Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 43
Tổng truy cập: 1359447
ĐỨC TÍNH NGÔN SỨ HÔM NAY
ĐỨC TÍNH NGÔN SỨ HÔM NAY
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Thánh Kinh cho biết ông Gio-an Tẩy Giả là vị ngôn sứ sau cùng của thời Cựu Ước tiên báo Đấng Cứu Thế đến. Ông cũng là người mở đầu cho một thời đại ngôn sứ mới trong Tân Ước, thời đại của những người biết Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người và được mời gọi làm chứng cho Chúa Giê-su qua những lời họ loan báo và nhất là chính cuộc sống của họ. Vì vậy, hôm nay Lời Chúa nêu hai đức tính của ngôn sứ Gio-an Tẩy giả đồng thời mời gọi chúng ta những ngôn sứ đương thời hãy luôn có hai nhân đức này: khiêm nhường và can đảm nói và sống cho sự thật.
Thứ nhất nhân đức khiêm nhường, Gioan Tẩy Giả không bao giờ tìm cách đề cao mình, rao giảng về mình nhưng mọi hành vi, mọi cử chỉ và mọi lời nói của ngài đều qui về Đức Giêsu. Cụ thể, Tin Mừng kể Thánh Gioan Tẩy Giả sống đời sống rất khắc khổ: mặc áo lông, đồ ăn là châu chấu và mật ong rừng. Thánh nhân rao giảng sám hối và làm phép rửa. Đám đông dân chúng có nhiều người đã ngộ nhận Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng Thánh nhân xác quyết: "Tôi đây làm phép rửa anh em trong nước, nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Thánh Gioan tẩy giả được coi là vị ngôn sứ cao cả nhất trong dân Israen, đã qui tụ, thu hút được đám đông quần chúng mà chưa có vị ngôn sứ nào làm được công việc ấy như Ngài nhưng Ngài có lòng khiêm nhường tột độ, để cho mình nhỏ đi và để Chúa lớn lên.
Thứ hai nhân đức can đảm, Thánh Gioan tẩy giả đã can đảm nói và sống cho sự thật dù phải thiệt thân. Thánh Mác-cô kể rằng Vua Hêrôđê lấy vợ của anh mình, thần dân thiên hạ ai cũng biết điều đó sai, luật không cho phép nhưng không ông thần này hay dân thường nào dám nói với vua không được lấy, nhưng Gioan tẩy giả đã nói. Thế là Bà Hêrôđia vợ của anh vua nay đã lấy vua làm chồng căm tức muốn giết ông Gioan tẩy giả nhưng bà không có quyền. Vua Hêrôđê biết Gioan là người công chính thánh thiện nên sợ ông và che chở cho ông. Nhưng vì điệu nhảy của con gái bà Hêrôđia, nhà vua trót thề sẽ ban cho cô tất cả cái gì cô xin. Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tẩy giả tới (Mc 6,17-28).
Giáo lý Hội Thánh dạy rằng nhờ bí tích Rửa tội, mọi người được tham dự vào chức tư tế (linh mục cộng đồng), sứ vụ ngôn sứ và vương đế của Chúa Giêsu. Như vậy, Thiên Chúa kêu gọi tất cả mọi người làm ngôn sứ không phân biệt phái tính, tầng lớp, đẳng cấp xã hội, giàu hay nghèo, lành mạnh hay khuyết tật. Điều đáng chú ý rằng ngôn sứ phải là người cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa và được chiếm hữu bởi Thần Khí và Lời Chúa qua nhiều cách thế khác nhau. Vâng, chính Thánh Phaolô nói: “Chính Thiên Chúa đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô” (Ep 4,11-13).
Cho nên, ngôn sứ là người được Thiên Chúa thánh hóa và sai đi nhiều hoàn cảnh, địa lý, xã hội, lịch sử, thời gian và thính giả khác nhau. Vì thế, khi đề cập đến hai đức tính này của Gio-an Tẩy Giả trong Mùa Vọng, Hội Thánh nhắc nhở rằng chúng ta là những ngôn sứ của thời đại mới, những người tiếp tục loan báo Chúa Giê-su đến với người chưa biết Chúa, thì chính cuộc sống, lời nói và hành động của chúng ta phải làm chứng cho Chúa Giê-su trong thế giới hôm nay. Vì vậy, chúng ta phải khiêm nhường trước hết. Bởi vì tình thương của Kitô giáo được xây dựng trên nền tảng sự khiêm nhường. Thánh Tôma Aquinô nói: “Kiêu ngạo là thích được đề cao hơn người khác, và kiêu ngạo là khoe khoang, là cay đắng, là tàn nhẫn, là chỉ nghĩ đến bản thân, cho nên kiêu ngạo khiến ta đố kỵ nhau. Bởi vậy, muốn yêu thương phải bắt đầu để cho tâm hồn mình thấm nhuần sự khiêm nhường và hiền lành”. Vì vậy, có khiêm nhường, chúng ta mới nhận được tình yêu của Chúa Kitô, tình yêu ấy thúc bách chúng ta phục vụ yêu thương, tha thứ cho nhau, đồng thời hăng hái nói về Chúa cho mọi người. Cụ thể, Thánh Nữ Têrêxa Calcutta, nhìn bề ngoài của Mẹ Têrêsa với hình dạng nhỏ bé, da mặt nhăn nheo, lưng hơi gù với vẻ già nua và có đôi bàn tay xương xẩu gầy guộc, thế nhưng khi mọi người khi gặp mặt tiếp xúc đều thấy con người Mẹ có đời sống bình dị, dễ thương với đôi mắt sáng ngời và nụ cười trên môi rạng rỡ niềm vui, lời nói đầy thuyết phục, kèm theo một sự khiêm tốn, hiền lành chân thật. Chính Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton sau khi tìm hiểu về cuộc đời Mẹ đã phải thốt lên: “Tôi không đáng xách dép cho nữ tu Têrêsa”. Bởi vậy chính đời sống Thánh nữ đã thu hút biết bao nhiều người biết Chúa và trở về với Chúa.
Cuối cùng, can đảm là đức tính luân lý giúp chúng ta kiên trì và quyết tâm sống ngay chính thật thà giữa những bao điều dối trá trong đời. Nhờ can đảm, ta thắng được sợ hãi, đương đầu với thử thách và bách hại, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chính nghĩa cho “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi” (Tv 118,14). Vì vậy, trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nhắc bảo chúng ta rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1Tx 5,16-22). Vì vậy, trong tông thư gửi tất cả Các người Tận hiến nhân dịp Năm Đời sống thánh hiến, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng ngôn sứ được Chúa ban khả năng hiểu biết Thiên Chúa và hiểu biết những người anh chị em của mình. Cho nên, những ngôn sứ chứng tá cho Đức Giêsu sống ở thế giới này phải can đảm phân định và tố giác tội ác và những bất công trong xã hội đồng thời luôn đứng về phía những người nghèo và những người cô thân cô thế, bởi vì người ngôn sứ biết rằng chính Thiên Chúa đứng về phía họ (x.Số 4 phần II).
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết noi gương Thánh Gioan tẩy giả là phải trở nên những người đi trước, dọn đường Chúa đến trong cuộc đời mình, cũng như người khác nhờ sống khiêm và can đảm. Amen.
9.Chúa Nhật 3 Mùa Vọng
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
CÓ NGƯỜI ĐƯỢC CHÚA SAI ĐẾN: ÔNG ĐẾN ĐỂ LÀM CHỨNG
Vào cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, tức quãng năm 1959, ai cũng công nhận câu gán ghép của Đức Athenagoras, Thượng Phụ chính thống giáo Constantinople là chí lý, là rất đạt, là cực kỳ hay, khi vị thượng phụ này gán một câu Phúc Âm thời xưa để ghép cho một người thời nay, là vị giáo hoàng của Giáo Hội Công giáo Roma: “Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan”: Đây là câu Phúc âm chúng ta vừa nghe, được Đức Thượng Phụ Athenagoras Đông Phương ghép cho Đức Gioan 23, một Giáo Hoàng Roma Tây Phương.
Câu ghép này rất ý vị vì Đức Roncalli khi lên ngôi Giáo hoàng, lấy hiệu là Gioan (chứ nếu lấy Piô, Phaolô, Benedicto, thì sao gán ghép được); và câu ghép này thật chí lý vì quả Đức Gioan 23, nay đã được phong thánh, là người “được Chúa sai đến” thật, một vị đến làm đảo lộn, canh tân lại bộ mặt của Hội thánh, để Hội Thánh không tì ố, không vết nhăn, mặc dầu đức Gioan lúc đó đã ngót nghét 80 tuổi, khuôn mặt đã nhiều nếp gấp, khoé mắt nhiều dấu chân chim, nhưng đúng là người được Chúa sai đến, đến để làm chứng cho con người thế kỷ 20 và 21 này.
Hôm nay ta chỉ mở đề với thánh Gioan 23 để vào đề với thánh Gioan Tẩy giả. Đề tài bài suy niệm Tin Mừng hôm nay là: Gioan, Kẻ Làm Chứng. “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng.”
Vậy làm chứng là gì và làm chứng cái gì? Đó là 2 điểm ta sẽ trả lời.
1. Làm chứng là gì?
- Từ Điển tiếng Việt cho ta biết: Làm chứng là đứng ra xác nhận những gì mình đã thấy, đã nghe… Td: Làm chứng một tai nạn giao thông; hai người làm chứng trong Hôn phối nghe và thấy rằng đôi bạn đã bày tỏ sự ưng thuận.
Người làm chứng thì không phải là đương sự. Như hai người làm chứng trong Hôn phối phải khác hai người ưng thuận lấy nhau. Ra toà, người làm chứng không thể là bị cáo hay nguyên đơn. Cũng vậy, Gioan được Chúa sai đến để làm chứng, thì cũng là để làm chứng về một điều gì, về một ai đó chứ không phải để làm chứng chính mình. Nếu có phải nói về mình là cũng chỉ nhằm làm chứng về người kia, như Gioan nói thẳng: tôi không phải là Êlia, không phải Kitô, không phải Ngôn sứ người ta trông đợi… “Tôi chỉ là tiếng kêu…” Gioan nói vậy để làm chứng cho những người đến dò hỏi Gioan, là hãy đi tìm Đấng Kitô nơi người khác đi.
- Nghĩa thứ hai của làm chứng mới đáng giá. Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng. Phải mở chính nguyên bản Sách Thánh Hilạp xem tác giả Tin Mừng dùng chữ gì để khi nói đến làm chứng? Thưa: từ Marturios, cũng “từ” này còn có nghĩa tử đạo. Làm chứng tương đương với tử vì đạo, chết vì nghĩa. Kinh các thánh tử đạo: Lạy các thánh tử đạo là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô. Tiếng Anh, người tử vì Đạo là Martyr. Do đó, làm chứng không chỉ có nghĩa trả lời “có,” “không.” Tôi thấy cái này, tôi nghe cái kia, đưa ra bằng chứng, thế là xong, mà còn là bảo đảm cho điều mình làm chứng đi đến kết cuộc, dẫu có phải chết. Từ ngữ Việt phần nào nói được điều đó: LÀM chứng (chứ không phải “nói chứng,” “giơ chứng”: có một tích cực chứ không thụ động. Từ Hi lạp thì nói rõ: làm chứng là chết vì nghĩa. Quả Gioan đã chết vì làm chứng.
2. Làm chứng cho cái gì?
Bài Tin Mừng trả lời rõ ràng cho chúng ta: “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng. Và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” Chỉ một câu ngắn mà đã có ba chữ “ánh sáng.”
Ánh sáng rất cần để thấy. Mắt không mù, nhưng không có ánh sáng thì cũng không thấy gì. Như trong đêm tối, đêm ba mươi, không có một tí ánh sáng gì, ta mở mắt mà đâu có thấy, phải vận dụng đôi tay sờ soạng dò đường.
Gioan đến là để làm chứng cho Ánh Sáng. Người Do Thái mở mắt mà nhìn không ra. “Ở giữa các ông có một vị mà các ông không biết”… “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dép cho Người.” Sau này chính Chúa Giêsu đã gọi Gioan Tẩy Gỉả là chiếc đèn (Ga 5,33-36). Đêm mà không có lửa thì không có ánh sáng, Ánh sáng dùng đèn như một phương thế để chiếu soi. ĐGH Gioan 23 khi trả lời cho câu hỏi của một phóng viên rằng ĐGH chờ đợi gì ở Công đồng Vatican này (ta nên nhớ ĐGH Gioan 23 là vị có sáng kiến triệu tập CĐ Vaticano 2). Bằng một hành động tượng trưng, đức Gioan đi về phía cửa sổ vừa mở ra vừa nói: “Chờ đợi gì ư? Một chút gió.” Mở cửa thì gió thổi vào được: Gió là Thần Khí. Mở cửa thì ánh sáng mới vào được. Ánh sáng là Đức Kitô.
Khi tiếp vị đại sứ, ĐGH Gioan (người được Chúa sai đến) nói: Phải rũ hết bụi đế quốc đã chồng chất lên toà thánh Phêrô kể từ thời vua Constantin! Bụi phủ nhiều làm sao ánh sáng lọt vào. Phải phủi bụi đi thì mới thấy rõ ràng được. ĐGH Gioan cũng nói về Giáo Hội, sau bao thế kỷ bị phủ lên mình một lớp bụi dày: bụi cơ cấu, bụi tuyệt thông, bụi tiên báo sự dữ và tai họa… Hãy phủi đi thì anh em ly khai sẽ về, thế giới người đời sẽ tới với Giáo Hội. Hãy phủi, hãy cất những màn che để Ánh sáng Chúa Kitô lọt vào.
Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan, ông tới để làm chứng và làm chứng cho ánh sáng.
Người có tên là Gioan: chính là Gioan Tẩy giả; và người có tên là Gioan là thánh Gioan 23 giáo hoàng. Cả hai đều muốn làm chứng cho ánh sáng.
Người có tên là Gioan còn là mỗi chúng ta. Khi lãnh nhận 2 bí tích Thánh tẩy và Thêm sức là chúng ta được Chúa sai đến. Trong bí tích Thánh tẩy, ta cầm nến trong tay. Trong bí tích Thêm sức, nến cũng ở trong tay ta. Điều đó muốn nói chúng ta hãy là ánh sáng, và chúng ta hãy để Ánh Sáng là Chúa Kitô đậu vào chiếu soi. Phải làm sao đích thực ta là bạn hữu của Kitô, bởi ta là Kitô hữu.
Ánh nến có 2 công dụng: sưởi ấm nhờ sức nóng và chiếu soi nhờ ánh sáng. Hãy an ủi sưởi ấm người cùng cực, đói khổ, rét mướt… Và hãy toả sáng đức tin bằng cách sống Đạo của mình trong niềm vui không ngơi (CN III Gaudete, hãy vui lên, màu hồng). ĐGH Phanxicô với tông huấn Niềm Vui Tin Mừng nhắc mãi điểm này. ĐGM giáo phận thì có sẵn mấy cái gương trong phòng, để soi gương và nở nụ cười với mình để đem vui cho người. Có lần đang mỉm cười trong gương, thì có cha muốn gặp. Mở cửa ra, linh mục đó nói ngay: hôm nay con xin điều này chắc thế nào cũng được, vì thấy đức cha đang mỉm cười.
Ánh nến có 2 công dụng: sưởi ấm nhờ sức nóng và chiếu soi nhờ ánh sáng. Cả 2 việc đó đều nhắm làm chứng cho Ánh Sáng. Chúng ta xin Đấng là Ánh sáng giúp chúng ta. Và chúng ta tuyên xưng Đấng là “Ánh sáng bởi Ánh sáng” trong kinh Tin Kính đây.
10.Người dọn đường
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy được khuôn mặt của Gioan Tiền Hô.
Thực vậy, công việc của ông đã thu hút được sự chú ý của đông đảo người Do Thái, nhất là hàng lãnh đạo trong dân về mặt tôn giáo. Chính vì thế, họ đã thắc mắc, muốn biết rõ lý lích của ông cũng như vai trò của ông trong lịch sử cứu độ. Họ đã sai người đến đặt câu hỏi: Ông là ai? Là Đức Kitô? Là Elia? Hay là một tiên tri? Đó là những nhân vật mà họ tin rằng sẽ trở lại nơi trần gian, để rao giảng sự thống hối vào những ngày cuối cùng.
Lời giảng và việc làm của Gioan đã lay động xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, ông đã xác quyết rằng mình chỉ là một nhân chứng, một người giới thiệu cho một Đấng đang ở giữa họ mà họ không biết. Đấng ấy là người đến sau ông, nhưng lại lớn hơn ông. Hiểu theo nghĩa là nắm giữ vai trò chủ chốt. Và như thế, Gioan đã đặt chúng ta trước ngưỡng cửa một thời đại mới. Thời đại cứu chuộc, thời đại Emmanuel, Con Thiên Chúa xuống thế làm người và ở giữa chúng ta. Trong thời đại ấy, những người nghèo khổ được đón nhận Tin Mừng, những tâm hồn đau thương được băng bó, những kẻ lưu đày được ân xá, Và đó chính là thời đại hồng ân của Thiên Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Ngày hôm nay chúng ta cũng đang sống trong thời đại hồng ân của Thiên Chúa. Thế nhưng, cuộc sống của chúng ta có phản ảnh được cái tinh thần của thời đại mới ấy hay không? Bởi vì cuộc sống chung quanh chúng ta vẫn còn quá nhiều những nghèo khổ, túng thiếu, bất công, bóc lột và thù hận. Chúng ta đã làm được gì cho những người chung quanh, để họ nhận cũng nhận biết tình thương và ơn sủng của Thiên Chúa.
Ước chi việc làm và đời sống của mỗi người chúng ta cũng sẽ trở nên một thứ tiếng kêu, thức tỉnh những người chung quanh biết hướng nhìn về Chúa và nhất là biết đón nhận Chúa trong mùa Giáng Sinh này.
11.Làm chứng
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã đưa ra những câu hỏi để truy tìm tông tích, lý lịch, dung mạo và vai trò của Gioan tiền hô, nhưng thực ra là truy tìm chính Đức Kitô, Đấng Cứu Thế.
Bấy giờ, mọi người ở Giêrusalem đã bị khuấy động bởi những chuyện khác thường. Thế nhưng, những câu hỏi nêu lên lại không đi ra ngoài những khuôn mẫu sẵn có: là Elia, là tiên tri? Và Gioan đã chỉ có thể trả lời không. Bao lâu người ta còn loanh quanh trong những cái có sẵn, người ta không thể nhận ra Ngài. Sự hiện diện của Ngài đã là một sự độc đáo. Gioan đã phải vất vả để dứt cái nhìn của đám đông ra khỏi con người của ông để hướng về chính Đấng họ đang tìm kiếm. Và Đấng ấy đang ở giữa họ, nhưng họ chưa nhận ra. Gioan quả đã là người chứng đích thực vì ông đã không ngăn cản ánh sáng chiếu tới họ.
Muôn ngàn những bận rộn trong ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh của chúng ta cũng có thể được coi là những câu hỏi về dung mạo của Đấng chúng ta đang chờ đợi và tìm kiếm. Những cuộc vui chơi với bè bạn. Những chiếc hang đá xinh xinh và gợi cảm. Những món quà đắt giá, những chiếc bánh truyền thống, những bài hát thơ mộng, những ánh đèn muôn màu và rồi những buổi lễ long trọng. Lễ Giáng sinh có thể được làm nên bởi những thứ đó, nhưng tất cả những thứ đó được lặp lại hàng năm, có phải là giáng sinh? Có phải đó là lễ giáng sinh của ngày hôm nay? Chúng ta chỉ có thể trả lời: Không phải và không thể.
Bởi lẽ giáng sinh là một con người, con người ở giữa chúng ta trước khi là một ngày lễ. Con người ấy được nhận diện không phải bằng những lời giới thiệu, những bài giảng hay bằng các nghi lễ, mà trước tiên bằng chính việc làm. Không phải những việc làm thuộc loại gây chấn động trong thiên hạ, gây kin ngạc và thán phục, những việc làm ngoạn mục xuất chúng.
Bài đọc hai đã kê khai những việc làm của Đấng được xức dầu, tức là Đức Kitô: Loan báo Tin Mừng cho kẻ khó nghèo, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên bố việc ân xá cho những bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Và Đức Kitô đã khẳng định: Chính Ngài là người đã thực hiện những việc làm này, và chính Ngài cũng đã từng trả lời với những ai đang thắc mắc về Ngài: Hãy nhìn những việc làm để nhận ra Ngài là ai. Ngài quả là Đức Kitô, vì Ngài đã làm những việc của người đã được Thiên Chúa xức dầu. Đức Kitô đã chết và đã được tôn vinh, nhưng Ngài vẫn hiện diện giữa con người. Theo ánh sáng của lòng tin, chúng ta biết được Ngài hiện diện ở đâu có những nỗ lực và hành động giải phóng, đưa con người bị vùi dập bạc đãi, bị kỳ thị, bị tước mất quyền làm người. Mỗi người chúng ta có bổn phận phải làm chứng. Làm chứng không phải chỉ bằng lời nói mà chủ yếu bằng việc làm. Những việc làm của chính Đức Kitô, Đấng được xức dầu.
Thế nhưng nhiều khi chúng ta chuẩn bị mừng lễ giáng sinh bằng sự phô trương chính mình thay vì là một chứng tá sống động về sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng mà mọi người đang mong đợi và tìm kiếm.
12.Gioan Tiền Hô
Sống dưới ách thống trị của đế quốc La-mã dân Do Thái luôn trông chờ một Đấng cứu thế do Thiên Chúa sai đến. Họ đã mượn nỗi khắc khoải của cha ông thuở trước để cầu xin: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời. Chính vì thế, khi Gioan xuất hiện bên bờ sông Giođan, họ đã phấn khởi vui mừng. Và rồi họ đã cử một phái đoàn đến để tìm hiểu cho cặn kẽ và thấu đáo. Những người này đã hỏi Gioan: Ông là ai, ông có phải là Đức Kitô hay không. Gioan đã xác quyết với họ: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi chỉ là người tiền hô, đi trước để dọn đường cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần. Ông không để cho người ta chú ý tới ông mà trái lại, ông hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Kitô: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Qua sứ điệp của Gioan Tiền Hô, chúng ta rút ra hai điểm thực hành. Điểm thứ nhất đó là hãy sám hối, cải thiện đời sống. Thực vậy, Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, mà hơn thế nữa Ngài còn đến với chúng ta vào ngày tận cùng của vũ trụ, cũng như vào ngày sau hết của cuộc đời chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn đến với chúng ta mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể. Như thế cuộc đời chúng ta phải là một mùa vọng nối dài. Và trong mùa vọng cuộc đời này chúng ta phải thực hiện ngay sứ điệp của Gioan Tiền Hô, đó là hãy sám hối, dọn đường Chúa đến. Sám hối ở đây không phải chỉ là hối tiếc về những tội đã phạm mà hơn thế nữa còn phải cố gắng uốn nắn sửa đổi để nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Điểm thứ hai, đó là hãy trở nên những tiền hô cho Chúa. Thực vậy, là người Kitô hữu, chúng ta không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà hơn thế nữa, còn phải đem Chúa đến cho người khác. Dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn của mình mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải dọn đường để Chúa cũng đến được trong tâm hồn người khác. Muốn được như thế, chúng ta cần phải có một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó mà dần dần chúng ta có thể cảm hoá được những người chung quanh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa.
Dọn đường Chúa đến trong tâm hồn mình và giúp người khác dọn đường Chúa đến trong tâm hồn họ đó là việc chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng này.
13.Chúa Nhật 3 Mùa Vọng
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ đề: VUI MỪNG VÌ CHÚA SẮP ĐẾN
I. Dẫn vào Thánh lễ
Trong cuộc sống, chúng ta thường gặp những niềm vui: vui khi thấy những nụ hoa hé nở trong vườn, vui khi nhìn những cặp vợ chồng trẻ hân hoan trong ngày cưới, vui với những tù nhân mãn hạn trở về. Ngày xưa, một ngôn sứ cũng đã dùng những hình ảnh tương tự để loan báo niềm vui khi Chúa đến. Thật vậy, khi Chúa đến, Ngài sẽ làm cho cuộc sống ta tràn ngập niềm vui. Vậy chúng ta hãy chuẩn bị đón tiếp Ngài.
II. Gợi ý sám hối
a- Chúng ta không nghĩ rằng sống đạo là một niềm vui, trái lại nhiều khi còn coi đó là gánh nặng khó chịu.
b- Chúng ta ít nghĩ đến việc làm cho những người chung quanh được vui tươi hạnh phúc.
c- Chúng ta không sẵn sàng để cho Chúa giải thoát chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi và những đam mê bất chính.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Is 61, 1-2. 10-11
Ðoạn này thuộc phần thứ ba sách Isaia (các chương 56-66) do một (hoặc một số) tác giả không được biết tên nên người ta tạm gọi là Ðệ Tam Isaia.
Có hai giả thuyết về thời gian soạn tác phần này: a/ Ðó là thời sau lưu đày từ lúc xây xong Ðền thờ mới cho đến năm 445 trước công nguyên (Nhóm dịch CGKPV); b/ Một vài năm trước khi kết thúc cuộc lưu đày. Nội dung đoạn được trích hôm nay xem ra phù hợp với giả thuyết thứ hai hơn.
Tác giả nghĩ đến lúc được giải thoát khỏi ách lưu đày.
- Trong phần đầu (cc 1-2), tác giả tự đồng hóa mình với một nhân vật được Thiên Chúa chọn làm sứ giả đặc biệt để loan tin vui ấy. "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
- Trong phần sau (cc 10-11), tác giả lại tự đồng hóa mình với dân được giải thoát: "Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, vì Ngài đã mặc cho tôi áo phần rỗi và choàng áo công chính cho tôi..."
Sau này, trong bài ca Magnificat, Ðức Maria đã lấy lại một số tâm tình của tác giả; và Ðức Giêsu, tại hội đường Nadarét, cũng đã áp dụng những lời này cho chính bản thân Ngài.
2. Ðáp ca: Trích bài Magnificat, Lc 1, 46-48. 49-50. 53-54.
Bài ca diễn tả tâm tình của Ðức Maria. Ðó cũng là tâm tình của Ðệ Tam Isaia ngày trước, mà cũng là tâm tình của Giáo Hội ngày nay: vui mừng vì được Chúa đến thăm và dùng mình làm sứ giả loan báo Tin Mừng của Chúa.
3. Tin Mừng: Ga 1, 6-8. 19-28
Sứ giả loan Tin Mừng mà Ðệ Tam Isaia đã tiên báo chính là Gioan Tiền hô, và Tin Mừng mà Gioan công bố chính là Ðức Giêsu.
Ðoạn Tin Mừng Chúa nhật tuần trước đã cho biết Gioan là người dọn đường và ông đã dọn đường như thế nào. Ðoạn Tin Mừng hôm nay (của thánh Gioan Tông đồ) cho biết nhiều hơn:
- Ðấng Messia mà Gioan dọn đường chính là Ánh sáng. Ngài đến thế gian như ánh sáng chiếu soi trong đêm tối.
- Phần Gioan tiền hô, ông rất khiêm tốn: nói rõ mình không phải là Messia và tuyên bố Ðấng Messia là Ðức Giêsu cao trọng hơn ông.
4. Bài đọc II: 1 Tx 5, 16-24
Thêxalônica là một giáo đoàn mà thánh Phaolô rất quan tâm, bởi vì ngài mới thành lập giáo đoàn này không bao lâu thì phải bị buộc rời họ đi xa. Nhưng dù non trẻ, giáo đoàn này đã sống đạo khá tốt. Bởi thế khi biên thư cho họ, Phaolô bảo họ một mặt hãy luôn vui mừng trong Chúa và mặt khác hãy cầu nguyện không ngừng và cảm tạ Chúa trong mọi việc.
IV. Gợi ý giảng
1. Vui mừng theo mệnh lệnh?
Lời kêu gọi rất rõ của Giáo Hội trong Thánh lễ hôm nay là "Anh em hãy vui lên".
Nhưng có thể vui mừng theo mệnh lệnh như thế chăng? Vả lại, trong cuộc sống cũng có nhiều nỗi buồn. Ðâu phải bất cứ lúc nào hễ Giáo Hội kêu chúng ta vui lên thì chúng ta vui lên ngay được?
Thiết tưởng ta nên phân biệt cho rõ. Cuộc đời gồm nhiều phương diện lắm khi không hoàn toàn phối hợp hài hòa với nhau. Bởi thế người ta vẫn có thể vui về phương diện này đang khi gặp điều không vừa ý thuộc phương diện khác. Chẳng hạn nghèo mà vui, bị sỉ nhục vẫn vui v. v. Phương diện lúc nào cũng có thể vui chính là phương diện siêu nhiên: vui vì Chúa, vui trong Chúa. Thứ niềm vui này ở tận trong lòng nên bất cứ thứ xáo trộn bên ngoài nào cũng không ảnh hưởng tới nó được.
Tác giả Sách Huấn ca đã viết: mọi việc đều có thời của nó. Có thời để khóc và có thời để cười, có thời để buồn và có thời để vui... Giáo Hội chỉ cho chúng ta biết rằng thời để vui chính là thời bây giờ đây, thời chuẩn bị đón Chúa Giáng sinh. Chúng ta vui vì Chúa đã "công bố năm hồng ân" (bài đọc I), vì "Chúa đã đoái nhìn phận hèn tôi tớ" của chúng ta (Bài đáp ca) và vì ý Thiên Chúa muốn rằng chúng ta luôn được hân hoan hạnh phúc (Bài Thánh Thư).
2. Vui và sướng
Trong bài đọc II, Thánh Phaolô bảo: "Anh em hãy vui luôn". Flor McCarthy có những suy nghĩ sau đây về vui và sướng (joy and pleasure).
Vui và sướng rất khác nhau:
-Ta có thể vạch kế hoạch để mình được sướng, nhưng không thể làm thế để được vui.
-Sung sướng đến ngay, còn niềm vui thường đến sau; và niềm vui ngọt ngào hơn cả là thứ niềm vui đến sau đau khổ.
-Sung sướng đến do mình trả lời "có" với mình; niềm vui đến do mình trả lời "không" với chính mình.
-Sung sướng giống như một ánh lửa loé lên trong đêm tối, chiếu sáng mọi sự trong giây lát rồi tắt lịm, sau đó ta cảm thấy tối tăm và trống rỗng hơn bao giờ hết; Niềm vui giống như một ngọn lửa trong tim, sau đó dù lửa đã tàn nhưng vẫn còn để lại hơi ấm trong ta.
3. Vui luôn
Thánh Phaolô kêu gọi "Anh em hãy vui mừng luôn mãi".
-"Luôn mãi" là cả khi bị người ta đối xử xấu với mình nữa chăng?
-"Luôn mãi" là cả khi làm việc thất bại nữa chăng?
-"Luôn mãi" là cả khi người thân bị chết hay bị bệnh nặng nữa chăng?
-"Luôn mãi" ngay cả khi đã phạm tội chăng? v. v.
Chắc chắn là thánh Phaolô đã nghĩ đến những tình huống đó, dù vậy Ngài vẫn kêu gọi "Hãy vui mừng luôn mãi". Tại sao?
Liền sau lời kêu gọi ấy, thánh Phaolô viết tiếp "Hãy cầu nguyện không ngừng". Ðúng rồi, nếu gặp phải những tình huống ấy mà biết cầu nguyện thì mọi buồn sầu lo lắng sẽ sớm tan biến và trở thành niềm vui.
4. Có Ðấng mà các ngươi không biết, Ngài sẽ đến sau tôi
Ðấng mà người ta không biết chính là Thiên Chúa. Thật vậy, rất nhiều người không biết Thiên Chúa, thậm chí còn không tin là có Thiên Chúa. Ðiều này cũng tự nhiên thôi, vì chính Thánh Kinh cũng nói rằng khả năng con người không thể biết được Thiên Chúa: Thánh Gioan tông đồ đã viết "Chưa ai trông thấy Thiên Chúa bao giờ" (Ga 1, 18); Thánh Phaolô cũng viết rằng Thiên Chúa là Ðấng "ngự trong ánh sáng siêu phàm, Ðấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy" (1 Tm 6, 16).
Thế nhưng, vì yêu thương loài người, Thiên Chúa đã khấng cho loài người biết Ngài, qua Ðức Giêsu con yêu dấu của Ngài nhập thế sống giữa loài người chúng ta. Gioan Tiền hô đã báo cho người ta biết tin vui đó: "Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết".
Chúng ta là những người được biết, vậy chúng ta hãy vui mừng; và cũng như Gioan, chúng ta hãy chỉ Ngài cho nhiều người khác được biết.
5. Ðiều kiện của người làm chứng
Ðiều kiện tiên quyết của người làm chứng là sống đúng như chứng từ của mình.
Gioan Tẩy giả là người làm chứng như thế. Ðoạn Tin Mừng hôm nay viết: "Ông đến để làm chứng về ánh sáng". Trung thực với chứng từ này, một mặt ông cố gắng chỉ cho người ta thấy Ánh Sáng là ai, mặt khác khi có người tưởng ông là Ánh sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Rồi khi Ánh sáng xuất hiện, ông âm thầm rút lui: "Ngài phải sáng lên, còn tôi phải mờ đi".
Câu chuyện sau đây được thuật lại trong quyển The Tablet (Tháng 5 năm 1998):
Một cặp vợ chồng trẻ kia đều là bác sĩ. Họ đã học chung với nhau ở Ðại học Y khoa, quen nhau, rồi cưới nhau. Người vợ là công giáo, người chồng thì không. Ðã nhiều lần người vợ cố gắng thuyết phục chồng Rửa Tội, nhưng anh không hề quan tâm, có lẽ vì chưa thấy đạo công giáo có cái gì hay.
Thế rồi trong một đợt thanh lý công nhân viên, người chồng bị bắt đi cải tạo cùng với một số nhà trí thức khác. Người vợ không vào tù nhưng bị làm áp lực bỏ đạo và ly dị chồng. Nhiều nữ bác sĩ khác cùng cảnh ngộ đã đành chìu theo những áp lực ấy. Nhưng bà này vẫn cương quyết sống theo niềm tin và tình yêu của mình, mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn.
Nhưng một ngày kia, người chồng được trả tự do cùng với nhiều bác sĩ khác. Xảy ra rất nhiều tình huống trớ trêu dở khóc dở cười: nhiều bà vợ vui mừng vì chồng trở về nhưng không dám đón chồng vì đã trót ly dị. Riêng cặp vợ chồng này thì niềm vui rất trọn vẹn.
Sau đó người chồng xin gia nhập đạo công giáo. Anh đã thấy được giá trị của đức tin và tình yêu hiện thân nơi vợ mình. Ðó là một chứng từ, không phải bằng lời nói suông mà bằng cả cuộc sống.
6. Làm chứng cho Ðức Kitô
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài bên bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì có một bà cụ xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, quần áo bẩn thỉu rách rưới. Bà vừa lẩm bẩm một mình, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát rồi cho vào giỏ.
Cha mẹ lũ nhỏ gọi chúng lại và bảo chúng hãy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà mỉm cười với họ, nhưng mọi người không hề tỏ dấu đáp lại.
Nhiều tuần sau, cả gia đình mới biết rằng đã lâu lắm rồi, người đàn đà ấy đã tự nguyện, làm công việc lượm các mảnh thủy tinh rơi rớt trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.
"Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết" (Ga. 1, 26).
Sứ mạng của Gioan Tiền Hô là làm chứng cho Sự Sáng đích thật chính là Ðức Kitô. Ðức Kitô đến để chiếu ánh sáng cho trần gian. Toàn bộ Tin mừng Gioan chỉ là để trả lời cho câu hỏi này: "Giêsu Nagiarét, Người là ai?" Gioan không dùng danh từ Phúc âm mà chỉ dùng từ ngữ "chứng nhân". Ðộng từ "làm chứng" được Gioan nhắc đến 33 lần. Tin mừng Gioan được khai mở bằng lời chứng của Gioan Tiền Hô và kết thúc với minh chứng của Gioan Tông đồ: "Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra. Chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thực" (Ga. 21, 24).
Qua lối sống khổ hạnh khác người, qua lời rao giảng sám hối, và qua lời chứng: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi" (Ga. 1, 23) đã minh chứng Gioan là vị Tiền Hô của Ðấng Cứu Thế, là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan chỉ đứng ra làm chứng và báo trước ngày Chúa xuất hiện, rồi rút lui vào bóng tối.
Có thể nói, Gioan là người tôi tớ, còn Ðức Giêsu là ông chủ, Gioan là đèn soi, còn Ðức Giêsu là ánh sáng, Gioan là tiếng kêu, và Ðức Giêsu là lời hằng sống.
Như Gioan, người tín hữu cũng sẽ là chứng nhân cho Ðức Kitô trong cuộc sống. Về điểm này, Teihard de Chardin đã ví von rất sống động: "Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta mọi người cũng đoán được có Ðức Kitô". Bà cụ trong câu chuyện của Cha Mello phản ánh một tấm gương sáng ngời về lòng thương người, luôn quan tâm tới kẻ khác. Cụ sống khó nghèo, âm thầm, hy sinh thời giờ sức lực của mình, để cho niềm vui của người khác được trọn vẹn.
Martin Luther King viết: "Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời nói, mà còn làm chứng bằng cuộc sống của mình". Có những tâm hồn dần dần cải hóa nhờ việc làm của ta, nhưng chính ta lại không ngờ tới. J. Basquin nói: "Sống chứng nhân không phải là đuổi theo các tâm hồn, mà là sống làm sao để các tâm hồn chạy theo ta".
Ước gì khi nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đã nói về Thánh Gioan Vianey "Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người".
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lời rao giảng và bằng gương sáng đời sống chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm nhường: không hiếu danh cũng chẳng ganh tị, không cao ngạo cũng chẳng cậy uy. Nếu có khi nào thành công việc gì xin cho chúng con biết hướng vinh dự về cho Chúa, để qua đó, người ta nhận biết Chúa là Ðấng quyền năng và yêu thương con người. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta đã tiến đến Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng, niềm vui ngày Chúa đến dịp lễ Giáng Sinh đã gần kề. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui mừng cầu nguyện và tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta:
1. Thánh Gioan đã dọn đường về Ðức Giêsu là ánh sáng, là niềm vui cứu độ / Xin cho cộng đoàn Hội thánh trở thành chứng tá cho Chúa xuyên qua việc gieo rắc và bồi dưỡng niềm vui cho mọi người.
2. Ðức Giêsu được sai đi để đem Tin mừng cho người nghèo khổ bất hạnh / Xin cho các nhà cầm quyền trở thành những người bênh vực kẻ hèn yếu và đem an vui cho những người thiếu may mắn.
3. Ðức Giêsu đến trần gian để băng bó những tấm lòng tan nát / Xin cho những người nghèo đói thất nghiệp, tù đày, bị bỏ rơi / tìm được niềm an ủi và hy vọng nơi những người họ gặp gỡ.
4. Chúng ta đã được hiệp thông với Ðức Giêsu qua các Bí tích / Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / luôn thắp lên trong đời mình ánh sáng của Chúa / để sưởi ấm và soi sáng cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con đang sửa soạn để đón nhận niềm vui ngày Ðức Giêsu Giáng Sinh, xin Chúa sai Thánh Thần Chúa đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con để chúng con trở thành niềm an vui cho mọi người chúng con gặp gỡ. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô.
VI. Trong Thánh lễ
- Nên dùng Kinh nguyện Thánh Thể 4. Nhấn mạnh những chỗ:
--(Bài tiền tụng, đoạn 1): "và cho nhiều thọ tạo được vui hưởng ánh sáng huy hoàng của Cha"
--(Kinh nguyện Thánh Thể, cuối đoạn 3): "Người đã loan Tin Mừng cứu độ cho người nghèo khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ tù đày, đem lại niềm vui cho những ai sầu khổ"
- Trước Kinh Lạy Cha: Ðức Maria đã hát lên rằng "Ðấng toàn năng đã làm cho tôi bao điều kỳ diệu. Danh Ngài là thánh". Chúng ta hãy hợp ý với nhau cầu xin cho Danh Thiên Chúa được hiển thánh.
- Sau Kinh Lạy Cha: "... Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an mà các ngôn sứ của Cha đã loan báo . Chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin cho chúng con luôn giữ được niềm vui của những con người được cứu độ, cho dù đang sống giữa những gian truân thử thách của cuộc đời, đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc..."
- Trước khi Rước lễ: Thánh Gioan Tẩy giả đã loan báo: "Có một Ðấng ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết". Ðấng ấy chính là đây, "Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian, phúc cho ai..."
VII. Giải tán
Những lời Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu Thêxalônikê cũng là những lời Giáo Hội cầu chúc cho anh chị em hôm nay: "Xin chính Thiên Chúa bình an thánh hóa anh em toàn diện, để thần trí, linh hồn và thể xác anh em được gìn giữ vẹn toàn trong ngày Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến".
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam