Hình ảnh người mục tử với đàn chiên rất quen thuộc với dân Do thái vốn đã là dân du mục sống nghề chăn nuôi. Cựu Ước đã phác họa Đức Chúa là vị Mục Tử lý tưởng. Tước hiệu này diễn tả hai khía cạnh của mối quan hệ giữa Thiên Chúa với dân Ngài: uy quyền nhưng từ bi nhân hậu. Nhưng tước hiệu mục tử nầy được dành riêng đặc biệt hơn cho Đấng Thiên Sai trong tương lai, nhất là vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, vào thời điểm của những tai họa lớn lao: Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon đánh chiếm, Đền Thờ bị phá hủy và dân chúng bị dẫn đi lưu đày. Trong hoàn cảnh bi thảm đó, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tiên báo rằng rồi đến một ngày Thiên Chúa sẽ đòi lại đoàn chiên của Ngài khỏi những mục tử chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm gì đến đoàn chiên để giao lại cho Tân Đa-vít, không là vua, nhưng là mục tử đích thật, tận tâm tận lực chăn dắt chúng (Ed ch. 34). Chính dụ ngôn của vị ngôn sứ nầy là nguồn cảm hứng cho diễn từ về “Người Mục Tử nhân lành” của Đức Giê-su.

Đức Giê-su công bố diễn từ về “Người Mục Tử nhân lành” tại Giê-ru-sa-lem sau khi Ngài cho một anh mù được sáng mắt. Trong bài diễn từ nầy, Đức Giê-su tự nhận mình là người mục tử đích thật, còn giai cấp lãnh đạo Do thái, họ là “những kẻ chăn chiên thuê”,“quân trộm cướp”, “những kẻ tiếm quyền mục tử”. Những người lãnh đạo Do thái đã trục xuất con chiên lẽ loi cô độc khỏi ràn chiên, tức là anh mù được sáng mắt, trong khi Đức Giê-su đã thu nhận anh, dẫn đưa anh vào ánh sáng đức tin… Như vậy chân dung của người mục tử nhân lành nêu bật sự đối lập nầy.

Trong ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành”. Vào mỗi năm Phụng Vụ, chúng ta đọc một đoạn trích từ diễn từ của Đức Giê-su về “Người Mục Tử nhân lành” thuộc chương 10 Tin Mừng Gioan: Vào năm A, phần đầu (10: 1-10); vào năm B, phần thứ hai (10: 11-18); và vào năm C, phần cuối cùng (10: 27-30).

Trong phần thứ hai (10: 11-18) mà chúng ta đọc hôm nay,  Đức Giê-su vạch rõ cho thấy Ngài là “Mục Tử nhân lành” như thế nào qua những phẩm chất như sau:

– “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.

– “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi”.

– “Chỉ một đoàn chiên và một mục tử”.

-Ý nghĩa về cái chết sắp đến của Ngài.

*1. “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10: 11-13):

Ngay từ đầu đoạn văn này, Đức Giê-su xác định phẩm chất quan trọng nhất của người mục tử nhân lành là “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (10: 11). Tiếp đó, Đức Giê-su vạch rõ sự khác biệt giữa người mục tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên với kẻ chăn chiên thuê chỉ lo cho sự an toàn của mình mà “không thiết gì đến chiên” (10: 13). Đức Giê-su xác định ngay từ đầu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (10: 11), đồng thời Ngài cũng ám chỉ đến giai cấp lãnh đạo Do thái là kẻ chăn chiên thuê, họ chỉ lo làm sao giữ cho được địa vị, chức tước, quyền hành của mình mà không quan tâm đến hoàn cảnh sống của đoàn chiên.

*2.“Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (10: 14-15):

Theo Kinh Thánh, động từ “biết” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng, không chi diễn tả sự hiểu biết của khối óc, nhưng còn sự chuyển động dạt dào của con tim. Sự kiện người mục tử “biết” từng con chiên cấu thành niềm tin tưởng phó thác của đoàn chiên vào người mục tử của mình. Đức Giê-su cho chúng ta nguyên mẫu mối quan hệ tuyệt vời này: “Như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha”. Đó cũng là khuôn mẫu mà Ngài muốn thiết lập với những người thuộc về Ngài: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi”. Để thực hiện mối tương giao tận mức như thế, Đức Giê-su phải trả bằng giá máu của Ngài. Đây là ý nghĩa căn bản của dụ ngôn.

*3.“Chỉ một đoàn chiên và một mục tử” (10: 16):

Niềm hy vọng lớn lao chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh: thời kỳ của Đấng Thiên Sai sẽ là thời kỳ hiệp nhất dân Thiên Chúa. Các ngôn sứ đã ôm ấp giấc mơ nầy sau khi dân Do Thái bị phân chia thành hai vương quốc (thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên). Những người lưu đày ở Ba-by-lon (thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên) đặt trọn niềm hy vọng của mình vào sự can thiệp của Đấng Thiên Sai, Ngài đến thực hiện công việc khó khăn này, đó là quy tụ mọi con cái Ít-ra-en tản mác khắp nơi. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a hứa: “Đức Chúa sẽ quy tụ đoàn chiên của Ngài còn sót lại từ khắp mọi miền” (23: 3). Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng hứa: “Sẽ chỉ có một mục tử duy nhất cho chúng hết thảy” (37: 24). Sự hiệp nhất sẽ là dấu chỉ của kỷ nguyên Thiên Sai như bước khởi đầu của sự quy tụ cánh chung vĩ đại vào thời sau hết, khi muôn dân nước đều nghe tiếng gọi của Đức Chúa, vì Ít-ra-en là ánh sáng muôn dân.

Khi công bố Ngài kiến tạo sự hiệp nhất của đoàn chiên, Đức Giê-su khẳng định Ngài chính là Đấng Thiên Sai. Nhưng Đức Giê-su không chỉ nghĩ đến những con chiên của nhà Ít-ra-en chưa nhận biết Ngài, Ngài còn nghĩ đến cuộc hoán cải của thế giới lương dân. Khía cạnh Giáo Hội được diễn tả qua hình ảnh về một ràn chiên không còn được rào chắn vây bọc chung quanh, nhưng mở rộng ra với toàn thể thế giới. Chính Giáo Hội có sứ mạng hiệp nhất đoàn chiên trong cùng một ràn chiên và dưới cùng một vị mục tử, Đấng đã sinh ra trong hang lừa máng cỏ và đã hiến dâng mạng sống mình cho đoàn chiên.

*4.Ý nghĩa về cái chết sắp đến của Đức Giê-su (10: 17-18):

Cuối cùng, Đức Giê-su kết thúc đoạn văn này và cũng toàn bộ bài diễn từ này khi khẳng định rằng việc Ngài hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên là do ý muốn của Chúa Cha: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại” (10: 17).

Đó là lý do tại sao Đức Giê-su nghiêm túc đối mặt với cuộc Khổ Nạn sắp tới của mình, nhưng hoàn toàn độc lập đối với những kẻ gây ra cái chết của Ngài, tức là các vị lãnh đạo Do thái hay viên Tổng Trấn Rô-ma: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”. Đồng thời, Đức Giê-su cũng báo trước cuộc Phục Sinh của Ngài: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”. Sở dĩ Ngài phải chịu như thế chỉ vì: “Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (10: 18). Vì thế, không có chuyện Đức Giê-su hóa giải sự bất hòa giữa Thiên Chúa với nhân loại bằng giá máu của Ngài vì tội lỗi của con người.

Đức Giê-su công bố những lời này khi Ngài tham dự lễ Lều vào mùa thu tại Giê-ru-sa-lem. Những lời công bố này sẽ vang dội xuyên suốt thời gian sắp tới và sẽ được hiện thực khi Ngài tham dự lễ Vượt Qua vào mùa xuân sang năm tại Giê-ru-sa-lem. Đó là cuộc Vượt Qua của Đức Giê-su từ Tử Nạn đến Phục Sinh và Vinh Thăng.

 (*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH- B

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI CHÚNG TA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Sợi chỉ đỏ

– Bài đọc I (Cv 4,8-12) : Phêrô và Gioan làm chứng trước Thượng Hội Đồng về việc chữa một người què à người ấy được chữa lành nhờ Danh Đức Giêsu.

– Bài Tin Mừng (Ga 10,11-18) : Mục tử thật và kẻ chăn thuê à Mục tử nhân lành yêu thương đàn chiên, biết từng con chiên.

– Bài đọc II (1 Ga 3,1-2) : Tình yêu của Chúa Cha đã cho chúng ta thành con Thiên Chúa.

*I. Dẫn vào Thánh lễ

Mỗi năm, Giáo Hội dành ngày Chúa nhật thứ IV mùa Phục sinh để nhắc cho chúng ta biết Đức Giêsu là mục tử nhân lành rất yêu thương chúng ta là những con chiên của Ngài. Ngài chăm sóc chúng ta và dẫn chúng ta đến cuộc sống hạnh phúc muôn đời.

Ngày hôm nay cũng là ngày Giáo Hội trên toàn thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu.

Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu biết hơn về tình yêu của Ngài ; đồng thời chúng ta cũng cầu nguyện cho có nhiều người trẻ hiến thân làm Linh mục để tiếp nối sứ mạng Đức Giêsu là làm mục tử chăm sóc đoàn chiên Ngài.

*II. Gợi ý sám hối

– Chúng ta là những con chiên được Đức Giêsu là mục tử nhân lành dẫn dắt. Nhưng nhiều khi chúng ta không ý thức tình thương Chúa luôn bao bọc cuộc sống chúng ta.

– Đôi khi chúng ta còn tỏ ra là những con chiên bướng bỉnh không đi theo sự dẫn dắt của Chúa.

– Chúng ta ít quan tâm đến việc khuyến khích và nuôi dưỡng các ơn thiên triệu.

*III. Lời Chúa

*1. Bài đọc I: Cv 4,8-12

Sau khi Phêrô chữa cho một người què được khỏi, ông bị bắt dẫn ra trước Thượng Hội Đồng Do thái giáo cùng với bạn đồng hành là Gioan.

Trước Thượng Hội Đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh thánh Đức Giêsu.

Nhân dịp đó, Phêrô giảng về Đức Giêsu : Ngài đã bị các thủ lãnh do thái giết chết, nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại và tôn vinh Ngài lên đến tuyệt định vinh quang. Nhờ danh Ngài mà mọi người được ơn cứu độ.

*2. Đáp ca: Tv 117

(như Chúa nhật I Ps)

Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.

*3. Tin Mừng: Ga 10,11-18

Đức Giêsu xưng mình là mục tử tốt lành. Ngài cũng phân biệt mục tử tốt lành và người chăn chiên thuê :

– Những đặc tính của Người mục tử tốt lành : a/ thí mạng sống vì chiên ; b/ biết các con chiên và được các con chiên biết ; c/ muốn quy tụ những con chiên khác ở ngoài vào đàn chiên mình, để rồi sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên.

– Kẻ chăn chiên thuê chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Hắn ưu tiên lo cho bản thân nên khi gặp nguy hiểm thì bỏ mặc đàn chiên để chạy trốn.

*4. Bài đọc II: 1 Ga 3,1-2

Thánh Gioan nói đến mức độ to lớn vô cùng của tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu :

– Hiện nay Thiên Chúa cho chúng ta làm con của Ngài.

– Sau này Ngài còn cho chúng ta được giống như Ngài.

*IV. Gợi ý giảng

* 1. Mục tử tốt lành

Dưới thời bạo Chúa Nêrô bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao tín hữu đã chết dưới tay ông vua điên loạn, bạo tàn.

Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin ? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao ? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi :

– Quo vadis, Domine ? Thưa Thầy, Thầy đi đâu ?

– Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.

Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên, và để chịu đóng đinh thập giá như Thầy.

“Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên” (Ga.10,11). Đức Giêsu ví mình như một mục tử tốt lành khác với người chăn thuê, vì người đã dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Cái chết của Người không bất ngờ, cũng không đầu hàng bạo lực, nhưng là một cái chết tự hiến. Đức Giêsu chết để nói nên lời yêu thương. Một tình yêu tột đỉnh, yêu cho đến cùng. Thánh Gioan viết : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga.15,13).

Chính tình yêu đã tạo nên mối dây gắn bó giữa chủ chiên và từng con chiên, khiến Người nói : “Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta” (Ga.10,14-15). Đó là sự hiểu biết nhau sâu xa, sự trân quí giữa mục tử và đoàn chiên.

Đức Giêsu là mục tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ là phụ tá giúp chăn dắt đoàn chiên của Người. Mọi mục tử phải noi gương Người, dám chết cho đoàn chiên được sống. Phêrô là người mục tử đầu tiên. Phêrô có thể trốn bắt bớ, tù tội, chết chóc. Nhưng chính khi đổ máu, Phêrô đã giữ vững đoàn chiên. Cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục hơn bất cứ lời rao giảng nào : “Thầy làm vững đức tin của con. Rồi đến lượt con, con sẽ làm vững đức tin của anh em con”. Các mục tử tiếp bước Phêrô vui lòng nằm xuống để nên nhân chứng, và củng cố niềm tin cho các anh em.

Dụ ngôn người “Mục tử tốt lành” cho thấy tình yêu sâu sắc của Thiên Chúa.

– Người yêu thương mỗi người một cách cá biệt, không yêu cách chung chung.

– Người yêu thương vô điều kiện, ngay cả khi chúng ta lầm đường lạc lối.

– Người yêu thương bằng tình yêu vui mừng, chứ không la rầy khiển trách khi tìm thấy chiên lạc.

Ngày nay, Đức Giêsu vẫn cần những vị mục tử tốt lành lo cho đoàn chiên trên thế giới. Người rất cần các bạn trẻ hiến thân cho sứ mạng mục tử này. Người mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng trái tim yêu thương, để thấy những cơn đói Lời Chúa, đói tình thương, đói của ăn, đói ý nghĩa cuộc sống. Người kêu gọi chúng ta hãy tha thiết xin Cha cho nhiều mục tử tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn, và thánh đức hơn. Những mục tử sẵn lòng âm thầm chết từng ngày cho đoàn chiên.

*

Lạy Chúa, xin gởi đến cho chúng con những mục tử có trái tim của Chúa : luôn say mê Thiên Chúa và yêu thương con người, có tình bạn thân thiết với Chúa, dám hy sinh cho đoàn chiên, dẫn đưa chúng con về với Cha là nguồn hạnh phúc thật của chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

* 2. Ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu sĩ

a/ Đối với người Việt chúng ta thì hình ảnh “chiên và người chăn chiên” không phải là một hình ảnh gần gũi, vì xứ sở chúng ta không thuộc vùng Cận Đông với nghề chăn nuôi chiên cừu như Pa-lét-tin xưa. Hơn nữa trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện “đàn chiên với mục tử”, thì e rằng chúng ta bị coi là những người lạc hậu ! Nhưng nếu đi sâu vào ý nghĩa và biểu tượng tôn giáo của hình ảnh “chiên và mục tử” thì chúng ta lại chẳng thấy lạc hậu tí nào. Vì chưng những người tin ở Thiên Chúa đều xác tín rằng họ luôn được Thiên Chúa và Chúa Ki-tô quan tâm và tận tình chăm sóc, không chỉ về phương diện tâm linh mà về mọi phương diện con người, không chỉ ở đời sau mà ở cả đời này lẫn đời sau. Mối tương quan gắn bó giữa người chăn và con chiên là hình ảnh sống động, cụ thể của mối tương quan giữa Thiên Chúa và người tín hữu.

b/ Những nét đặc trưng của Vị Mục Tử nhân lành

    Đức Giêsu đã công bố Người là Vị Mục Tử nhân lành, với những nét đặc trưng sau đây :

     * Vị Mục tử nhân lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận : biết họ muốn gì ? họ cần gì ? họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào ?

      * Vị Mục tử nhân lành luôn đi đầu, đi trước tức hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, tức đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Vị ấy sẽ đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát và cỏ xanh, để chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Thậm chí vị Mục tử sẽ hy sinh mạng sống vì chiên.

c/ Lý do Hội Thánh lấy ngày chủ nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ :

    Bản tin Hiệp Thông (tiếng nói của Hội đồng Giám Mục Việt Nam) số 11, ra ngày 15 tháng 02 năm 2002 (trang 8-9) cung cấp cho chúng ta những con số cụ thể và đáng chúng ta suy nghĩ trong ngày hôm nay :

(1) : Tổng dân số của Việt Nam hiện là : 80.489.857 người (76.683.203 dân tộc kinh + 3.806.654 dân tộc thiểu số).  (2) : Tổng số công giáo của 25 giáo phận : 5.324.492 người (5.065.105 dân tộc kinh + 259.387 dân tộc thiểu số). (3) : Tổng số linh mục của 25 giáo phận : 2.526 Lm (2.133 triều + 393 dòng). (4) : Tổng số tu sĩ trong 25 giáo phận : 11.282 Ts (1.524 nam + 9.758 nữ). (5) : Tổng số chủng sinh của 25 giáo phận : 1.765 Cs (1.044 đang học + 318 học xong + 403 dự bị). (6) : Tổng số giáo lý viên của 25 giáo phận : 45.858 Glv (671 giáo phu + 219 có lương + 44.968 không có lương).

Nếu chia bình quân số giáo dân cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 2.107 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 31.865 người. Nếu chia bình quân số giáo dân cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 472 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ  phải phục vụ 7.134 người. Nếu chia bình quân tổng số người VN không công giáo cho tổng số người VN công giáo thì một người VN công giáo phải giúp cho 14 người VN không công giáo biết Chúa và gia nhập Giáo hội.

Nguyên nhìn vào những con số trên, chúng ta cũng đã thấy được nhu cầu to lớn về nhân sự của Giáo hội Việt Nam trong sứ mệnh sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng mà Giáo hội đã nhận được từ chính Chúa Giê-su. Đã đành rằng ngày nay trách nhiệm sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng không chỉ của riêng các linh mục, tu sĩ mà của mọi Ki-tô hữu. Nhưng các linh mục, tu sĩ vẫn là lực lượng quan trọng nhất, là lực lượng nòng cốt và đầu tầu trong lãnh vực này. Thế nhưng ơn gọi linh mục, tu sĩ  càng ngày càng giảm sút trong các Giáo hội địa phương, thậm chí giảm trầm trọng trong một số Giáo hội. Riêng tại Việt Nam, thì tình hình có mấy nét riêng sau đây : (1) Việc thanh niên nam nữ muốn vào chủng viện, dòng tu còn gặp nhiều cản trở từ những qui định của Nhà Nước. (2) Việc các Giám mục, Dòng tu gửi các linh mục, tu sĩ đến nơi cần gửi, đặc biệt đến vùng sâu vùng xa, cũng chẳng dễ dàng gì. (3) Ơn gọi tu trì đã có dấu hiệu sút giảm ở thành thị, nhất là ở các quận nội thành.

Vì thế cho nên chúng ta không chỉ cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo hội -nhất là Giáo hội Việt Nam- nhiều linh mục, tu sĩ tài đức thánh thiện, nhiệt thành mà chúng ta còn phải nài xin Thiên Chúa tạo thuận lợi cho các ứng sinh linh mục tu sĩ được đào tạo đến nơi đến chốn và cho các linh mục tu sĩ có điều kiện cần thiết để thực thi sứ vụ của mình. (Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội).

*3. “Tình yêu, con đường duy nhất để đến với thế giới bất tín“.

“… Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy nhất để đến với thế giới những người không tin : đó là tình yêu. Không ai có thể sống thiếu tình yêu. Trước tấm thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch, vì do nhân danh một tư tưởng cao cả của nhân loại mà con người đã khước từ Thiên Chúa, mọi Kitô hữu, mọi Linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu (…) thánh Phanxicô đệ Salê đã nói : “Tất cả đều dành cho tình yêu, đều ở trong tình yêu, đều vì tình yêu và đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo hội”. Nhưng cái chân lý cao cả ấy hầu như đã bị lãng quên, đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chận. Chỉ có người nữ tu dòng kín trẻ trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ấy trong nét tươi tắn của thái độ Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hôn thê của Đấng chịu đóng đinh và đã vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính thị cũng dâng hiến cho Người tình yêu vì tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phụ. “Trong trái tim giáo hội tôi sẽ là tình yêu” thế là đã rõ, một xác quyết như thế đụng chạm tới tất cả mọi người ở thế kỷ XX của chúng ta vì chúng ta không biết yêu và được yêu trong chân lý (…)

Thánh Nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm vang đích thực của Trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Dù ta là ai, ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đã trao ban sự sống cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người, Người là Đường là Sự Thật và là sự sống. Công đồng  Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử gia mai ngày có thể thắc mắc “Giáo hội thời Công đồng  đã làm gì ?” Đức Phaolô VI đã trả lời họ ngay từ ngày 14.9.1965 : “Giáo hội yêu, giáo hội yêu, yêu bằng trái tim mục tử, yêu bằng trái tim đại kết, yêu bằng trái tim rộng mở đón nhận mọi người kể cả những người bắt bớ giáo hội”. Ta nên tìm lại cái trực cảm quan trọng ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng là trực cảm của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux : “Giáo hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu”. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.

Thánh nữ Têrêxa đã khơi gợi hàng ngàn, hàng ngàn ơn gọi làm Linh mục trên khắp thế giới. Những Linh mục ấy đã tìm thấy nơi thánh nữ một tình yêu tuyệt đối dành cho Đức Giêsu và tình yêu Giáo hội, một ý nghĩa sâu xa trong kinh nguyện và trong sứ mệnh truyền giáo trên khắp hoàn cầu, một sự kết hợp bằng chiêm niệm và hoạt động, một mẫu gương dùng con đường tình yêu bé nhỏ và phó thác, đường nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay, thánh nữ Têrêxa vẫn tiếp tục làm phong phú tác vụ của các Linh mục, đặc biệt là những Linh mục trẻ bị cuốn hút bởi sứ điệp tình yêu giữa lòng Giáo hội (…)

Tất cả hành trình đức tin thâu tóm trong đức cậy và đức ái. Niềm tin là niềm hy vọng của tình yêu, tin là hy vọng vào tình yêu. Phải chăng vai trò đã được quan phòng của sứ điệp của thánh nữ Têrêxa, ở ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ 3, chính là trả lại cho ta tình yêu và niềm hy vọng ? Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Tình yêu là để yêu thương. Trong lãnh vực tình yêu, thánh nữ Têrêxa là bậc thầy linh đạo trong tình yêu, không có dè dặt, không có tính toán, không có trung dung, không có quân bình vì con người chẳng bao giờ có thể yêu  Thiên Chúa cho xứng với tình Người yêu ta (…).

Một nữ tu hỏi thánh nữ Têrêxa : “Chị nói gì với Đức Giêsu ?” Chị thánh trả lời : “Em không nói gì hết, em yêu Người”, Chỉ tình yêu là quan trọng. (Đức Hồng Y P.Poupard, tài liệu cho ngày ơn thiên triệu. Trích dẫn bởi Fiches dominicales, năm B)).

*4. “Trong trái tim Giáo hội, tôi sẽ là Tình yêu

(Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng, bản văn được trích dẫn trong tài liệu của Ủy ban quốc gia về ơn thiên triệu).

“… Sau cùng con đã tìm thấy an nghỉ… tìm trong thân thể mầu nhiệm của Giáo hội, con chẳng thấy mình trong bất cứ chi thể nào đã được thánh Phaolô miêu tả, đúng hơn con muốn có mặt trong tất cả những chi thể ấy… Đức Ái đã cho con chìa khóa ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu giáo hội có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, chi thể quan yếu nhất, cao cả nhất không thể thiếu được, con hiểu đó là Trái Tim và Trái Tim đó cháy đỏ Tình yêu. Con hiểu rằng chỉ có Tình yêu mới làm cho các chi thể của Giáo hội hoạt động và nếu tình yêu vụt tắt, các Tông đồ sẽ thôi không loan báo Tin mừng, các thánh tử đạo sẽ từ chối đổ máu… Con hiểu rằng Tình yêu phủ trùm lên mọi ơn gọi và tình yêu là tất cả, bao gồm mọi không gian và mọi thời gian. Tắt một lời, Tình yêu là vĩnh cửu !

Thế là, trong niềm vui tột đỉnh, con kêu lên : “Ôi Giêsu, Tình yêu của con… ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là Tình yêu !…

Phải rồi, con đã tìm được vị trí của con trong Giáo hội. Chỗ ấy, ôi Lạy Chúa, chính Chúa đã ban cho con… Trong Trái  Tim Giáo hội, thưa Mẹ, con sẽ là Tình yêu… như thế con sẽ là tất cả… như thể giấc mơ của con đã thành hiện thực !!!…”

*V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế : Anh chị em thân mến, hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và tu sĩ, chúng ta cầu xin Chúa sai đến đoàn chiên Chúa những chủ chăn tốt lành như lòng Chúa mong muốn.

  1. Chúng ta hãy cầu xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / đều tích cực quan tâm đến việc nâng đỡ, đào tạo và chọn lựa những người xứng đáng với ơn gọi làm Linh mục và tu sĩ.
  2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả những ai đang thi hành trách nhiệm làm Mục tử trong Hội thánh / biết noi gương Đức Giêsu là mục tử tốt lành / sẵn sàng hiến thân chăm lo cho đoàn chiên Chúa đã trao phó cho mình.
  3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của Chúa / và quảng đại đáp trả tiếng gọi ấy / để dấn thân vào đời sống giáo sĩ và tu sĩ
  4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người làm cha mẹ trong họ đạo chúng ta / biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần Tin mừng / để cống hiến cho Hội thánh những mầm giống ơn gọi tốt lành.

Chủ tế  : Lạy Chúa, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, xin cho chúng con biết rộng rãi góp phần vào việc đào tạo Linh mục và tu sĩ, bằng lời cầu nguyện, và bằng sự giúp đỡ nhiệt tình. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

*VI. Trong Thánh lễ

– Kinh Tiền Tụng : Nên dùng Kinh Tiền Tụng Phục sinh V, trình bày Đức Giêsu là Linh mục và của lễ.

– Trước kinh Lạy Cha : Ngày xưa Đức Giêsu đã bảo “Chúng con hãy xin chủ ruộng đến gặt lúa của Ngài”. Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa Cha ban cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi Linh mục để làm việc trên cánh đồng truyền giáo, để cho “Nước Cha” mau trị đến.

*VII. Giải tán

Rời Nhà thờ để trở lại với cuộc sống, chúng ta sẽ thấy còn biết bao người lương chưa biết Chúa, chưa yêu mến tôn thờ Ngài. Vậy anh chị em hãy tiếp tục cầu nguyện cho có thêm ơn gọi Linh mục làm việc trên cánh đồng truyền giáo.

home Mục lục Lưu trữ