Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 60
Tổng truy cập: 1363555
ĐỨC KITÔ CỦA THIÊN CHÚA
ĐỨC KITÔ CỦA THIÊN CHÚA
(Suy niệm của Lm Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 23:35-43 là màn chế giễu cuối cùng (x. 22:63; 23:11) Chúa Giêsu chịu trước khi Người trút hơi thở cuối cùng (23:44-49). Người đã đến Núi Sọ, bị đóng đinh giữa hai phạm nhân. Áo xống của Người cũng bị tước đoạt (23:33-34). Trình thuật nầy có rất nhiều nhân vật: dân chúng, các thủ lãnh, lính tráng, hai phạm nhân với hai thái độ khác nhau và Chúa Giêsu. Có thể chia đoạn nầy làm hai: - Nhóm dân chúng, thủ lãnh và quân lính (23:35-38); - Hai phạm nhân (23:39-44). Chúa Giêsu là trung tâm của cảnh chế giễu nầy.
Luca đã dùng phân từ “kai”, “và” để lên kết các nhóm người lại “và dân chúng (c. 35) - và các thủ lãnh” - “và quân lính” - “và tấm bảng”. Mỗi người mỗi cách, nhưng chung một thái độ chế giễu Chúa Giêsu. Điểm chung là họ dùng câu điều kiện “nếu”, trong đó họ có lời thách thức giống nhau “Hãy tự cứu mình” (cc. 35.37.39), và họ gọi Chúa Giêsu bằng những tước hiệu tương tự nhau “Đấng Kitô” (c. 35), “Vua dân Do thái” (c. 37); “Đấng Kitô” (c. 39). Câu trả lời cho những thách thức và chế giễu nầy nằm trong lời tuyên xưng của phạm nhân thứ hai (c. 42), và trong lời hứa thiên đàng cho phạm nhân nầy (c. 43).
Dân chúng (c. 35)
Luca chỉ ghi nhận “dân chúng đứng nhìn”. Dân chúng không chỉ đứng đó nhìn cách bàng quan, mà tham dự vào sự khinh rẻ và chế nhạo diễn ra lúc ấy. Xem Tv 22:8: “Ai thấy (theôreô) tôi cũng nhạo báng (ekmyktçrizô) lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai”. Trong 14:29, Luca cho thấy “cái nhìn” (theôreô) gắn liền với “chế giễu” (empaizô) (14:29). Chính dân chúng đã đứng chung với các thượng tế và thủ lãnh trước toà Philatô (23;13) và đồng ý kết án tử Chúa Giêsu (23:18). Vậy, dân chúng đứng nhìn lâu (động từ ở thể phân từ hiện tại) mà không phản đối, chính là đồng loã với những người lên tiếng chế giễu Người.
Các thủ lãnh (c. 35)
Ở đây Luca chỉ nói đến “các thủ lãnh”, trong khi ở 23:13 và 24:20, ông nhắc đến cả các thượng tế. Động từ ekmyktçrizô nghĩa là “nhạo báng”; chỉ gặp trong 16:14; 23:35. Có thể có mối liên hệ giữa đoạn nầy với Tv 22:8. Trong lời họ nhạo báng, Luca nhấn mạnh đến khía cạnh cứu chuộc của Chúa Giêsu, tư cách Con Thiên Chúa được Thiên Chúa sai đến. Cụm từ “Hãy cứu lấy chính mình” được lập lại 3 lần bởi các thủ lãnh (c. 35), quân lính (c. 37) và phạm nhân (c. 39). Động từ “sozô” “cứu” dùng rất nhiều trong trình thuật nầy (cc. 35[2x].37.39). Nó mang ý nghĩa rộng hơn sự chữa lành bệnh. Đó là cứu khỏi tội và đưa vào Nước Trời (x. 7:50; 8:48.50; 17:19; 18:42). Động từ “sozô” và tước hiệu “Christos”, Kitô, liên hệ với nhau. Sau lời Phêrô tuyên xưng Người là “Đấng Kitô” (9:20), Chúa Giêsu nói đến sự cứu độ cho những ai bỏ mình và vác thánh giá đi theo Người (9:24). Tước hiệu “Đấng Kitô của Thiên Chúa” đã được Phêrô tuyên xưng lần đầu tiên (9:20). Tước hiệu nầy nhấn mạnh nguồn gốc của Đấng Kitô và tương quan và sự thông hiệp của Người với Thiên Chúa. “Của Thiên Chúa” có nghĩa là do Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến. Tước hiệu “Kitô” đứng một mình như trong lời của phạm nhân thứ nhất (c. 39) có thể hiểu là một đấng thiên sai, một vị vua được xức dầu nào đó. Rồi tước hiệu “Người được tuyển chọn” cũng nói lên liên hệ với Thiên Chúa (18:7). Chính Thiên Chúa xác nhận điều nầy về Chúa Giêsu trong biến cố biến hình (9:35).
Nhóm quân lính (c. 36)
Sau các thủ lãnh tôn giáo, đến dân ngoại chế giễu Chúa Giêsu. Họ là những người canh giữ (22:63), Hêrôđê (23:11), lính tráng (23:36). Điều nầy đã được nói đến trong lời tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn (18:32; 22:62). “Empaizô” “chế giễu” là khinh rẻ và lấy người khác làm trò chơi cho mình. Những người canh giữ Chúa Giêsu đã bịt mắt Người, đánh Người và bảo Người đoán xem ai đã làm điều ấy (x. 22:63-65); Hêrôđê muốn Người làm những phép lạ để thoả mãn sự tò mò của ông (23:8-9). Lính tráng bên thập giá đưa giấm lên cho Người uống (23:36). Tước hiệu “Vua dân Do thái” nầy phát xuất từ dân ngoại mà thôi: Philatô (x. 23:3), tấm bảng treo trên đầu Người (23:38) và lính tráng ở đây. Lần đầu tiên Chúa Giêsu được dân Do thái gọi là vua, basileus, khi Người vào thành Giêrusalem: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến” (x. 19:38). Chúa Giêsu là vua, basileus, mà cũng là Christos (x. 23:2).
Cho đến lúc nầy, cả các thủ lãnh lẫn dân ngoại chẳng ai biết rõ và chắc chắn Chúa Giêsu là ai. Người ta thắc mắc về căn tính của Người (x. 20:41; 22:67; 23:2); ngoại trừ ma quỉ (4:34; 4:41; 8:28) và nhóm Mười Hai (9:20), không ai biết rõ căn tính của Người. Người ta thắc mắc về Người (x. 20:41; 22:67; 23:2). Bởi đó, họ nghĩ đây là cơ hội cuối cùng họ có thể buộc Chúa Giêsu chứng tỏ ra Người là ai, bằng cách làm theo yêu cầu của họ. Chúa Giêsu đã không làm theo yêu cầu của họ, vì Người biết họ không tin vào Người (22:67), và chính khi chịu đóng đinh, Người tỏ ra cách tỏ tường nhất Người là Đấng Kitô của Thiên Chúa; nói cách khác là Đấng Thiên Sai, được gởi đến để cứu chuộc con người. Không làm theo điều kiện họ đặt ra, Chúa Giêsu không phải là Đấng Kitô theo ý nghĩ của họ.
Tấm bảng (cc. 23:38)
“Và” (xem trên) liên kết tấm bảng nầy với những nhóm người nhạo báng Chúa Giêsu. Có sự khác biệt ít nhiều giữa các tin mừng về điều ghi trên tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu (x. Mt 27:37; Mc 15:26; Gio 19:19). “Houtos” chỉ Đấng bị đóng đinh dưới tấm bảng. Cách trình bày đơn sơ “Và có tấm bảng trên đầu Người” muốn ám chỉ điều ghi trên tấm bảng “Người nầy là Vua dân Do thái” tương phản với người đang bị đóng đinh. Như thế, tấm bảng nối dài lời nhạo báng của lính tráng.
Phạm nhân thứ nhất (cc. 23:39)
Luca dùng động từ blasphçmçô, “nói phạm thượng”, để chỉ thái độ của người nầy đối với Chúa Giêsu. Động từ nầy chỉ dùng ba lần trong Luca: nói phạm thượng đến Chúa Thánh Thần (12:10), những người canh giữ và phạm nhân nầy nói phạm thượng đến Chúa Giêsu (22:65; 23:39). Như thế, blasphçmçô là nói những lời chống lại Thiên Chúa. Người nầy nói phạm thượng vì tình cảnh bất lực và vô vọng của mình. Anh muốn Chúa Giêsu dùng quyền năng của Đấng Kitô để giải thoát anh khỏi cái chết gần kề.
Phạm nhân thứ hai (cc. 40-42)
Người nầy ngỏ lời trước tiên với người đồng chịu án (23:40-41) và với Chúa Giêsu (23:42). Trong lời ngỏ với phạm nhân kia, người nầy nói đến sự kính sợ Thiên Chúa, đến việc nhìn nhận tội và chấp nhận hình phạt xứng với việc đã làm và bênh vực Chúa Giêsu là vô tội. Khi trách phạm nhân kia không kính sợ Thiên Chúa bằng câu hỏi, người nầy gián tiếp cho thấy ông có lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông quan toà là tiêu biểu của những người không kính sợ Thiên Chúa (18:2-4). Ngược lại, Mẹ Maria là gương mẫu của người kính sợ Thiên Chúa. Ai kính sợ Thiên Chúa thì được Người xót thương (1:50). Phạm nhân thứ hai nầy tỏ ra kính sợ Thiên Chúa khi ông dám nói nghịch lại phạm nhân kia, cũng là nghịch lại dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng. Cái chết gần kề, ông không sợ. Ông chỉ sợ Đấng có thể ném cả thân xác và linh hồn ông vào hoả ngục (x. 12:4-9). Bởi có lòng kính sợ nầy, ông sẽ được Thiên Chúa xót thương và cứu lấy ông.
Nói về Chúa Giêsu, ông bênh vực Người là vô tội (23:41). Chính Philatô cũng đã nhận ra như thế (23:22). Ngỏ lời với Chúa Giêsu, ông gọi Người bằng tên “Giêsu”, chứ không bằng bất cứ tước hiệu nào. Tên “Giêsu” nầy liên kết với “Đấng Thánh của Thiên Chúa (4:34), với “Con của Đấng Tối Cao” (8:28), với “Con vua Đavít” (18:38), với “Thầy” (17:13) và “Chúa” (Cv 7:59). Ông xin Người nhớ đến ông trong Nước của Người. Mimneskomai, “nhớ”, bao hàm ý nghĩa cứu độ. Thiên Chúa nhớ tỏ lòng thương xót trên Abraham và con cháu ông đến muôn đời (1:54). Thiên Chúa nhớ đến giao ước mà cứu khỏi tay kẻ thù (1:72). Ông nói đến “Nước”, basileia, của Người. Nước của Chúa Giêsu đồng hóa với Nước của Thiên Chúa (22:29.30); “Nước Thiên Chúa” được nhắc đến tới 31 lần trong Luca. Như thế lời của phạm nhân thứ hai nầy ngỏ với Chúa Giêsu trở thành câu trả lời gián tiếp cho những người nhạo báng trên, và đó cũng là lời tuyên xưng đức tin của ông: - “Giêsu” là Con Thiên Chúa, nên Người mới có thể nhớ và tỏ lòng thương xót ông như Thiên Chúa; - “Giêsu” là Đấng Kitô, là Vua nên Người mới có “Nước của Người”; - Nước của Người là Nước của Thiên Chúa và Người là Con Thiên Chúa; đồng thời cũng là Con vua Đavít. Vậy Người thật sự là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, và cũng là “Vua dân Do thái”.
Chúa Giêsu trả lời với phạm nhân nầy bằng lời hứa là hôm nay ông sẽ cùng với Người trong thiên đàng. Đây là thiên đàng của Thiên Chúa (x. Kh 2:7). “Ở trong thiên đàng” là ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Nói cách khác là “trong tay” của Người (x. 23:46). Phạm nhân thứ hai đã tuyên xưng Chúa Giêsu trước mặt mọi người, nhất là những người chối bỏ Người; bởi đó ông được Người nhận biết và cho hưởng Nước Trời (x. 12:8).
Chúa Giêsu không chết trong thinh lặng. Người chết sau khi được tuyên xưng cách công khai là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Như thế cái chết trên thập giá của Người có tính cách cứu độ và mang ơn giải thoát đến cho mọi người.
43.Lòng tốt khơi dậy lòng tốt
(Suy niệm của JB Lê Ngọc Dũng)
Đức Giêsu bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp. Hình ảnh đó làm cho chúng ta suy nghĩ đến một loại thế thái nhân tình. Đó là người ta không còn tin vào lòng tốt và sự thiện nữa. Có những lúc trong cuộc đời hay những giai đoạn lịch sử, người ta thấy hình như không còn thấy đâu là công lý, đâu là sự thật nữa; không còn ai là tốt cả. Cuộc đời chỉ toàn là bon chen giành giật, dối trá, mưu hại lẫn nhau.
Điều này dẫn tới một tình trạng thất vọng về cuộc đời, không còn tin vào việc thiện nữa. Đến như Đức Giêsu, một người thành thiện mà còn bị kết án giữa hai tên trộm cướp. Phải chăng sự thiện sẽ bị chiến bại, sự ác sẽ thắng? Phải chăng lòng tốt chẳng mang lại hiệu quả gì, chỉ bị thua thiệt mà thôi? Phải chăng người ta không còn tin vào sự thiện nữa?
Vào một đêm rất khuya, cô y tá ra khỏi bệnh viện. Hôm nay cố gắng giúp thêm cho bệnh nhân nên về trễ, cô vội vã đón xe buýt để về nhà. Chợt nhìn thấy ở vỉa hè trước mặt, một người đang nằm, có vẻ đang bị bệnh hoặc bị thương, cô đi đến xem có thể giúp được gì người ấy không. Nhưng khi cô vừa cuối xuống để xem, thì người ấy chồm lên, giựt túi xách của cô. Người đàn ông chỉ giả vờ nằm đó. Ông ta là một tên cướp giật. Cô vội giữ lấy túi xách. Hai người giằng co nhau túi xách. Rồi bất chợt, hai ánh mắt bắt gặp nhau. Người đàn ông trẻ thả túi xách ra và nói: “Ồ, xin lỗi, cô là cô y tá O’Reily đây mà!”.
Họ bắt đầu nói chuyện với nhau. Thì ra trước đây, người đàn ông này đã bị gãy chân, chữa trị ở nhà thương. Cô y tá O’Reily đã rất tận tình săn sóc và ông ta rất mến phục. Ông ta hỏi cô đi về đâu. Cô nói cô đón xe buýt về nhà. Ông tiễn cô đến trạm xe, nói chuyện với cô, và chờ cho đến lúc cô đi khỏi. Ông chào tạm biệt cô và rất ân hận về việc mình đã làm.
Đây là một câu chuyện có thật đã xảy ra. Câu chuyện làm tôi nhận ra điều này là: một người sẽ không bao giờ đánh mất đi lòng tốt của mình. Nó sẽ được phục hồi khi có một lòng tốt nào đó khơi dậy lại.
Đôi khi lòng tốt chiếu sáng nơi người khác lại là điều rất cần thiết giúp cho chính mình khơi dậy lại lòng tốt của mình. Một kỷ niệm tốt đẹp có thể cứu thoát một người khỏi một giây phút yếu lòng, nguy hiểm nào đó. Sự tử tế có thể cứu một người khác ra khỏi bóng tốt của thất vọng, hay tội lỗi.
Nếu như người phụ nữ trong câu chuyện không phải là cô y tá ấy, người đàn ông đó đã không hành động như vậy. Chắc hẳn ông ta đã trấn lột cô, và không cảm thấy ân hận điều gì. Nhưng ở đây chính con người mà ông đã biết là một con người rất tốt. Ông không thể đối xử xấu với cô. Cái đạo đức của cô đã làm cho ông thấy cái xấu xa của mình đang làm. Nói cách khác là nó làm cho ông ta ý thức được khả năng làm điều thiện của mình. Nó khơi dậy trong ông sự thiện, tưởng như đã chết trong ông.
Câu chuyện nhắc chúng ta đến cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và hai tên trộm cướp trên đồi Calvê. Một trong hai kẻ trộm đã để mình bị chìm mất trong bóng tối đến nỗi không muốn thấy ánh sáng. Còn người kia thì đã nhận ra ánh sáng từ sự thánh thiện của Đức Giêsu, và anh ta đã đáp trả.
Người trộm lành nhìn thấy Đức Giêsu là người vô tội. Còn hơn nữa, anh còn nói biện hộ cho Ngài trước mặt người trộm kia. Anh là người duy nhất làm chứng cho Đức Giêsu về sự vô tội của Ngài. Sự tốt lành của Đức Giêsu đã khiến anh nhận ra những cái xấu xa anh đã làm, nó cũng giúp anh nhận ra mình đã đánh mất sự thiện hảo. Anh quay lại với Đức Giêsu, nhận ra Ngài là người duy nhất có thể cứu anh ta trong những giây phút cuối cùng. Đức Giêsu đã không làm cho anh thất vọng.
Đức Giêsu quả thật là một vị vua, nhưng là một vị vua kỳ lạ hơn tất cả các vị vua. Ngài đến khộng phải để xâm chiếm nhưng để hoán cải, không phải để thống trị nhưng để giải thoát, không phải để cai trị nhưng để phục vụ. Ngài chết như một tên tử tội, nhưng Ngài được đăng quang trên chính Thánh giá. Ngài đã đáp trả cho sự xấu nhất bằng chính lòng tốt nhất. Tại sao Ngài lại không đánh trả kẻ bách hại Ngài? Một thi sĩ, ông Seamus Heaney, nói rằng quyền năng trên mọi quyền năng sẽ không thống trị.
Chúng ta có thể dùng lời thánh Phaolô để nói với Chúa rằng: Con cám ơn Chúa, Đấng đã cứu chúng ta ra khỏi quyền lực của sự dữ bóng tối, và đưa chúng ta đến vương quốc của Con chí ái của Ngài; trong Ngài chúng ta được tự do và được tha thứ hết mọi lỗi lầm.
44.Chúa Kitô, vua nhân từ - Lm. Minh Vận, CRM
Thánh Gioan Cantius, người Balan sinh năm 1390. Khi còn nhỏ, ngài là một cậu bé thông minh, tốt lành. Sau khi chịu chức Linh Mục, ngài làm giáo sư Kinh Thánh tại đại học Cracow, rồi làm Cha Sở nhiều năm, chuyên lo việc tông đồ phục vụ người nghèo. Ngài hành hương Rôma bốn lần, đi bộ, vai mang hành trang, một trong bốn cuộc hành hương này, ngài bị bọn cướp chặn lại và lấy hết tiền của, tra hỏi ngài còn tiền của gì nữa phải đưa hết. Ngài trả lời: Thưa đã hết cả rồi. Bọn chúng cho ngài ra đi. Đi được một quãng đường xa, ngài nhớ lại còn một số tiền nữa khâu ở dưới gấu áo, nên ngài vội vã trở lại và trao hết cho bọn cướp, xin lỗi họ vì đã quên lãng mất... Thấy lòng chân thật, nhân từ và thánh thiện của Thánh Nhân, bọn cướp bỡ ngỡ, cảm động nên đã bảo nhau trả lại cho ngài tất cả.
I. VUA TÌNH THƯƠNG VÀ CHÂN THẬT
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng Lễ Chúa Kitô Vua. Chúa là Vua của chúng ta, chúng ta là thần dân của Người. Người là Vua trên muôn vua, là Chúa muôn loài, là Đấng mọi loài trên trời, dưới đất và trong hỏa ngục đều phải tôn thờ, phụng sự, sùng bái, kính tôn và yêu mến.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Philatô đã hỏi Chúa: "Ông có phải là Vua không?" Chúa long trọng tuyên bố: "Tôi là Vua, Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về chân lý đó. Ai thuộc vào chân lý thì nghe tiếng Tôi" (Jn 18:37).
Là thần dân của Vua Kitô; hơn nữa, còn là các Hoàng Tử và Công Chúa của Thượng Đế, Đấng Thiên Hoàng, chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Chúa chúng ta là Vua thế nào? Vương Quyền Ngài ở đâu? Quyền năng Ngài ra sao?
Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay trả lời cho chúng ta tất cả những câu vấn nạn trên: "Cha đã xức dầu hoan lạc tấn phong Con Một Chúa là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, làm Linh Mục đời đời và làm Vua vũ trụ, để khi hiến thân trên bàn thờ Thập Giá làm lễ phẩm giao hòa và tinh tuyền, Người hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc chúng con. Khi đã bắt mọi loài qui phục quyền bính mình, Người trao lại cho Cha là Đấng uy linh cao cả, một Vương Quốc vĩnh cửu và vô biên: Vương Quốc đầy tràn sự thật và sự sống, Vương Quốc đầy tràn ân sủng và thánh thiện, Vương Quốc đầy tràn tình thương, công lý và bình an".
II. CHÚA KITÔ THIẾT LẬP VƯƠNG QUỐC
Chúa Kitô là Thiên Chúa nhập thể làm người nơi trần gian để làm Vua, tự bản tính Ngài là Vua; không như các vua trần gian, được làm vua do dòng tộc loài người, do chiến đấu dành dân mà được tôn lên ngôi vị... Chúa chúng ta đã thiết lập Vương Quốc Ngài nơi trần gian bằng sự khiêm nhu, bằng tình thương yêu, lòng nhân từ tha thứ, bằng cái chết làm Hy Lễ Cứu Độ trên bàn thờ Thập Giá để qui phục mọi người về với Ngài.
Trước khi Ngài hoàn tất công nghiệp Ơn Cứu Độ, Ngài đã chọn mười hai Tông Đồ, bảy mươi hai Môn Đệ, đa số là những người dân chài, quê mùa dốt nát, thật thà lương thiện, để giữ những chức vụ, mà theo lối trần gian, chúng ta thường gọi là các tổng trưởng, bộ trưởng, dân biểu thượng viện, hạ viện... Ngài đặt Phêrô làm Quốc Vụ Khanh lập nội các và các nghành Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp, để phục vụ trong Vương Quốc Ngài đã thiết lập... Thánh luật của Vương Quốc Chúa là Bộ Thánh Kinh, bao gồm thánh ý Thiên Chúa được mạc khải qua lời các tiên tri, các tổ phụ, các thánh ký, nhất là bộ sách Tin Mừng do chính Chúa Kitô đã chỉ thị, giáo huấn, ban bố, đã sống và đã làm gương... Quốc sách cai trị trong Vương Quốc Chúa Kitô là tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ, đức bác ái hy sinh xả kỷ vị tha, chân lý và an bình. Biên cương Vương Quốc của Chúa Kitô bao la vô tận vượt mọi không gian và thời gian, không chỉ hệ tại nơi vũ trụ vật chất hữu hình này, mà còn bao gồm mọi tâm hồn con người... Giáo Hội Công Giáo chính là Vương Quốc của Chúa Kitô.
III. GIÁO HỘI, VƯƠNG QUỐC CỦA VUA KITÔ
Giáo Hội là một Siêu Quốc Gia, không theo một chính thể nào trên trần gian, quân chủ hay dân chủ, nhưng là được tổ chức theo thần quyền do Chúa thông truyền theo phẩm trật, không làm chính trị, không có quân đội hay sức mạnh trần thế, không chiến đấu tranh dành với ai.
Quốc sách cai trị trong Vương Quốc của Chúa Kitô là tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ, đức bác ái hy sinh, lòng xả kỷ vị tha, sự thánh thiện cao cả của Thiên Chúa.
Biên cương hữu hình theo pháp lý chỉ là mấy chục mẫu đất, xây dựng các cơ sở, đặt các cơ quan điều hành trung ương tại Rôma, nhưng được bao gồm mọi chủng tộc, mọi quốc gia trên khắp thế giới, vượt mọi không gian và thời gian, đến tận tầng thâm sâu linh thiêng của các tâm hồn, nơi Thiên Chúa hiển trị.
Thần dân của Vương Quốc Chúa Kitô là mọi Tín Hữu rải rắc trên khắp năm châu bốn bể, là tất cả mọi người chúng ta, gồm tất cả mọi người tin theo Chúa Kitô, làm nên một Đoàn Chiên duy nhất của Chúa nơi trần gian.
Đấng kế vị Thánh Phêrô, là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng thứ 264, đại diện Chúa Kitô phục vụ Giáo Hội, Vương Quốc hữu hình của Chúa nơi trần gian, Đấng mà chúng ta có thể mệnh danh là Chúa Kitô đang sống nơi trần gian. Đấng mà mọi tôn giáo, mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi sắc tộc dù theo chính thể nào, ngay cả những kẻ thù cũng phải kính nể, tôn trọng ngài như vị Đại Diện tối cao của Thiên Chúa, vị Lãnh Đạo tinh thần thế giới.
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta tôn xưng Chúa là Vua chúng ta, Vua các tâm hồn, Vua toàn thể vũ trụ và muôn loài thụ tạo trên trời dưới đất và trong hỏa ngục. Không gì làm Chúa hài lòng và chứng minh lòng chúng ta thần phục Vương Quyền Người, bằng cách chúng ta hãy mặc lấy tinh thần lòng chân thật, nhân từ tha thứ và thánh thiện của Chúa.
Thánh Gioan Cantius người Balan là một vị Thánh có lòng chân thật, khiêm nhu, nhân từ tha thứ, khiến cho kẻ trộm cướp, người tội lỗi cũng phải kính phục sám hối trở lại. Còn chúng ta, là con cái Chúa, chúng ta đã sống thế nào?
45.Người trộm lành - Lm. Thu Băng, CRM
Tôi còn nhớ vào lúc lên 12 tuổi, vừa bắt đầu vào lớp trung học, cái thú của tuổi trẻ là đấu kiếm và mê "Thần tượng Đồ Long Đao, chém một nhát 7 đầu người khỏi cố". Trong lóp tôi có một người bạn giỏi đấu kiêm mà cả lớp không ai địch lại được những đường lả lướt của hắn. Ai cũng tôn hắn là "Đại Ca mắt lươn". Bao nhiêu trận đụng độ với các lớp, chúng tôi đều phải nhờ đại ca mắt lươn này dàn trận.
Thần tượng của giới học sinh là ông thầy giỏi, là bà cô giỏi.
Thần tượng của đám trẻ chơi là người bạn có mưu cao và có tài biến báo.
Thần tượng của các tay anh chị Bến Nghé là Dũng Đakao hoặc Năm Mỏ Lét.
Thần tượng của Tôn Giáo là đấng sáng lập nên tôn giáo đó (Như Thích Ca Mâu Ni, như Lão Tử, như Khổng Tử hay như Chúa Giêsu...) Các ngài đã tìm ta một con đường giúp người ta giải thoát khổ nạn và tìm được niềm hạnh phúc.
Đọc cuốn sách "Những bộ xương khô" của một nhà sưu tầm tôn giáp Pháp, kể lại chuyện của những nhà sư nổi tiếng trở lại Công Giáo, trong đó có một cầu chuyện rằng: Nhà sư T..... áo vàng Ấn Độ ngồi trên xe lửa bên vị Linh Mục. Dựa vào cảnh toa xe không có khách, hai vị tu hành ngồi nói chuyện tôn giáo với nhau. Vị khất tu T.... đặt câu thắc mắc:
- Tại sao nhân sinh lại theo nhiều tôn giáo khác nhau? Sao Cha lại theo Chúa Giêsu mà không thờ đức Thích Ca là người dẫn đường đi trước? Vị Linh Mục trả lời:
- Chuyện đó dễ thôi, thế giới ngay nay người nào giỏi thì được tôn làm đại ca. Nhưng những đại ca gở thì ai thèm ngó tới. Tôi rất kính phục các vị đại ca của các tôn giáo, vì các ngài đã tìm ra một lối giải thoát cho con người. Còn tôi, tôi không phục hết cả các ngài trừ ra đấng Đại Ca của tôi. Xưa kia tôi cũng là một nhà sư như đại đức đây. Cũng chính tại nghĩ đến lời đại đức vừa nói mà tôi tìm ra được vị đại ca tối cao này. Vị đại ca có quyền thế trên các vị đại ca khác là Đức Kitô. Tôi trà tầm hết cả các đường lối dẫn độ của các tôn giáo, nhưng tôi chỉ thấy có một vị dám xưng là "Chúa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao trên toàn cõi đất" Các vị khác không ai dám xưng như vậy.
Điều chứng minh Ngài chính là đại ca đã nhiều người được thấy tận mắt những việc Ngài làm mà chúng tôi gọi là phép lạ chứ không phải là phép phù thủy.
Ngày thứ 6 tuần thánh, Chúa Giêsu bị người Do Thái tố cáo rằng Ngài tự xưng là vua. Do đó quan Philatô hỏi:
- Ông tự xưng là vua Do Thái ư? (Mt.27:11).
Philato đâu có ngờ đó là một sự thật, sự thật mà Chúa không thể nói cách nào khác để tránh né. Ngài phải nhận:
- Tôi là vua.
Ngài cũng đã dám tuyên xưng vương quyền của Ngài chẳng phải ở thế gian này và giáo lý của Ngài không ai áp đảo được như thánh Phaolô nói:
- Ngài là vua đứng đầu mọi thụ tạo. Ngài là vua vô hình và mọi loài trên trờ dưới đất đều phải thờ lạy. Ngài cai quản mọi loài, và Ngài có trước mọi loài.
Người trộm lành trong giây phút cuối cùng đã đặt hết hy vọng vào Ngài , nên Ngài đã hé môi "Hôm nay con sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng" Chúng ta đang sống trong cảnh thiếu hạnh phúc cũng cần nhằm đến một thần tượng, một vua bất diệt.
Chuyện kể rằng: Trong lúc phong ba bão lớn, người nào cũng tin có Đấng Thượng Đế tối cao có quyền trên biển cả, nên họ kêu gào cầu cứu. Nhiều khi họ hứa sống hứa chết thay đổi cuộc đời xin Ngài cứu thoát. Tiếng lòng thành kêu xin được đáp lời ai nấy đều sửng sốt nói lên lời cảm tạ. Nhưng tháng ngày trôi qua, việc an lành đã đến, lúc đó họ chỉ còn nhìn thấy "thần Dolas" trước mắt. Họ cố gắng quên lời thể hứa đã qua.
Thần tượng của đời này được người ta tôn thờ là "Thần Tài, Thần Danh" Thực ra đó chỉ là phương tiện mà chúng ta đặt lên làm cứu cánh, còn chính Chúa Giêsu là cứu cánh, chúng ta hạ xuống làm phương tiện. Phương tiện cũ rồi không xài nữa, để cho màng nhện chăng. Chúa lúc nàu cầu không thiêng, thôi dẹp.
Nhân dịp cuối năm, Giáo Hội mừng kính Chúa Kitô là vua, nhắc nhở chúng ta xét lại quan niệm sống và cách xử đối với Đấng là Vua, là minh chủ, là đại ca mà chúng ta tôn thờ. Hãy tôn vinh Người là vua thực sự trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong gia đình và ngoài xã hội.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam