Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 79

Tổng truy cập: 1358223

ĐỨC KITÔ TIẾP TỤC LỚN LÊN

ĐỨC KITÔ TIẾP TỤC LỚN LÊN

 

Đoạn Phúc âm được đề nghị với chúng ta hôm nay thuật lại những sự kiện khá đơn giản, xét về bản chất chúng ta. Nếu coi đó như một đoạn văn, không hơn không kém thì có thể đặt một vài câu hỏi, về chi tiết thôi, chẳng hạn: sau khi dâng Con trẻ Giêsu trong Đền thờ, ông Giuse và bà Maria có thể trở về Nazaret ngay không? Vụ lánh nạn sang Ai Cập xảy ra lúc nào? Chúng ta đừng tìm kiếm trong Phúc âm một thứ tự rõ ràng, chắc chắn, cho ngày tháng và sự kiện. Điều chắc là thời kỳ Con trẻ Giêsu hết là ‘bé thơ’, giờ là một ‘nhi đồng’, đang lớn lên về phạm vi thiêng liêng – hai ông bà đã trở lại Nazarét rồi. Nghiên cứu đoạn văn người ta có thể dừng lại ở hai nhận vật Simêon và Anna, để suy niệm về sự kiện tâm trông đợi Đấng Cứu Thế và cầu nguyện của hai vị về lời tiên tri Simêon, khiến cho Maria lo sợ một kết cục đau khổ (cuộc thương khó của Đức Giêsu). Tốt hơn, chúng ta hãy chọn một đề tài cao hơn, đó là một tư tưởng lớn nằm trong hạ tầng toàn bộ Phúc âm và được thánh Luca diễn tả như sau: Con trẻ lớn lên, thân thể phát triển và được ơn khôn ngoan sung mãn. Ý niệm lớn đó là ý niệm tăng trưởng.

1) Chúng ta gặp thấy sự tăng trưởng thiêng liêng trước hết ở bà Maria và ông Giuse. Maria được gọi là người có phúc lớn, vì đã tin, trong biến cố Truyền tin. Rõ ràng là ở giây phút ấy nàng tin vào đề nghị của Thiên Chúa yêu cầu nàng ưng thuận một sự kiện xảy ra lúc đó. Đức tin của nàng không cho nàng xem thấy trước phối cảnh tương lai của toàn thể lịch sử Đức Giêsu, lúc đó mới sinh ra trong lòng nàng. Do một sự ưng thuận mỗi ngày, liên tục, nàng tiến dần vào mầu nhiệm định mệnh đời mình. Niềm tin Maria là 1 niềm tin luôn luôn tăng trưởng. Lời tiên tri của Simêông cho nàng biết trước 1 đường đời đau khổ, nhưng không cho rõ chi tiết. Do sự ưng thuận ngày một đổi mới, nhắc đi nhắc lại, Trinh nữ Maria hiểu rõ thêm Thiên Chúa đòi hòi gì ở nàng, biết rõ thêm Con Trẻ Giêsu là ai. Đối với Giuse cũng vậy. Đây là một điều quan trọng đối với chúng ta. Dường như mầu nhiệm tăng trưởng nhân tính của Đức Giêsu có mục đích là nhờ đức tin đưa chúng ta tiến vào mầu nhiệm tăng trưởng thần tính của chúng ta. Sự tăng trưởng thần tính đó, Maria và Giuse là những người đầu tiên được hưởng. Thật là một điều tốt lành khi nghĩ rằng hai ông bà rất gần với chúng ta trong điểm đó. Vì đã trải qua nên biết rõ, hai ông bà cầu bầu cho niềm tin của chúng ta tăng trưởng tốt.

2) Con trẻ lớn lên… Điều ghi nhận này liên hệ trực tiếp đến sự tăng trưởng thể chất của Đức Giêsu. Đó là một sự kiện trong phần lịch sử đã qua, thật sự qua rồi. Tuy nhiên có một sự kiện khác thuộc lĩnh vực mầu nhiệm, được hoàn tất trong lịch sử của chúng ta, ngày nay Đức Kitô tiếp tục lớn lên. Thật vậy, Người không những là Giêsu, một người như những người khác, đã sống ở Palextin từ năm nào đến năm nào đó. Người còn là Con Thiên Chúa đã xuống thế để thần hoá nhân loại. Người tiếp tục lớn lên trong nhân loại. Thánh Phaolô nói đên sự xây dựng thân thể mầu nhiệm Đức Kitô cho đến khi chúng ta hết thảy đạt thấu sự duy nhất trong kính tin và am tường về Con Thiên Chúa, mà nên người thành toàn, đạt đến tầm vóc xứng với sự viên mãn của Đức Kitô (Eph.4,13). Như vậy, Đức Kitô lớn lên trong tâm khảm sâu thẳm của mỗi người chúng ta. Dịp lễ Thánh Gia Thất, Giáo Hội dùng một đoạn Phúc âm gợi lên một trong những mối quan tâm chủ yếu của mọi gia đình, đó là sự lớn lên của đứa con. Chúng ta có thể từ đó suy niệm về sự lớn lên của Đức Kitô trong đại gia đình loài người, nghĩa là trong tâm hồn mỗi chúng ta.

 

31.Trách nhiệm - Tình yêu

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)

Người ta thường nói: “Chúng ta có nhiều chốn để đi, nhưng chỉ có một nơi để về, đó là gia đình”. Tuy nhiên, thực tế ngày nay lại khác, bởi nhiều người đã không còn coi gia đình là mái ấm, lý do: nơi ấy thiếu tình yêu thương, trách nhiệm và cũng chẳng còn hấp dẫn nếu không muốn nói là đang ngày càng bị đe dọa!

Hôm nay, Giáo Hội muốn giới thiệu đến chúng ta một Gia Đình Thánh, đó là gia đình Thánh Gia. Qua đó, Giáo Hội muốn con cái mình noi gương bắt chước Mẹ Maria, thánh Giuse và Đức Giêsu trong việc xây dựng gia đình trên nền tảng tình yêu và trách nhiệm.

1. Thực trạng gia đình hiện nay

Nhà thơ Nguyễn Du đã từng nói: “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

Thật vậy, nhìn vào thực tế nhiều gia đình hiện nay, chúng ta không thể không lo ngại và thất vọng, bởi vì:

Có những điều mà ngày xưa người ta coi đó là quái gở, nhưng hôm nay lại là chuyện bình thường được diễn ra như cơm bữa hằng ngày!

Chẳng hạn như chuyện nạo phá thai. Đi ra ngoài đường, chúng ta thấy những trung tâm, phòng khám, nhan nhản mọc lên với những tấm biển nhìn mà thấy ớn lạnh như: “Phá thai an toàn, không đau”; “Siêu âm, hút thai bằng thuốc”.

Chính sự dễ dàng và công khai, cộng thêm chuyện yêu đương bừa bãi hoặc những người cha người mẹ không có tình yêu, thiếu trách nhiệm, nên họ sẵn sàng đang tâm giết chính đứa con vô tội của mình một cách bình thường mà không hề áy náy!

Mặt khác, cảnh ly dị đang dần trở thành thông lệ. Không chỉ những người đã xây dựng gia đình muốn ly dị, mà ngay cả những bạn trẻ chưa lấy vợ lấy chồng mà đã đi tìm “đường thoát hiểm”, cho ngày chia tay trong tương lai! Đây là một nỗi buồn tê tái, bởi vì những cặp vợ chồng ly dị, hậu quả khôn lường, bi đát sẽ đổ dồn lên đầu những đứa con thơ ngây, vô tội.

Hơn nữa, lại có nhiều gia đình ngày nay không dám sinh nhiều con, họ biện minh là không có điều kiện, thời gian…, nên chỉ sinh 1 hoặc 2 con.

Đây là một lựa chọn không thực tế do thói ích kỷ của các bậc làm cha mẹ, nên đã dẫn đến tình trạng bi đát nơi các gia đình.

Thật vậy, khi sinh ít con, bố mẹ thường hay chiều chuộng thái quá. Vì thế, xảy ra tình trạng như: chúng luôn nghĩ mình là thành phần quan trọng nhất trong gia đình, nên nó có quyền đòi buộc mọi người phải phục vụ và đáp ứng mọi nhu cầu. Nếu không, chúng có thể quậy phá, chửi bới, đánh đập…. Đã có biết bao nhiêu bậc cha mẹ bị con cái đánh, chửi, và ngay cả giết chết chỉ vì không đáp ứng đúng như yêu sách của chúng.

Cũng có khá nhiều bậc cha mẹ ít quan tâm đến con cái, mà chỉ lo kiếm tiền hay quá tập trung đến công việc…, mà quên đi tình yêu thương, bổn phận, trách nhiệm của mình với con cái. Vì thế, sau này, đứa trẻ lớn lên nó sẽ vô cảm và dửng dưng với chính bậc sinh thành!

Nguyên nhân dẫn đến chuyện bi đát ấy là: người ta ít coi trọng chữ tín và trách nhiệm với nhau. Từ đó, họ đâu còn để ý hay nâng niu tình yêu và chung thủy trong đời sống gia đình.

Bên cạnh đó, việc hội nhập những nền văn hóa ngoại lai cách vội vàng và thiếu lành mạnh, đã khiến cho chúng ta bị chới với và buông theo khi chưa phân định đúng đắn trong việc chọn lựa.

Trên đây chính là nguyên nhân dẫn đến chuyện bạo lực, ly hôn, ly dị và thiếu trách nhiệm nơi gia đình.

Đây cũng là nguyện nhân làm đảo lộn giá trị đạo đức tốt đẹp của các gia đình hiện nay.

2. Mẫu gương cho các gia đình

Trong khi xã hội và con người ngày nay ít chú tâm đến trách nhiệm cũng như sự chung thủy nơi các gia đình, thì phụng vụ Giáo Hội làm toát lên gương mẫu của gia đình Thánh Gia để cho các bậc cha mẹ và con cái noi theo.

Trước tiên, nơi Đức Mẹ và thánh Giuse, các ngài đã để lại cho các bậc cha mẹ mẫu gương tuyệt vời về hai chữ “trách nhiệm”.

Các ngài có trách nhiệm với Thiên Chúa, với nhau và với con cái. Vì thế, hai ông bà đã bồng ẵm Hài Nhi Giêsu lên đền thờ Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa, cũng như thanh tẩy cho Mẹ của Hài Nhi theo luật định.

Đây chính là quy định trong Luật của Môsê, và hai ông bà đã sẵn sàng chu toàn với đầy trách nhiệm trong lòng mến.

Trách nhiệm của Đức Mẹ và thánh Giuse còn được rõ nét khi hai ông bà đang đêm đem Hài Nhi trốn sang Aicập, rồi một thời gian sau lại từ Aicập trở về. Hơn nữa, năm Đức Giêsu lên 12 tuổi, khi lạc mất con trong đền thờ, hai ông bà đã lặn lội ngược xuôi để tìm cho kỳ được.

Đây là mẫu gương tuyệt vời của Đức Mẹ và thánh Giuse.

Còn với Đức Giêsu, ngài là một người con hiếu thảo, ngoan ngoãn, vâng lời. Vì thế, Kinh Thánh đã diễn tả như sau:

“Hài Nhi ngày càng lớn lên, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”.

Đức Giêsu đã hiện diện và sống trong một gia đình coi trọng trách nhiệm và sự thủy chung, vì thế, Ngài cũng là một người con đầy trách nhiệm. Trách nhiệm trước tiên với Thiên Chúa, sau là với cha mẹ của mình. Vì thế, trước mặt Thiên Chúa, Ngài được tràn đầy ân sủng. Trước mặt Đức Mẹ và thánh Giuse thì Ngài hằng vâng phục các ngài.

Mẫu gương thứ hai cho các gia đình là mẫu gương về sự “chung thủy”.

Mặc dù nơi Đức Mẹ, thánh Giuse và Đức Giêsu, cả ba đều là thánh và sống đẹp lòng Thiên Chúa trọn vẹn. Nhưng nơi gia đình này, Thiên Chúa cũng không miễn trừ những khó khăn.

Tuy nhiên, những thử thách dồn dập xảy đến, nhưng nơi Đức Mẹ, thánh Giuse và Đức Giêsu vẫn bình an, hạnh phúc và chung thủy.

Có được điều này là bởi vì các ngài luôn yêu thương nhau bằng tình yêu tự hiến, luôn biết đón nhận những thử thách trong niềm tin và lòng mến, đồng thời biết thánh hóa những đau khổ ấy và biến nó thành niềm vui cứu độ.

3. Sứ điệp ngày lễ

Sứ điệp Lời Chúa và ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết noi gương Gia Đình Thánh Gia để sống có trách nhiệm với nhau nhằm xây dựng tổ ấm gia đình trong tình yêu và sự chung thủy.

Cần biết lượng giá những thứ tự ưu tiên trong việc vun đắp hạnh phúc gia đình.

Trước tiên, đó là phải cùng nhau xây dựng tình yêu. Gia đình chỉ có hạnh phúc thực sự khi mọi thành phần của gia đình biết quan tâm, chăm sóc nhau trong tinh thần trách nhiệm và yêu mến. Không có tình yêu, gia đình không có tiếng cười và sẽ biến thành hỏa ngục chốn trần gian!

Thứ hai, các bậc cha mẹ đừng quá quan trọng vấn đề cơm áo gạo tiền. Nhiều bậc cha mẹ đêm ngày lao mình vào cuộc chiến kiếm tiền, nên đã không còn coi trọng đến hai chữ tình yêu cũng như trách nhiệm với nhau và con cái. Vì thế, tình yêu phai nhạt, thất trung leo thang và cuối cùng là bị ngã gục trong sự ích kỷ, đổ vỡ….

Thứ ba, cần tôn trọng bạn đời của mình như một quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho mình. Mặt khác, cha mẹ biết yêu thương con cái như là kết quả của tình yêu dâng hiến mà hai người trao cho nhau.

Cuối cùng, muốn xây dựng gia đình hạnh phúc thực sự, các bậc cha mẹ và con cái hãy yêu mến những việc đạo đức, nhất là siêng năng tham dự thánh lễ cũng như các Bí tích và trung thành với giờ kinh tối gia đình.

Làm được những việc đó trong lòng mến và trách nhiệm, chúng ta mới mong có được một gia đình hạnh phúc, ấm êm, để cho mọi thành viên cảm thấy an vui mỗi khi ở trong gia đình, và mong muốn được trở về mỗi lúc đi xa.

Lạy Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, xin cho chúng con biết noi gương các Ngài để sống đẹp lòng Chúa, biết yêu thương nhau trong tinh thần trách nhiệm và thủy chung, để xây dựng một gia đình yên vui, hạnh phúc trong tình yêu và trách nhiệm theo khuôn mẫu của gia đình Thánh Gia. Amen.

 

32.Ơn Người Cứu Độ

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Đoạn 2,22-40 trình bày câu chuyện Chúa Giêsu được đem lên Giêrusalem trình dâng cho Thiên Chúa theo đòi hỏi của luật Môsê. Lề luật được dùng như cái khung trong đó các ngài thi hành bổn phận theo luật dạy: “hai ông bà đem Hài Nhi lên Giêrusalem” (cc. 22.27). Câu chuyện kết thúc khi các ngài đã thi hành đầy đủ điều luật dạy: “Khi đã xong mọi sự theo luật Chúa, ông bà trở về Galilê” (c. 39). Trong đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu được trình dâng cho Thiên Chúa. Ngài là Đức Kitô của Chúa (c. 26), ơn cứu độ của Thiên Chúa (c. 30). Ngài là Đấng mà dân Ítraen trông đợi; Simêon (cc. 25-35) và Anna (36-38) là những đại diện (cc. 31.32). Họ trông đợi “niềm an ủi” (c. 25b), “ơn cứu chuộc” (c. 38) của Thiên Chúa; đó chính là Chúa Giêsu, “ánh sáng của muôn dân” và “vinh quang của dân Ítraen” (c. 32). Lời chúc tụng của Simêôn nói đến vai trò cứu thế của Chúa Giêsu Kitô; Đức Maria chia sẻ sứ mạng với Ngài (c. 34). Tại Galilê, Chúa Giêsu lớn lên trong ân sủng của Thiên Chúa (cc. 39-40), và Ngài sẽ lên đền thờ Giêrusalem khi Ngài lên mười hai tuổi (2,41-52).

Trình dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa là một đòi hỏi của luật Môsê. Thánh sử Luca liên kết việc này với luật thanh tẩy của người mẹ. Đức Maria cùng với thánh Giuse lên đền thờ Giêrusalem, và các ngài mang Chúa Giêsu lên để trình dâng cho Thiên Chúa; như thế cả hai đều đến trình diện trước mặt Chúa (x. 1,19).

Luật Môsê qui định về con trai đầu lòng là phải được “thánh hiến cho Chúa” (Xh 13,2.12), và được người cha chuộc lại (Xh 13,15). Khi dẫn chứng luật này, thánh sử Luca thay thế “thánh hiến cho Chúa” bằng “được gọi là của thánh dâng cho Chúa” (c. 23), ám chỉ lời sứ thần đã nói với Đức Maria về người con mà Mẹ cưu mang và sinh hạ, Ngài “được gọi là Thánh, là Con Thiên Chúa” (1,35). Thánh sử Luca nói đến những của lễ mà người mẹ phải mang theo khi đến trình diện: một cặp chim gáy hay hai bồ câu tơ; một con để làm lễ toàn thiêu và một con làm lễ tạ tội (Lv 12,8). Việc các ngài làm theo luật cho thấy lòng trung thành của các ngài đối với Thiên Chúa. Sự trung thành với lề luật Môsê sẽ chuyển sang lòng trung thành với ý muốn của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu được trình dâng cho Thiên Chúa để hiến mình thực hiện công cuộc cứu độ của Người. Dân Ítraen đang mong đợi ơn cứu độ của Thiên Chúa, và Chúa Giêsu đến và tỏ mình cho họ như là “ơn cứu độ” của Thiên Chúa (c. 30). Ai đón nhận Ngài, sẽ được chỗi dậy, và ai chối từ Ngài, sẽ ngã xuống (c. 34).

Simêôn đại diện cho những người trông đợi niềm an ủi của dân Ítraen. Ông là người “công chính”, dikaios, và “mộ đạo”, eulabēs. Theo thánh sử Luca, người công chính là người “đi theo mọi điều răn giới luật của Chúa” và kính sợ Người (Cv 10,22) như Dacaria và Êlisabét (1,6); và người “mộ đạo”, là người tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa (Cv 22,12). Ông trông đợi: “niềm an ủi của Ítraen” (2,25), “ơn cứu chuộc của Giêrusalem” (2,38), Nước Thiên Chúa (23,51). Simêôn mong đợi và ông sẽ được tận mắt nhìn thấy Đấng Cứu Độ của Thiên Chúa.

Ông Simêôn chúc tụng Thiên Chúa về Hài Nhi (cc. 28-32). Simêôn không chỉ nói với tư cách cá nhân, mà còn nói đại diện cho dân Ítraen và muôn dân. Nội dung lời chúc tụng tập trung trên Chúa Giêsu Kitô. Simêôn chúc tụng Thiên Chúa vì Người làm thỏa mãn điều dân Ítraen trông đợi khi ban Chúa Giêsu Kitô làm Đấng Cứu Độ; việc chúc tụng luôn gắn liền với lòng biết ơn Thiên Chúa (1,64; 2,28). Nói về Chúa Giêsu Kitô, Simêôn gọi Ngài là “ơn cứu độ của Người (Thiên Chúa)”, sōtērion sou; chính Ngài đã được loan báo như là Đấng Cứu Độ, sōtēr (2,11).

Simêôn ngỏ với Đức Maria, nói về thái độ của những người sau này đối với Đức Giêsu Kitô. Hai cụm từ eis ptōsin, “để bổ nhào” và eis sēmeion, “làm dấu hiệu” tạo nên hai vế song song với nhau; câu 35b được hiểu như tiếp tục câu 34bc, và nói về thái độ từ chối hay đón nhận Chúa Giêsu. Chúa Giêsu được đặt như hòn đá làm cớ ngã nhào (x. 7,23; 20,18) và như dấu hiệu (11,30) để ý nghĩ tâm hồn phải bày ra. Chính Ngài sẽ nói về điều này: “Ta xuất hiện để ban bình an trên mặt đất ư? Không đâu! Ta bảo các ngươi, không gì khác ngoài sự chia rẽ…” (12,51-53). Và lời này Ngài nói trong ngữ cảnh bàn về cuộc thương khó mà Ngài sắp thực hiện.

Về Đức Maria, Simêôn nói đến một lưỡi gươm sẽ đâm thâu hồn Đức Maria. Hình ảnh “lưỡi gươm” ám chỉ lời phát xuất từ miệng của Chúa Giêsu Kitô “Này là lời phán dạy của Ðấng có thanh kiếm hai lưỡi bén” (Kh 2,17), Lời của Chúa Giêsu và cả hành động của Ngài làm phân bạch tâm hồn, và đôi khi gây đau đớn. Đức Maria cũng chịu ảnh hưởng bởi lời của Chúa Giêsu, như trong nhiều trường hợp được thuật lại trong Tin Mừng (2,48-49; 8,21; 11,27-28). Hơn nữa, lời tiên tri này cũng ám chỉ việc Đức Maria chịu đau khổ khi thông phần vào đau khổ của Chúa Giêsu trước việc người ta chống đối và giết Ngài; ngay từ đầu, số phận mẹ – con luôn gắn bó với nhau.

Câu 39 đóng lại khung cảnh trình dâng Hài Nhi đã hoàn tất theo luật trong đền thờ Giêrusalem, và tường thuật gia đình về lại Galilê, đến thành Nadarét (x. 7,1; Cv 13,29), nơi Chúa Giêsu sẽ ở đó và lớn lên (cc. 39.51) cho đến ngày Ngài khởi đầu sứ vụ công khai (4,14). Câu kết luận về Hài Nhi (c. 40) tương tự cách kết luận thời thơ ấu của Gioan (1,80); có thể được cảm hứng từ 1 Sm 2,21 và 2,26. Cụm từ “đầy khôn ngoan và ân sủng” được dùng cho người của Thiên Chúa (Cv 6,3.10). Chúa Giêsu đầy “khôn ngoan và ân sủng của Thiên Chúa” vì Ngài là Con của Người. Thiên Chúa luôn ở với Ngài và giao phó cho Ngài sứ mạng cứu độ (x. 1,30).

Chúa Giêsu là ơn cứu độ của Thiên Chúa ban cho muôn dân đang trông đợi. Ngài không được chuộc lại, vì Ngài hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, nhưng Ngài sẽ chuộc lại cho Thiên Chúa những người đang trông chờ ơn cứu độ.

 

33.Gia đình, cộng đoàn yêu thương

(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Lc 2: 22-40: Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa bao tình thương ấy, Chúa Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống thảo hiếu với cha mẹ trần thế của Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung quanh.

Khi gợi lại kỷ niệm đáng ghi nhớ về gia đình của mình, Đức cố Hồng Y Marty, nguyên Tổng Giám Mục Giáo phận Paris, đã nói: “Tôi đã bập bẹ những tiếng đầu tiên về Thiên Chúa, khi nhìn mẹ tôi và cha tôi đọc kinh cầu nguyện. Tôi đã học biết sự sống, học biết sự chết, tôi đã học biết thế nào là yêu thương trong cuộc sống hằng ngày, khi tôi giao tiếp với thân nhân và những người quen thuộc. Tôi yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo Hội như đã yêu mến mẹ tôi. Tôi không học mà cũng biết người phụ nđó đã cho tôi sự sống và mạc khải cho tôi tình yêu”. Gương sáng của cha mđã giáo dục cho con cái nhiều điều tốt.

Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình nghèo. Ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ thơ khác, như mỗi người chúng ta. Và cha mẹ Ngài cũng là những người lao động, phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác. Là Thiên Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con trẻ, bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.

Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ thơ ấu và thành niên, Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa, bào, đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nagiarét là một chuỗi ngày bình dị, như hàng trăm gia đình cùng thôn làng, như hàng triệu cuộc sống của con người qua các thời đại.

Đó là thời kỳ ẩn dật, vì Chúa Giêsu không để lộ chân tính đích thực của mình ra cho những người chung quanh biết. Đó cũng là thời gian chuẩn bị cho quãng đời công khai của Ngài, theo nghĩa là Ngài tích lũy cho mình những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết cho việc rao giảng Nước Thiên Chúa sau này.

Dưới một khía cạnh khác, chúng ta có thể nói, đó là những năm tháng trao đổi, cho và nhận giữa Con Thiên Chúa và gia đình nhân loại, được đại diện nơi Thánh Giuse và Đức Maria. Nếu chỉ là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế không cần phải nhận ở nhân loại một thứ gì cả. Nhưng vì Ngài là Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, nên Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều của những người thân, nhất là của Mẹ Maria: cưu mang, sinh đẻ, nuôi dưỡng, giáo dục. Ngài cũng đã nhận rất nhiều từ cộng đoàn Nagiarét, từ Hội đường Do Thái, từ cuộc sống của những người chung quanh, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, lao động. Chúng ta khó hình dung được những điều đó, vì chúng ta có khuynh hướng đặt Thiên Chúa ở chốn cao xa mà quên điều hệ trọng là Thiên Chúa đã làm người, đã nhập thể và nhập thế.

Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều từ gia đình nhân loại, nhưng thực ra Ngài còn cho nhiều hơn, vì Ngài đã cống hiến tất cả cho chúng ta, cả bản thể Thiên Chúa, cả năm tháng, cuộc sống và cái chết của Ngài, một cách âm thầm, khiêm tốn vô vị lợi.

Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa bao tình thương ấy, Chúa Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống hiếu thảo với cha mẹ trần thế của Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung quanh. Rồi cha mẹ Ngài là những người kính sợ Thiên Chúa cũng đã sống hết mình với Thiên Chúa, tận tụy và thương yêu con cưng của mình. Giữa Đức Maria và Thánh Giuse thì thật là một mối liên hệ có một không hai trong lịch sử loài người, chắc chắn tình yêu thương đậm đà và lòng tôn kính là những nét đặc thù nhất, khiến Thánh Giuse được gọi là người công chính, còn Maria là người có phúc hơn mọi người phụ nữ.

Sách Huấn ca hôm nay đã nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của người con đối với cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái nhà Nagiarét. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôsê đề cập đến mối quan hệ giữa những người được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình, gia đình của Thiên Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các thành viên trong gia đình thánh này đều là những tôi tớ của Thiên Chúa, trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nagiarét là gương mẫu, là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, đối với mỗi gia đình Công giáo ngày nay.

Ngày nay, hơn bao giờ hết, với sự tiến bộ của ngành khoa học nhân văn và xã hội, con người càng khám phá ra chiều kích xã hội của mình và tầm quan trọng của cộng đoàn gia đình trong đời sống xã hội. Gia đình là cái nôi đầu tiên đón tiếp con người và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạnh phúc. Đối với các kitô hữu, gia đình còn mang một ý nghĩa khác nữa: đó là một cộng đoàn yêu thương phản ảnh cộng đoàn của Thiên Chúa, theo gương gia đình Nagiarét. Trách nhiệm thật lớn lao của các bậc làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ ấy cha mẹ chỉ có thể hoàn thành được nếu biết yêu thương và tha thứ như chính Chúa Kitô đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta. Đó là quy luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con cái và cha mẹ. Vì trong cuộc sống gia đình, con người có thể biến cuộc sống ấy thành thiên đàng hay hỏa ngục trần gian. Cuộc sống gia đình tạo cho cha mẹ những cơ hội quý báu để thực hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác. Cuộc sống gia đình luôn luôn đòi hỏi cha mẹ phải dẹp bỏ ý riêng mình, quan điểm riêng của mình, để tôn trọng và giúp đỡ con cái phát triển về mọi mặt.

Do sự khác biệt về tính tình, môi trường giáo dục, tuổi tác và sở thích, nên chuyện xung đột, căng thẳng, là chuyện đương nhiên không thể tránh được giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Nhất là trong một vài hoàn cảnh khó khăn về kinh tế tài chính. Muốn vượt qua những cảnh xung đột, những giờ phút căng thẳng ấy, mỗi người, dù là vợ hay chồng, cha mẹ hay con cái, đều phải thấm nhuần tinh thần của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ chứ không để được phục v”. “Ai muốn làm đầu thì hãy làm tôi tớ phục vụ mọi người” (x. Mt 20,26-28). Ở đây, cha mẹ có trọng trách nêu gương cho con cái, vợ chồng có trách nhiệm làm chứng cho nhau tình yêu quảng đại và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lời căn dặn của Thánh Phaolô phải là phương châm cho các bậc cha mẹ cũng như con cái trong gia đình: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Ngài mà cảm tạ Chúa Cha”(Cl 3,17).

Như thế, gia đình kitô hữu, theo gương đời sống gia đình của Thánh Gia Thất, với tình yêu thương và tha thứ, với tinh thần phục vụ quảng đại và vô vị lợi, sẽ là ngọn đèn tỏa sáng, sẽ là cái nôi hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho anh em đồng bào trong xã hội chúng ta hôm nay.

home Mục lục Lưu trữ