Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 61
Tổng truy cập: 1359338
ĐỨC KITÔ: ÁNH SÁNG MANG ƠN CỨU ĐỘ
ĐỨC KITÔ: ÁNH SÁNG MANG ƠN CỨU ĐỘ
Tin mừng Ga 1: 6-8.19-28: Ánh sáng mà Gioan làm chứng chính là Đức Giêsu Kitô. Bởi Gioan nhận ra rằng, sự xuất hiện của ông cũng chỉ là sự xuất hiện bắt nguồn tự con người, vì thế ông không thể là ánh sáng, bởi tự con người không thể kiến tạo nên nguồn sáng...
***
Trước thềm năm mới 2018 và chuẩn bị đón Giáng sinh 2017, Thành Phố Hồ Chí Minh đã đầu tư hơn một triệu Đô la Mỹ trên một thủa đát 5 mẫu tây làm thành công viên ánh sáng lộng lẫy muôn mầu. Quả thật, với sự tiến bộ khoa học người ta đã xử dụng đến ánh sáng để tạo ra muôn điều kỳ diệu, và có thể nói thời đại hôm nay là thời đại của ánh sáng, càng ngày môn khoa học nghiên cứu về về đặc điểm của ánh sáng càng dẫn đưa con người vào trong sự kỳ ảo huyền diệu của ánh sáng điều mà cách đây 300 năm nhà khoa học Newton khi khám phá về ánh sáng và ứng dụng của nó đã không ngờ tới, đến nỗi người thời hôm nay cảm thấy cuộc sống sẽ mất hết lý thú nếu không còn được thưởng những sự kỳ thú mà ánh sáng tạo ra.
Thế nhưng, cho dẫu ánh sáng mang nhiều niềm vui cho cuộc sống đương đại, con người vẫn còn ố đầy dẫy nỗi u buồn và nhận ra rằng đàng sau hào quang mà ánh sáng mang lại là một bóng đêm dày đặc đang nhốt kín cuộc sống. Vì thế, khi tận hưởng những ứng dụng công nghệ của ánh sáng, con người như cố thoát ra khỏi bóng tối đang kềm hãm niềm hạnh phúc, nhưng những cố gắng như vô vọng, càng tìm đến với những ánh sáng do khoa học kỹ thuật mang tới con người càng cảm thấy trống rỗng, và bóng đêm vẫn che kín cuộc đời.
Vậy đâu là ánh sáng thật để dẫn đưa con người tìm thấy niềm vui đích thật. Gioan Tẩy giả đã chỉ cho chúng ta thấy nguồn sáng mang lại cho chúng ta niềm vui: Đức Giêsu Kitô. Quả thật, Gioan có được người đương thời đón nhận như bậc tôn sư, ông cũng chỉ khiêm tốn công nhận mình không là ánh sáng mà chỉ là người làm chứng về ánh sáng.
Ánh sáng mà Gioan làm chứng chính là Đức Giêsu Kitô. Bởi Gioan nhận ra rằng, sự xuất hiện của ông cũng chỉ là sự xuất hiện bắt nguồn tự con người, vì thế ông không thể là ánh sáng, bởi tự con người không thể kiến tạo nên nguồn sáng. Chỉ có Đức Kitô, Đấng tự Thiên Chúa mà đến mới có thể là ánh sáng mang lại ơn giải thoát cho con người. Ánh sáng được kiến tạo nơi Chúa Giêsu chính là lượng từ bi và hay thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, vì yêu thương, Đức Kitô đã từ bỏ ngài trời để đến với con người hầu dẫn đưa con người trở về với nguồn sống đích thật. Cho nên, sự xuất hiện của Chúa Giêsu chính là để phá tan bóng đêm đang bóp chết niềm vui của cuộc sống, bóng đêm của ghen ghét hận thù, bóng đêm của ích kỷ tham lam…
Đức Kitô là hiện thân yêu thương, của sự bao dung và tha thứ, của sự cảm thông, và đó chính là ánh sáng mà nhân loại đang cần tới, vì chỉ có yêu thương mới đem lại bình an, chỉ có lòng bao dung mới kiến tạo được an vui. Quả thật, Satan đã gieo vào trong thế gian bóng tối hận thù, Đức Kitô đến xua đuổi bóng tối bằng trái tim yêu thương. Vâng, chỉ có tình yêu đến từ Đức Kitô mới có sức mạnh để tha thứ và nhờ đó con người được cứu độ.
Cho dẫu ơn cứu độ đã được trao ban, nhưng thế giới hôm nay vẫn còn ngập tràn bóng tối, bởi con người vẫn còn chất đầy sự đố kỵ ghét ghen. Bởi thế, là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi tiếp tục công việc của Gioan, làm chứng cho ánh sáng tình yêu của Chúa Giêsu để nhân loại bớt khổ đau, để không còn những tiếng khóc ai oán nhói lòng vì sự bất công, của lòng hận thù.
Lạy Chúa Giêsu, được dự phần vào sự sống của Chúa, xin cho chúng con phản chiếu ánh sáng tình yêu qua đời sống yêu thương, luôn rộng lòng tha thứ. Ước mong cho những ai đang sống trong bóng tối thất vọng gặp được ánh sáng của niềm hy vọng qua đời sống chứng tá của chúng con. Amen.
19.Chúa Nhật 3 Mùa Vọng
(Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Vọng đều ngân vang cùng một sứ điệp mời gọi các tín hữu: “Hãy vui lên, Chúa sắp đến gần rồi”.
Is 61: 1-2a, 10-11
Bài Đọc I loan báo Tin Mừng cho những ai nghèo khổ, bất hạnh, bị giam cầm… biết rằng năm hồng ân của Chúa sắp đến rồi.
1Tx 5: 16-24
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy vui luôn mãi và không ngừng tạ ơn Chúa vì những thiên ân mà họ đã lãnh nhận được.
Ga 1: 6-8, 19-28
Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tẩy giả, thánh nhân khẳng định rằng Đấng mà muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa anh em.
BÀI ĐỌC I (Is 61: 1-2a, 10-11)
Vào Chúa Nhật II Mùa Vọng trước đó, chúng ta đã đọc lời khẩn nguyện của vị ngôn sứ thời lưu đày. Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay, chúng ta đọc bài thánh thi của vị ngôn sứ thời hậu lưu đày. Đây là bài Thánh Thi Chúc Tụng được cộng đoàn xướng đáp.
Bài thánh thi này được đặt vào bối cảnh vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người lưu đày ở Ba-by-lon lần đầu tiên được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Tác giả của bài thánh thi nầy là một vị ngôn sứ nặc danh sống ở giữa những người hồi hương tại Giê-ru-sa-lem. Ông thường được gọi với biệt danh là I-sai-a đệ tam thời hậu lưu đày (Is 56-66) để phân biệt với hai vị tiền nhiệm của ông là vị ngôn sứ nặc danh khác thời lưu đày được gọi với biệt danh là I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và ngôn sứ I-sai-a đệ nhất thời tiền lưu đày (Is 1-39).
Bài Đọc I của Chúa Nhật III Mùa Vọng trích dẫn hai phần khác nhau của bài thánh thi này (Is 61: 1-11): đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a) là phần mở, và đoạn trích thứ hai (61: 10-11) là phần kết.
1. Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a):
Trong đoạn trích thứ nhất, tác giả biện minh cho sứ vụ ngôn sứ của mình:
“Thần Khí của Đức Chúa, là Chúa Thượng ngự trên tôi,
vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi” (61: 1).
Ông đã được Thần Khí Chúa xức dầu tấn phong. Đây là cuộc xức dầu tấn phong thiêng liêng bởi vì không có nghi thức xức dầu tấn phong cho các ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đã chọn các ngôn sứ của Ngài và ủy quyền cho họ nói thay cho Ngài.
Ông có sứ mạng là “loan báo tin mừng cho những người nghèo hèn”(tác giả lấy lại diễn ngữ “tin mừng” của vị tiền nhiệm của mình là I-sai-a đệ nhị được trích trong Bài Đọc I của Chúa Nhật II Mùa Vọng trước đó). Tin Mừng nầy có thể được tóm lược như sau: “Phúc thay những người nghèo khổ!”, âm vang một trong những mối phúc thật của Đức Giê-su.
Những người hồi hương thật sự vỡ mộng trước thực trạng muôn vàn khó khăn trong công cuộc tái thiết quê hương. Họ là những người nghèo hèn với tấm lòng tan nát. Vị ngôn sứ gọi họ là “kẻ bị giam giữ” cho dù hiện nay họ đã được phóng thích. Qua những từ ngữ đó, ông muốn nhấn mạnh nỗi cùng cực khốn khổ của họ mà hình ảnh sau đó được giải thích rõ hơn: “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”, nghĩa là năm mà những người nô lệ được phóng thích, mọi nợ nần được tha bổng, đất đai được phân phối lại. “Năm hồng ân” được cử hành cứ năm mươi năm một lần. Năm Hồng Ân này thật ra khai triển “năm sa-bát”, năm được cử hành cứ bảy năm một lần (Năm Hồng Ân là năm thứ 50 của 7 x 7 = 49). Năm hồng ân biểu tượng một lý tưởng về sự công bình xã hội.
Đây là những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Kinh Thánh gọi là “anawim”. Danh xưng “anawim” bao hàm những người nghèo khổ vật chất, nhưng khiêm hạ và tín thác vào Thiên Chúa. Đặc ngữ này mang một nét nghĩa căn bản là “còng lưng xuống”, còng lưng xuống dưới gánh nặng của sự nghèo khó, của sự nhục nhã, nhưng cũng “sấp mình xuống” vì thái độ tôn giáo của họ, tin tưởng phó thác hoàn toàn vào lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đây là một khái niệm căn bản của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chính những kẻ hèn mọn nầy mà Đức Giê-su dành trọn niềm ưu ái cho họ. Một trăm năm sau đó, một vị ngôn sứ khác, Xô-phô-ni-a, đã tiên báo cuộc thăng tiến của những người nghèo nầy:
“Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ;
chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa.
Số dân Ít-ra-en còn sót lại
sẽ không làm chuyện tàn ác bất công,
cũng không ăn gian nói dối
và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt.
Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi
mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ nữa” (Xp 3: 12-13).
2. Đoạn trích thứ hai (61: 10-11).
Trong đoạn trích thứ hai, cộng đoàn xướng lên những lời hân hoan chúc tụng:
“Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Thiên Chúa,
nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao!” (61: 10a).
Lý do của những lời hoan ca nầy được diễn tả qua hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất là “trang phục”: Giê-ru-sa-lem được mặc hồng ân cứu độ, được khoắc áo choàng công chính như chàng rể chỉnh tề khăn đóng, tựa cô dâu điểm trang lộng lẫy. Hình ảnh thứ hai là “khu vườn”: Giê-ru-sa-lem được sánh ví với khu vườn được Thiên Chúa chăm sóc tận tình để “trở hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân”.
3. Ý nghĩa của việc nối kết hai đoạn trích nầy:
Khi đặt hai đoạn trích đầu và cuối bài thánh thi nầy bên cạnh nhau, Phụng Vụ mời gọi chúng ta gẫm suy về mối liên hệ sâu xa giữa “ơn cứu độ” mà Đấng Mê-si-a hứa ban và “vẻ đẹp lộng lẫy” của Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa nơi dân Thiên Chúa. Sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh Giê-ru-sa-lem thiên quốc như Tân Nương được điểm trang lộng lẫy nhờ máu Con Chiên.
Cách thức tiếp cận lịch sử như vậy có thể hiểu được nhờ những đau khổ của nhóm nhỏ trung thành còn sót lại, những “người nghèo hèn” nầy mà nỗi khốn khổ của họ lôi kéo lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Và chính qua họ mà lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trải dài cho đến tận cùng thế giới.
BÀI ĐỌC II (1Tx 5: 16-24)
Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa lô-ni-ca là bản văn cổ xưa nhất của văn chương Ki-tô giáo. Bức thư nầy được viết vào mùa đông năm 50-51. Thánh Phao-lô đã thiết lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào mùa hè năm 50, nhưng ngài đã phải vội vả trốn chạy khỏi thành phố vì người Do thái phẩn nộ tìm cách giết ngài: lời rao giảng của thánh nhân khiến nhiều người Ít-ra-en lẫn lương dân ăn năn trở lại. Vì thế, thánh nhân thật sự bận lòng đến cộng đoàn non trẻ bị hăm dọa nầy. Sau nầy, cộng tác viên của ngài là ông Ti-mô-thê quay trở lại Thê-xa-lô-ni-ca và thuật lại cho thánh nhân những tin tốt lành: dù bị người Do thái đe dọa và quấy nhiễu, cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca non trẻ nầy vẫn kiên vững trong niềm tin của mình. Thế nên, thánh Phao-lô viết bức thư nầy gởi đến họ với cung giọng nồng nàn chan chứa niềm hân hoan và cảm tạ. Đoạn trích thư hôm nay được định vị vào cuối thư bao gồm những lời khuyên bảo và khích lệ.
1. Vui mừng, cầu nguyện và tạ ơn:
Trong lời khuyên thứ nhất, Thánh nhân khuyên ba điều quan trọng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
Trước hết, “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”. Thánh Phao-lô thường nhấn mạnh niềm vui Ki-tô giáo. Niềm vui là hoa quả của Thần Khí, Đấng hằng ở với người Ki-tô hữu ngay cả trong gian nan thử thách. Chính thánh nhân luôn “chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7: 4). Niềm vui này phát xuất từ niềm xác tín là được dự phần vào vương quốc Thiên Chúa ngay từ cõi thế nầy.
Tiếp đó, “Hãy cầu nguyện không ngừng”. Thánh nhân hầu như luôn luôn khuyên cầu nguyện “không ngừng”, “mọi lúc”, “đêm cũng như ngày”. Chung chung, thánh nhân cầu nguyện với Chúa Cha, qua Chúa Ki-tô, nhờ Chúa Thánh Thần. Hiếm khi thánh nhân cầu nguyện trực tiếp với Chúa Ki-tô. Thánh nhân nói, chính nhờ Thần Khí mà chúng ta mới có thể thân thương với Thiên Chúa là “Cha”.
Sau cùng, “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”. Tạ ơn là một cấu tố của lời cầu nguyện, xoay quanh lời chúc tụng. Truyền thống Do thái dành một chỗ đặc biệt cho tâm tình cảm tạ tri ân. Bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus) là bài ca cảm tạ tri ân: “Chúc tụng Thiên Chúa…”. Thánh Phao-lô hầu như luôn luôn bắt đầu bức thư của mình với lời chúc tụng Thiên Chúa.
2. Ân ban Thần Khí:
Đây là lời khuyên thứ hai. Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca coi nhẹ những ân ban Thần Khí. Họ nghi ngại những người được ơn ban Thần Khí. Có lẽ họ là những người Hy lạp phương bắc, ít sôi nổi như những người Cô-rin-tô… Quả thật, thánh Phao-lô viết từ Cô-rin-tô ở đó những ân ban Thần Khí nhiều vô kể. Thánh nhân khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em chớ dập tắt Thần Khí”. Cứ để mỗi người nói lên những ân ban mà mình nhận được, ngay cả ơn ngôn sứ. Điều quan trọng là phải biết “cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn tất cả những gì xấu thì lánh cho xa”.
3. Ơn thánh hóa:
Trong lời khuyên thứ ba, thánh Phao-lô nói lên đề tài tâm đắc của mình: ơn thánh hóa. Sau này, thánh nhân sẽ khai triển sâu xa hơn: chúng ta được thánh hóa nhờ tác động của Thiên Chúa chứ không do nổ lực cá nhân của mình.
Việc kể con người được phân chia thành ba phần: thần trí, tâm hồn và thân xác, không gặp thấy bất cứ nơi nào khác trong các thư của thánh Phao-lô. Đây không là cách diễn tả con người được phân chia thành ba phần. Người Hy lạp cũng như người Do thái đều không quan niệm con người theo cách phân chia như thế. Ở đây, thánh Phao-lô chỉ muốn nói đến toàn diện con người. Theo thói quen của mình, thánh nhân khai triển chữ “toàn diện” đi trước và tô đậm chữ “thần trí” theo sau. Chữ “thần trí” này mang lấy ý nghĩa Ki-tô giáo: chính thần trí con người rộng mở trước tác động của Thần Khí.
TIN MỪNG (Ga 1: 6-8, 19-28)
Tin Mừng hôm nay được trích từ hai đoạn văn khác nhau, một được trích từ Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan (1: 1-18) giới thiệu “chức năng chứng nhân” của Gioan Tẩy giả (1: 6-8) và một khác được trích từ Phần Mở Đầu của Tin Mừng Gioan (1: 19-2: 12) trình bày “lời chứng” của Gioan Tẩy giả (1: 19-28).
1. Chức năng chứng nhân của Gioan Tẩy giả (1: 6-8).
Tựa Ngôn là một bài thánh thi về “Ngôi Lời” bị ngắt nhịp hai lần để giới thiệu Gioan Tẩy giả là chứng nhân của Đức Ki-tô (1: 6-8 và 15). Lần ngắt nhịp thứ nhất được trích dẫn ở đây như phần mở đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Trong phần mở đầu nầy, tác giả Tin Mừng thứ tư không đề cập đến sứ điệp của Gioan Tẩy giả cũng như ý nghĩa phép rửa của thánh nhân, nhưng tô đậm chức năng “chứng nhân” của thánh nhân. Đối với Tin Mừng Gioan, “chứng nhân” là chức năng quan trọng bậc nhất như tác giả nhấn mạnh trong thư thứ nhất của mình:
“Điều chúng tôi đã nghe,
điều chúng tôi đã thấy tận mắt,
điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống…
Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe,
chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa…” (1Ga 1: 1-4).
2. Lời chứng của Gioan Tẩy giả (1: 19-28):
Sau khi giới thiệu chức năng chứng nhân của Gioan Tẩy giả, tác giả Tin Mừng Gioan trình bày lời chứng của Gioan Tẩy giả.
Gioan Tẩy giả phủ nhận tất cả những gì người ta nghĩ tưởng về ông để chỉ tập trung lời chứng của mình vào sự hiện diện của Đấng đến sau ông và hiện có mặt ở đây rồi. Ông không phải là Đấng Mê-si-a mà dân chúng đang mong đợi. Ông cũng không phải là Ê-li-a mà truyền thống truyền tụng theo đó vị ngôn sứ này được rước lên trời và sẽ trở lại trần thế để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a. Ông cũng không phải là ngôn sứ vĩ đại mà Đức Chúa hứa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng…” (Đnl 18: 18).
Sau khi đã phủ nhận tất cả những nhân vật nổi tiếng mà người ta nghĩ tưởng về mình, Gioan Tẩy giả công bố sứ điệp: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Có thể ở đây ám chỉ đến niềm tin dân gian vào một đấng mê-si-a ẩn mình. Thật vậy, sách Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh hơn các sách Tin Mừng khác lời loan báo về Đấng Mê-si-a hiện ở giữa họ rồi mà họ không nhận ra.
Tại sao lời chứng của Gioan Tẩy giả vừa phủ nhận về mình vừa khẳng định về Đức Ki-tô mặc lấy một tầm mức quan trọng đến như thế? Để có thể lĩnh hội được Tin Mừng Gioan, chúng ta cần phải giải mã những ẩn ý nầy. Tin Mừng Gioan vốn giàu có biểu tượng nên luôn luôn hàm chứa hai nghĩa: nghĩa trực tiếp và nghĩa ẩn dụ.
A. Nghĩa trực tiếp:
Theo nghĩa trực tiếp, chúng ta có thể gặp thấy chìa khóa ở nơi việc dàn dựng Phần Mở Đầu cuộc đời công khai của Đức Giê-su thành một tuần lễ, được gọi “Tuần Lễ Khai Mạc” song đối với “Tuần Lễ Cuối Đời” của Đức Giê-su ở thành thánh Giê-ru-sa-lem. Tuần Lễ Khai Mạc được trình bày thành bảy ngày: ngày thứ hai, thứ ba và thứ tư được phân định với biểu thức thời gian “Hôm sau” (1: 29, 35, 43), riêng ba ngày sau cùng được bắt đầu với biểu thức“Ngày thứ ba” (2: 1).
- Ngày thứ nhất: Gioan Tẩy giả làm chứng về chính mình và về Đức Ki-tô trước những chất vấn của các tư tế và các thầy Lê-vi được phái đến từ Giê-ru-sa-lem (1: 19-28).
- Ngày thứ hai: Gioan Tẩy giả làm chứng Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” và là Đấng mà Thần Khí ngự xuống vào lúc Ngài chịu phép rửa (1: 29-34).
- Ngày thứ ba: ông An-rê và người môn đệ nặc danh đi theo Đức Giê-su; đoạn ông An-rê rũ em mình là Phê-rô cùng nhập bọn với mình (1: 35-42).
- Ngày thứ tư: Phi-líp-phê và Na-tha-na-en nhập đoàn với các môn đệ đầu tiên (1: 43-51).
- Ngày thứ năm và thứ sáu: hành trình về miền Ga-li-lê.
- Ngày thứ bảy: tiệc cưới Ca-na, ở đó các môn đệ đã “chứng kiến vinh quang của Ngài” và đã “tin vào Ngài”.
Khi trình bày Phần Mở Đầu cuộc sống công khai của Đức Giê-su như thế, thánh ký thiết lập sự đối xứng với bảy ngày của Công Trình Sáng Tạo, qua đó thánh ký muốn nói rằng Đức Ki-tô giáng trần để thực hiện một cuộc tạo dựng mới, hay đúng hơn, một cuộc tái tạo.
B. Nghĩa ẩn dụ:
Lời chứng của Gioan tẩy giả được trích dẫn trong Tin Mừng hôm nay được định vị vào ngày thứ nhất trong Tuần Lễ Khai Mạc. Trong công trình sáng tạo thế giới, ngày thứ nhất được đánh dấu bởi việc phân tách Ánh Sáng ra khỏi bóng tối.
Do đó, tất cả ý nghĩa sâu xa của đoạn Tin Mừng nầy chính là Gioan Tẩy giả đến để làm chứng về ánh sáng. Trái lại, các tư tế và các thầy Lê-vi được cử đến và trở về Giê-ru-sa-lem mà không đón nhận phép rửa tỏ bày sự sám hối, vì thế, không rộng mở lòng mình ra để đón nhận ánh sáng. Tuy nhiên, họ đã được loan báo cho biết: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (động từ “biết” theo văn hóa Do thái không chỉ nói lên một sự hiểu biết thuần túy trên mặt trí tuệ nhưng đặc biệt còn cả trọn tấm lòng nữa). Như vậy, giáo quyền Do thái, ngay từ đầu, vẫn đắm mình trong bóng tối. Sự kiện nầy sẽ chi phối cách hành xử sau cùng của họ đối với Đức Ki-tô.
Việc đối lập của cặp tương phản giữa ánh sáng và bóng tối nầy hình thành nên một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng Gioan. Việc đối lập nầy đã được minh chứng rồi ngay từ trong Tựa Ngôn.
20.Sống chứng nhân như Gioan Tiền Hô
Sống cho tình yêu. Đó là lời mời gọi mà con người cần đáp trả. Bởi lẽ, con người được sinh ra vì tình yêu và vì thế nên được mời gọi sống cho tình yêu. Gioan Tiền hô đã hoàn thành thiên chức này và ngài mời gọi mỗi người chúng ta cũng hãy sống và làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.
Thật thế, Gioan Tiền Hô là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi người ta dọn lòng đón mừng Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là làm chứng cho Chúa Cứu Thế.
Gioan rao giảng và làm chứng cho Đấng Cứu Thế: "Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng". Sự sáng ở đây là Đấng Cứu Thế. Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất, bất vụ lợi nhất, kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cái chết.
Gioan Tiền Hô đã làm tròn bổn phận của mình là một ngôn sứ là phát loa, là loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan xuất hiện bên bờ sông Giorđan, rao giảng, kêu gọi người ta sám hối. Dân chúng tuôn đến với ông, nghe ông và làm theo điều ông rao giảng...Họ tuôn đến đông đảo khiến cả nhà cầm quyền lẫn các người lãnh đạo trong tôn giáo lúc bấy giờ rất đỗi kinh ngạc. Họ đề cử các phái đoàn đến để tra vấn Gioan để biết xem ông là ai? Gioan không xuất trình cho họ về chứng minh thư của mình, hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, lý lịch, địa chỉ, bằng cấp...Ông chỉ nói rõ sứ mạng và nhiệm vụ của mình: "Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đã có trước tôi, cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài". Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: "Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian". Như một người phát ngôn trung thành, Gioan loan báo cho mọi người biết: Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Như thế, Gioan Tiền hô hướng toàn bộ cuộc đời ông về Chúa Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mạc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người mối phúc: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, niềm vui và bình an cho nhân loại.
Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan còn làm chứng bằng hành động và gương sáng. Gioan kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Lời giảng của Gioan đi đôi với hành động của Ngài. Thực vậy, Gioan đã lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê, ngài đã sống khó nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Gioan rất vui mừng nhường môn đệ cho Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút nuối tiếc. Ông làm chứng Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới mà thôi. Gioan kêu gọi người ta thực hành bác ái và ngài đã thực sự mến Chúa yêu người. Gioan kêu gọi người ta hy sinh và ngài đã sống khắc khổ và hy sinh vì người khác. Như thế, ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là vì ngài chỉ nói những gì ngài đã sống, đã làm, đã kinh nghiệm. Lời nói và gương sống của Gioan đã làm chuyển biến lòng người. Đời sống và gương sáng của ngài đã thuyết phục được mọi người.
Sau hết, Gioan luôn trung thành với nhiệm vụ của mình cho đến chết. Ngài làm chứng cho Sự Thật bằng chính cái chết của mình. Ngài tố cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua, nên ngài đã bị tống giam vào ngục. Cuối cùng, Ngài phải chết. Ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lý bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của mình. Cuộc đời chứng nhân của Gioan Tiền Hô là một bài học đáng giá cho chúng ta.
Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm ra khỏi con người ích kỷ, nhỏ bé, tầm thường của mình để Lời Chúa và tình yêu tự lòng mình thúc đẩy để chúng ta có thể sống đời sống mới, đời sống chứng nhân cho Chúa, cho tình yêu.
Ngày nay, nếu ai đó hỏi chúng ta là ai, chúng ta sẽ trả lời như thế nào? Chắc hẳn, chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi tên tuổi, hay đưa cho họ xem quyển sổ gia đình công giáo của mình đã ghi tên vào đạo Công Giáo, đã được rửa tội, hoặc không chỉ nói bằng lời mà phải thể hiện chính bằng đời sống chứng nhân của mình cho dù bị thiệt thòi vì Chúa Kitô. Thật thế, trọn cả cuộc đời chúng ta phải nói về Chúa Kitô, phải loan báo Chúa kitô và sứ mạng của Người. Đồng thời, chúng ta phải sống chứng nhân bằng những việc làm cụ thể trong cuộc sống mình, sống làm chứng cho tình yêu đối với Chúa Kitô và đối với con người. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân, sống như Gioan trong đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy. Chúng ta làm chứng cho Chúa chính cách sống của mình, sự chọn lựa như chính Chúa Kitô đã sống. Tôi phải sống cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Chúa Kitô, đem niềm vui đến cho mọi người. Làm chứng tá như thế, người ta sẽ nhận ra chúng ta chính là Kitô hữu, người có Chúa Kitô, người sống niềm tin Kitô. Vì thế, mỗi người phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống và là chứng tá cho Chúa kitô nơi gia đình, nhà trường, nơi chốn làm việc và ngoài xã hội. Mỗi người chúng ta hãy sống và yêu mến việc làm chứng cho Chúa kitô để mọi người nhận ra và đón nhận ơn cứu độ của Chúa Kitô.
Hơn nữa, để can đảm dám sống và dám chết đi mỗi ngày cho Chúa Kitô, là những người Kitô hữu, những người yêu mến Chúa Kitô, yêu mến Chúa Kitô như người bạn như ân nhân, như là lẽ sống, như là người quan trọng nhất của chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta sống vì ngài, sống cho ngài và trở nên thuộc về ngài. Chúng ta bước đi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu sẽ giúp chúng ta chiến thắng nghịch cảnh, bản thân.
Chúa Nhật hôm nay được gọi là "Chúa Nhật Vui". Đó là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng của những người tin vào Đấng Cứu Thế và đang hân hoan chờ đón Ngài. Chúng ta hãy thể hiện niềm vui có Chúa Kitô, niềm vui đợi chờ Chúa Kitô đến bằng đời sống chứng tá, bằng đời sống yêu thương chân thành của mình.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin củng cố lòng mến cho chúng con và thêm đức tin để chúng con sống vui, sống thêm tin yêu vào Thiên Chúa. Đó còn là cách thế chúng con là chứng cho Chúa giữa đời. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam