Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 19
Tổng truy cập: 1363338
ĐỪNG SỢ
ĐỪNG SỢ
Lần giở lại những trang Tin Mừng, bạn và tôi sẽ bắt gặp ở đó đến bốn cuộc truyền tin của Thiên Chúa nói với loài người, liên quan đến mầu nhiệm Con Chúa giáng sinh. Ba cuộc truyền tin được ghi trong Tin mừng theo thánh Luca và một trong Tin mừng theo thánh Mathêu. Cả bốn cuộc truyền tin đều do thiên thần mang sứ điệp của Thiên Chúa đến cho con người. Quan trọng hơn, cả bốn cuộc truyền tin, thiên thần đều có chung một lời trấn an: “Đừng sợ!”
Đối với ông Giacaria: “Giacaria, đừng sợ! Vì lời cầu của ngươi đã được chấp nhận”. Sau đó, thiên thần cho biết ông sẽ có một con trai như lòng mong ước. Người con này sẽ nên cao trọng vì “nó sẽ làm lớn trước mặt Chúa” (Lc 1, 5- 20).
Đối với Đức Maria: “Maria, đừng sợ! Vì Người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa”. Qua lời thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Mẹ làm mẹ Đấng Cứu Thế (Lc 1, 26- 38).
Đối với các mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại”. Qua lời thiên thần, các mục đồng là những người được Thiên Chúa báo tin mừng giáng sinh trước tiên (Lc 2, 8- 15).
Đối với thánh Giuse: “Giuse, đừng sợ! Vì thai nơi bà là do Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 18- 24).
Hôm nay Chúa nhật áp lễ Giáng sinh, Giáo Hội muốn ta suy niệm cuộc truyền tin cho thánh Giuse. Để rút ra cho mình bài học Thánh Kinh từ câu chuyện truyền tin này, tôi lại rút ra bài học từ lời của thiên thần: “Đừng sợ”.
Lần giở tiếp những trang Tin Mừng, ta sẽ phát hiện rất nhiều lần Chúa bảo các môn đệ “đừng sợ”. Khi căn dặn các ông làm chứng cho Người, Chúa nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 28). Trong bữa tiệc ly, ngay trước giờ tử nạn của mình, Chúa căn dặn: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 27). Sau khi sống lại, ban bình an hoặc trấn an môn đệ “Đừng sợ! Hãy đi báo tin cho anh em của Thầy” (Mt 28, 10).
“Đừng sợ”! Lời Chúa ngày xưa nói với Giacaria, Đức maria, các mục đồng, thánh Giuse, và các môn đệ. Ngày nay lời này của Thiên Chúa cũng đang là lời nhắn gởi bạn và tôi. Bạn có sợ không? Riêng tôi, tôi thấy bạn và tôi sống trong cuộc đời này mà như chìm trong nỗi sợ. Tôi không bi quan đâu, sự thật đấy. Ngày nhỏ chúng ta sợ ma, sợ đòn. Lớn hơn một chút: sợ học tập thua sút bạn bè. Lớn hơn một chút nữa: sợ người yêu bội phản. Ngày ta lập gia đình, cũng là ngày ta sợ mình không tròn trách nhiệm của một người sống đời gia đình. Và cả cuộc đời ta, nỗi sợ lớn nhất, có lẽ là sợ chết.
“Đừng sợ, hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Nếu tôi nhớ không lầm, thì ngay sau khi làm giáo hoàng, đức Gioan Phaolô II đã mở đầu triều đại của mìn bằng một sứ điệp với những lời lẽ như thế. Trải dài trên 20 năm làm giáo hoàng của mình, Đức thánh cha không ngừng nhắc đi nhắc lại với thế giới: “Đừng sợ!”. Xoay quanh hai tiếng “đừng sợ”, Đức thánh cha mở ra cho ta thấy có những cái sợ rất nghịch lý. Lẽ ra ta không được sợ, lẽ ra ta phải xây dựng nó, thì ta lại sợ. Bằng chứng là hai sứ điệp ngày Quốc tế Giới trẻ lần thứ 15 và lần thứ 16, Đức thánh cha nhắc tới nỗi sợ nghịch lý này: “Các con đừng sợ trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới” (ngày QTGT lần thứ 15, số 3), và các con đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi” (ngày QTGT lần thứ 16, số 6). Nên thánh mà sợ? Đi con đường của Chúa mà sợ? Đúng lắm! Vì đi trên con đường của Chúa để được nên thánh là khổ nạn, là từ bỏ bản thân, là sống các giá trị Tin Mừng như nghèo khó, khiêm nhu, hiền từ, vâng lời… Suy nghĩ như thế, cho tôi cảm nhận trọn vẹn lời của Đức thánh cha: “Các con đừng sợ nen thánh, đừng sợ đi trên con đường của Chúa”. Đức thánh cha chắc phải có một cảm nghiệm thiêng liêng sâu đậm lắm, người mới vượt lên trên sự sợ hãi, tông du khắp thế giới làm cho nhiều tâm hồn thay đổi, Lời Chúa được loan báo.
Nhưng chắc chắn, khi nói tới sợ hãi, thì cái sợ của chúng ta không chỉ là sợ ma, sợ học thua sút, sợ mất người yêu, sợ không tròn trách nhiệm gia đình… mà nỗi sợ còn lớn hơn nhiều. Đó là nỗi sợ trước một thế giới mà giá trị của Tin Mừng bị xem nhẹ. Một thế giới màvật chất đang lên ngôi, quyền lực đang thắng thế, tự do tình dục đang được ưa chuộng, quyền của trẻ thơ, của thai nhi bị tước mất. Có khi chính những người cha, người mẹ lại tước mất quyền sống của con mình. Một thế giới mà ngòi nổ của khủng bố, chiến tranh lúc nào cũng sẵn sàng. Sự bình an của tôi, của anh chị em, của cả nhân loại luôn bị đe dọa. Ngay trên quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà ngày xưa Chúa sinh ra, lại không có được một thánh lễ trong đêm sinh nhật Chúa, vì người ta đang gieo rắc bạo lực và chiến tranh…
Trước viễn cảnh của thế giới như thế, người Kitô hữu lại được mời gọi hãy sống các giá trị của Tin Mừng. Nghĩa là phải ngay thẳng trong một thế giới nhiều gian dối, yêu thương trong những hận thù, có tinh thần nghèo khó trong một xã hội đề cao tiền của, sống tha thứ giữa những chống đối và bạo lực… Sống như thế chỉ toàn là thiệt thòi thôi. Bởi đó ai mà không sợ. Tôi cũng sợ lắm bạn ạ! Nhưng chính trong lúc này đây, chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, bạn và tôi được mời gọi “đừng sợ”, để có thể sống trong bình an của ngày Giáng sinh. Để có bình an, bạn và tôi hãy đặt hết niềm tin vào Chúa. Tin rằng Chúa sẽ thực hiện chương trình của Người theo ý mà Người muốn. Và xin cho Thánh Ý được thể hiện nơi trần gian trong mọi hoàn cảnh của thế giới, của nhân loại, của Giáo Hội, và của mỗi người. Tin nơi Thiên Chúa là gói trọn cuộc đời mình trong tay Người, để mặc Ý Chúa được thể hiện, chắc chắn ta sẽ có bình an. Tôi xin mượn lời thiên thần lặp lại một lần nữa: “Bạn và tôi, đừng sợ!”.
69.Điều xảy đến bất ngờ - Lm Nguyễn Ngọc Long
Khi sống trong trông mong chờ đợi, mà bỗng dưng xảy đến điều gì bất ngờ mang lại sự may lành thích thú hơn điều mong đợi. Lúc đó lòng ta tràn đầy niềm vui hạnh phúc.
Nhưng trái lại, khi điều xảy đến bất ngờ, không những không như mong đợi mà còn đưa đến điều lo âu suy nghĩ. Lúc đó, ta mang tâm trạng buồn lo thất vọng. Thánh Giuse sau khi kết hôn với Đức Mẹ Maria, cũng đã trải qua điều xảy bất ngờ mang lại nhiều suy nghĩ bối rối.
Ông Giuse kết hôn với cô Maria, nhưng ông liền khám phá ra: Cô Maria đã có thai. Điều này xảy đến thật bất ngờ ngoài điều ông trông chờ... Bao nhiêu câu hỏi diễn ra trong tâm trí ông và ông không tìm ra câu giải đáp: Tại sao cô Maria lại mang thai trước khi cưới hỏi, với ai vậy? Phải chăng cô không trung tín với người chồng của cô, là ta đây? Bây giờ phải làm sao? Cô đã bất trung với ta, thì ta bỏ cô vậy, mặc cô muốn sống sao như ý cô?
Ông âm thầm suy nghĩ ngày đêm về chuyện này, thì lại một bất ngờ xảy đến nữa. Thiên thần Chúa hiện đến với ông trong một giấc mơ và báo cho ông biết: con trẻ trong bào thai cô Maria là Con Thiên Chúa. Cô Maria mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần tác động. Con đừng sợ. Đó là chương trình của Thiên Chúa xuống trần gian làm người!
Ông Giuse tuy là người đạo đức, có lòng yêu mến kính sợ Thiên Chúa, nhưng làm sao ông có thể hiểu nổi điều xảy đến bất ngờ vượt quá sức tưởng tượng của một bác thợ mộc chất phác nơi miền thôn quê! Dẫu vậy, lần này thì ông không hồ nghi. Ông âm thầm chấp nhận cô Maria và những lời Thiên Thần nói cho ông về Con Thiên Chúa và để bụng suy nghĩ tiếp về chương trình dự định của Thiên Chúa. Ông tin vào sự quan phòng của Người.
Điều xảy đến bất ngờ lần này mang lại cho ông sự bình an trong tâm hồn.
Không chỉ Đức Mẹ Maria và ông thánh Giuse sống trải qua những điều bất ngờ về chương trình của Thiên Chúa, nhưng còn có những người khác nữa: các mục đồng. Họ là những người quê mùa thất học, suốt đời chỉ sống với súc vật ngoài cánh đồng cỏ. Bỗng dưng họ cũng nhận được điều xảy đết bất ngờ. Thiên thần Chúa hiện đến báo tin cho họ: “Các Bạn đừng sợ! Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sinh hạ trong chuồng súc vật của các Bạn. Các Bạn hãy đến mà xem!”
Họ ngạc nhiên nhưng trong tâm trạng vui mừng. Vì điều bất ngờ xảy đến mang lại cho họ nhiều thích thú lạ lùng. Họ đâu có thể ngờ bỗng dưng có khách cao trọng từ trời cao đến thăm và sống trong nhà mình. Và từ đó làm biến đổi cuộc sống của họ: từ người chăm sóc thú vật thành người được nhìn thấy Thiên Thần của Chúa, được đến thăm viếng trò truyện với Con Trẻ Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không chỉ với biến cố Thiên Chúa xuống thế làm người mới có những điều xảy bất ngờ, nhưng điều xảy ra bất ngờ thường có ngay trong cuộc đời mỗi người. Điều đó có thể là điều may lành an vui, nhưng cũng có thể là điều gây ngạc nhiên bỡ ngỡ xa lạ đến độ lo âu suy nghĩ bối rối mất bình an.
Thông thường ai cũng mong điều xảy đến bất ngờ mang lại niềm vui hạnh phúc hơn điều mang đến sự bất an trong cuộc sống. Như cuộc đời thánh Giuse đã trải qua, đôi khi những điều xảy ra bất ngờ làm lo âu suy nghĩ bối rối, không mấy ai muốn chấp nhận, lại là tín hiệu quan trọng mang tin lành bình an cho con người.
Những đau khổ, bệnh tật, điều gây bối rối, điều trái ý gây khó chịu là những điều xảy đến bất ngờ và chẳng ai muốn có. Nhưng nếu như thánh Giuse với một tâm hồn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, mà vui lòng chấp nhận, điều đó có thể trở nên giá trị tốt đẹp cho đời sống chính mình và người khác nữa.
Đức Mẹ Maria cũng đã vui lòng chấp nhận sứ điệp Thiên Thần Chúa mang đến bất ngờ ngoài điều mong muốn cho đời mình, nên Chúa mới giáng sinh xuống trần gian. Ngài mang ánh sáng tình yêu từ trời cao xuống cho con người. Và qua biến cố đó, nhân loại mới có ngày lễ mừng trọng đại: Thiên Chúa làm người, để con người được làm con Thiên Chúa.
70."Giuse, con Vua Đavit" – Lm. Nguyễn Hùng
Theo C.G.Jung, một nhà tâm lý nổi tiếng của Tây phương, giấc mơ bày tỏ chiều kích vô thức của tâm trí con người, hướng về biến cố tương lai, và bộc lộ lãnh vực bị quên lãng nơi cá tính đương sự. Giấc ngủ là nhu cầu của thân xác hơn là của linh hồn. Do đó có thể nói rằng khi ngủ linh hồn vẫn tiếp tục sinh hoạt qua tiềm thúc, tức là giấc mơ. Tuy nhiên vì linh hồn không được nối kết chặt chẽ với thế giới linh thiêng, giấc mơ chỉ là sự ráp nối hỗn tạp những gì hình ảnh tồn đọng trong trí nhớ, hầu hết không có ý nghĩa gì.
Trong Thánh Kinh, giấc mơ đóng vai trò khá quan trọng. Tổ phụ Giuse đã bị anh em chế nhạo là “kẻ mơ màng” vì ông đã kể ra mình nằm mơ thấy bó lúa của các anh em cúi xuống thần phục bó lúa của mình; và trong một giấc mơ khác ông thấy mặt trời, mặt trăng, và 11 ngôi sao cúi mình trước mặt ông (Gn 37:5-9). Đây là điềm báo trước ông sẽ lên chức tể tướng của nước Ai cập. Ở đây giấc mơ làmạc khải bí nhiệm của Thiên Chúa về tương lai của đương sự. Thiên Chúa hé mở một phần chương trình của Ngài cho con người biết. Tổ phụ Giuse là người được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu nước Ai cập và gia đình khỏi nạn đói. Ông là người công chính, biết kính sợ Chúa, nên tâm hồn nhạy cảm dễ đón nhận mạc khải của Thiên Chúa.
Vào Chúa nhật 4 mùa Vọng, Giáo hội muốn giới thiệu một nhân vật có vai trò quan trọng trong mầu nhiệm Thiên Chúa Giáng sinh; đó là thánh Giuse. Ngài được Phúc âm giới thiệu là người công chính, người sống gần Thiên Chúa. Thánh Giuse đã đính hôn Đức Mẹ, nhưng không hề biết Mẹ thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Nên khi thấy có dấu hiệu khác thường nơi Đức Mẹ, thánh Giuse bị bối rối không biết làm sao, nên định âm thầm rút lui có trật tự. Thiên Chúa đã dùng giấc mơ để mạc khải cho thánh Giuse vai trò của thánh nhân trong chương trình cứu chuộc nhân loại. Khi hiện ra trong giấc mơ, thiên thần đã gọi: “Hỡi Giuse, con vua Đavít”. Tuy thánh Giuse chỉ là cha nuôi, nhưng theo truyền thống của Do thái, người cha xác định dòng dõi của con cái. Chúa Kitô được tiên báo sinh ra trong dòng dõi vua Đavít. Ngài là Vua theo dòng dõi vương giả chính tông của Do thái. Sứ mệnh cứu thế của Ngài gắn liền với uy quyền của một Vị vua trên hết các vua.
Thánh Giuse là nhân vật quan trọng trong biến cố Chúa Giáng sinh, nhưng Phúc âm không ghi lại lời nói nào của Ngài. Thánh Giuse tỏ ra là người quản gia trung tín săn sóc hai kho tàng quí giá nhất trần gian đó là Chúa Giêsu hài nhi và Mẹ Maria. Tinh thần âm thầm phục vụ như người tôi tớ của Thiên Chúa là tiếng nói sâu xa mà thánh Giuse để lại cho nhân loại.
Trong mùa Vọng, Giáo hội kêu gọi các tín hữu chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến với tâm tình chờ đợi như người đầy tớ gọi chủ đến bất ngờ, như những trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể. Thánh Giuse chính là gương mẩu để chúng ta học hỏi. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình khiêm tốn, âm thầm, tận tụy, và nhất là sống liên kết với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện. Bầu khí ồn ào của những ngày lễ Giáng sinh khiến chúng ta xa rời ý nghĩa chân thực của Ngày Lễ. Chúng ta vui mừng nhưng không phải bằng cách say sưa, chè chén, nhậu nhoẹt linh đình. Chúng ta vui mừng bằng sự chia sẻ của ăn, áo mặc, với những người nghèo khổ; bằng những nụ cười với người không quen biết, không ưa thích; bằng lời nói tốt cho người súc phạm đến mình; bằng lòng rộng rãi bao dung với con cái; bằng những lời nói, cử chỉ yêu thương, biết ơn đối với cha mẹ; và hơn hết bằng lời cầu nguyện cho thế giới được hòa bình, cho những tấm lòng hận thù bị tan biến, thay vào đó là những trái tim đầy ắp tình người.
71.Khởi đầu mới phát xuất từ Thiên Chúa
(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Phần Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai, có hai người khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường song song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4). Giuse thì được thiên thần Chúa báo tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua Đavít, còn Gioan thì được một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt các vị được mời đảm nhận trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng Mêsia trong phép rửa. Trong cả hai trường hợp, cảm thức về sự bất xứng của hai vị đã là động lực khiến các vị có thái độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải hiểu sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối rối của các vị đã được thiên thần hoặc chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp nhận đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê, Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là phân đoạn thứ hai thuộc nửa đầu của Phần Mở.
Bảng gia phả đã nói rằng Đức Giêsu xuất thân từ nhà Đavít và Abraham cũng như Người bén rễ sâu vào trong lịch sử Israel. Đồng thời bảng gia phả cũng khẳng định hoàn cảnh huyền bí của cuộc chào đời của Người (1,16). Với cách bố trí cũng như những con số, bảng gia phả cho thấy rằng Đức Giêsu là cùng đích và sự hoàn tất của lịch sử này. Nhưng bảng gia phả lại không nói cho biết sự hoàn tất này hệ tại điều gì. Điều này bây giờ được nói rõ qua sứ điệp Thiên Chúa ban cho Giuse và được xác nhận qua cách xử sự của Giuse.
Trong c. 16 của ch. 1, tác giả bảo chúng ta rằng Giuse là chồng của Maria và Maria là mẹ của Đức Giêsu, nhưng Giêsu lại không phải là con của Giuse. Trong đoạn văn đọc hôm nay (1,18.20), tác giả liên tiếp nhắc lại rằng Chúa Thánh Thần ở tại nguồn của cuộc đời Đức Giêsu đến cuối đoạn văn, tác giả nhắc lại lần thứ ba rằng Giuse không can dự gì vào cuộc chào đời của con trẻ này (1,25). Nếu ở 1,25, tác giả viết: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”, ông muốn nói rằng cho đến khi Đức Giêsu chào đời, Giuse không hề có mộtquan hệ phu phụ nào với Maria, nhưng cũng không khẳng định rằng sau đó Giuse đã bắt đầu có quan hệ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm năm phần:
1) Đầu đề của đoạn (1,18a);
2) Hoàn cảnh của Giuse và Maria (1,18b-19);
3) Thiên Chúa can thiệp (1,20-21);
4) Lời bình của tác giả (1,22-23);
5) Giuse thi hành lệnh Thiên Chúa (1,24-25).
3.- Chú giải
- chung sống (18): Synelthein, “đến với, tham gia với”, có thể có nghĩa là quan hệ vợ chồng hoặc sống với nhau. Văn cảnh trực tiếp dường như hợp với nghĩa thứ nhất hơn. Người thiếu nữ Do Thái được đính hôn vào khoảng năm 12 tuổi, từ giã cha mẹ để về sống dưới sự bảo trợ của chồng vào khoảng năm 13-14 tuổi. Sự chuyển đi này mở đầu cho cuộc sống chung và cũng là việc kết hôn.
- người công chính (19): Giuse không công chính theo nghĩa vâng phục lề luật, bởi vì không có khoản luật nào buộc phải bỏ vị hôn thê bị coi là ngoại tình (Đnl 22,13-21.23-27 liên hệ đến hôn nhân hoàn hợp; x. Đnl 24,1). Vả lại, khi bỏ Maria một cách kín đáo (lathra), ngài cũng chẳng vâng phục lề luật, bởi vì hành vi rẫy vợ chỉ có giá trị pháp lý nếu làm công khai (x. Đnl 22,15: tại cửa thành). Một đàng, nếu hiểu đây là “sự công chính theo luật pháp”, chúng ta đứng trước một thế lưỡng nan. Quả vậy, nếu dưới mắt Giuse, Maria đã ngoại tình, ngài bỏ bà là chuyện dễ hiểu, nhưng ta không hiểu vì sao ngài lại tính bỏ bà “cách kín đáo”, bởi vì khi đó việc này sẽ không có hiệu quả pháp lý và thật ra bí mật cũng chẳng giữ được lâu. Còn nếu Giuse cho rằng Maria vô tội, ta không hiểu được là vì sao ngài lại nghĩ đến việc bỏ bà, vì luật không buộc như thế; đã thế, trong tư cách là hôn phu, ngài còn có nghĩa vụ bảo vệ hôn thê vô tội chống lại những ngờ vực vô căn cứ của kẻ khác. Vậy không thể hiểu sự công chính của ngài theo nghĩa pháp lý.
Đây là sự công chính tôn giáo. Chính sự công chính này buộc Giuse phải tôn trọng việc Thiên Chúa làm nơi Maria và ngăn cản ngài nhận lấy những công trạng từ một hành động của Thiên Chúa: tự mình, ngài nghĩ ngài không được phép đưa về nhà một người đã được Thiên Chúa dành riêng cho Ngài. Nếu làm như thế, ngài có vẻ chiếm đoạt mộtvai trò mà Thiên Chúa không trao cho ngài. Đứng trước mầu nhiệm này, ngài muốn rút lui, và vì tế nhị do đức công chính đối với Thiên Chúa, ngài đã để ý không “phổ biến” mầu nhiệm Thiên Chúa đang bao trùm Maria. Vấn đề nằm ở động từ deigmatisai: theo Origiênê và Êusêbiô, động từ này không hề hàm chứa một ý niệm ô nhục nào; cha Joušon dịch là “vén mở, tiết lộ”. Động từ paradeigmatisai mới là “trừng phạt để nêu gương; làm cho ô nhục, mất danh giá”. Giuse đã phản ứng như tất cả mọi người công chính trong Kinh Thánh khi nhận ra Thiên Chúa đang can thiệp vào trong lịch sử của họ: như Môsê cởi dép khi đứng trước bụi gai cháy, như ngôn sứ Isaia kinh hoàng khi thấy vị Thiên Chúa ba lần thánh xuất hiện, như bà Êlisabét tự hỏi vì sao mẹ Đức Chúa của bà lại đến thăm bà, như viên đại đội trưởng trên đồi Sọ, như Phêrô khi chứng kiến mẻ cá lạ lùng. Như “Aben người công chính” (23,36: người “công chính” duy nhất được Mt nêu tên trong Tin Mừng. Chắc chắn Aben “công chính” không do lề luật, bởi vì lề luật chỉ được ban bố với Môsê!), Giuse cũng tỏ ra là người trung thành thờ phượng Thiên Chúa.
Cách giải thích này được hỗ trợ bởi ngữ cảnh tổng quát của toàn ch. 1 của Mt. Trong bài đầu tiên (1,1-17), Mt đã trình bày gia phả của Đức Giêsu khởi đi từ tổ phụ Abraham và từ vua Đavít ngang qua Giuse. Nhưng bảng gia phả này lại gặp ngay nơi Giuse một vấn đề hóc búa. Đó là vì Đức Giêsu không phải là con Giuse theo xác thịt. Vậy mục tiêu của đoạn văn này là để giải thích làm thế nào Đức Giêsu có thể thuộc về dòng dõi vua Đavít, nếu Người không phải là con của Giuse. Lời giải thích nằm ở việc Giuse nhìn nhận Đức Giêsu làm con về pháp lý. Mục tiêu của bản văn Tin Mừng này, thay vì bảo vệ việc thụ thai đồng trinh, thì tìm các xác định do đâu Đức Giêsu có thể trở thành hậu duệ vua Đavít và Đấng Mêsia thuộc dòng tộc vua Đavít cho dù có việc trinh thai. Vậy hai phần của ch. 1 của Mt làm thành hai cánh của cùng một việc chứng minh.
Một hỗ trợ khác nữa đến từ chính những lời của thiên thần (cc. 20-21): “Này ông Giuse là con cháu vua Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì quả thật (HL. gar: car certes; for, indeed, certainly) điều được sinh thành (to gennêthen = đứa con) nơi bà là việc của Thánh Thần, nhưng (HL. de) bà sẽ sinh một con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu; vì (gar) chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Dịch gar là “quả thật” (chắc chắn) là chuyện thông thường vào thời ấy (x. 1 Cr 9,10; 2 Tx 2,20; Mt 18,7; 22,14; 24,6…). Vậy khi nói như thế, thiên thần giả thiết Giuse đã biết chuyện thụ thai đồng trinh và chính chuyện này đã thúc đẩy ngài rút lui, vì thấy Thiên Chúa can thiệp vào cuộc đời Maria. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã truyền cho ngài “dù sao” (“nhưng”) cũng cứ chấp nhận và đặt tên cho con, và khi đó, ngài đưa con tháp nhập vào trong dòng dõi vua Đavít.
- thiên thần Chúa (20): Như trong Cựu Ước, thuật ngữ này được dùng để nói tới sự can thiệp của Thiên Chúa (x. St 16,7.13; Xh 3,2), chứ không có nghĩa là một trong các “thiên thần".
- Giêsu (21): Trong Kinh Thánh, tên người còn chỉ chức năng Thiên Chúa quy định cho một người trong Lịch sử cứu độ. Iêsous là dạng Hy Lạp của tên Híp-ri Yehôshua (x. Xh 24,13) hoặc Yeshua (Nkm 7,7), có nghĩa là “Yhwh là sự cứu độ”, “Yhwh ban ơn cứu độ”, “Yhwh cứu độ”, “Ơn cứu độ của Yhwh”.
- Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai (23): Tác giả trích Is 7,14 theo Bản LXX, bởi vì trong bản này có từ parthenos, “trinh nữ”, chứ trong bản Híp-ri, ta đọc là almah, “thiếu nữ”, có thể là một thiếu nữ hoặc một người vợ trẻ. Cũng vì dựa trên Is 7,14, Do Thái giáo Paléttina không chờ đợi Đấng Mêsia được sinh ra bởi một trinh nữ, nhưng chờ đợi Người là một con đầu lòng (x. Lc 2,7).
- Emmanuel (Hp. Immanuel): Tác giả không nêu ra một tên mới của Đấng Mêsia, mà nêu lên ý nghĩa của bản thân và công trình của Người. Is 7,14 và 8,8 cũng không nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thiên Chúa, vì điều này được giả thiết có trong Kinh Thánh, nhưng nhấn mạnh đến sự diện diện năng động của Ngài để cứu giúp. Như thế, nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài để trợ giúp và cứu độ họ. Lời hứa long trọng của Đức Kitô vinh hiển (“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, 28,20) cho thấy lời loan báo ấy đã được thực hiện hoàn hảo. TM Mt mở ra và kết thúc với ý tưởng này: nơi bản thân Đức Giêsu, Thiên Chúa sẵn sàng đến hiện diện năng động, tích cực, với loài người.
- ông không … cho đến khi… (25): Câu này hoàn toàn đúng với c. 23 cho thấy rằng Maria là trinh nữ khi sinh con. Câu “ông không biết (= ăn ở với) bà, cho đến khi bà sinh một con trai” không chống lại việc sau đó Maria vẫn đồng trinh, cũng không ám chỉ điều này, mà cũng không cho phép kết luận rằng sau đó bà đã có những quan hệ vợ chồng với Giuse. Đàng khác, chúng ta ghi nhớ rằng mẫu tính đồng trinh của Đức Maria không có nghĩa sinh học, mà diễn tả niềm tin của Giáo Hội vào thần tính và nhân tính của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đầu đề của đoạn (18a)
Với đầu đề (18a), tác giả Mt ngỏ lời với độc giả để xác định hoặc điều chỉnh cách thức họ hình dung cuộc chào đời của Đức Giêsu.
Đức Giêsu không phải là con của Giuse, nhưng là tạo thành của Chúa Thánh Thần. Nơi Người, lịch sử Israel đi đến chỗ hoàn tất, nhưng Người không phải là hoa trái tự nhiên hoặc kết quả thiết yếu của lịch sử này. Người không lệ thuộc vào và không chỉ xuất thân từ mộtchuỗi các thế hệ và những cuộc sinh hạ con người. Người là sự hoàn tất, nhưng là như mộtkhởi đầu hoàn toàn mới. Khởi đầu cuộc sống của Người là do Chúa Thánh Thần, khởi đầu này trực tiếp gắn với hoạt động của quyền lực sáng tạo của Thiên Chúa. Thiên Chúa gồm tóm nơi Người toàn thể lịch sử Israel, đồng thời thiết lập mộtkhởi đầu mới mang tính sáng tạo. Không phải là loài người đã ban tặng Đức Giêsu cho nhau; Người là khởi đầu và là quà tặng hoàn toàn đến từ Thiên Chúa. Đó là nguồn gốc của Đức Giêsu (1,18), và nguồn gốc này cho thấy bản tính và ý nghĩa của đời Người.
* Hoàn cảnh của Giuse và Maria (18b-19)
Tuy thuộc nguồn gốc thần linh, Đức Giêsu lại được liên kết với lịch sử Israel. Mẹ Người là Maria đã đính hôn với Giuse, nhưng chưa về sống trong nhà Giuse. Theo luật lệ Do Thái, với lễ đính hôn, hai người nam nữ đã được coi là vợ chồng rồi. Vì thế, Giuse được gọi là chồng của Maria (1,16.19), còn Maria thì được gọi là vợ của Giuse (1,20.24). Chỉ mộtnăm hay mộtnăm rưỡi sau lễ đính hôn, vị hôn thê mới được đưa về nhà vị hôn phu và bắt đầu cuộc sống vợ chồng. Ở đây, tác giả Mt cũng không cung cấp một thông tin nào đặc biệt về Giuse và Maria, ngài nói về hai đấng như những nhân vật rất quen thuộc với độc giả. Vậy mục tiêu của ngài không phải là cung cấp tài liệu, mà là huấn giáo. Trong thời gian giữa lễ đính hôn và cuộc chuyển về nhà chồng, Giuse nhận ra rằng Maria đã có thai. Đọc c. 18b cách bình thản, ta thấy dường như tác giả gợi ý rằng Giuse có biết việc Maria mang thai là do sự can thiệp của Chúa Thánh Thần. Giuse quyết định bỏ Maria kín đáo vì tế nhị đối với sự can thiệp của Thiên Chúa nơi Maria.
* Thiên Chúa can thiệp (20-21)
Giuse đang toan tính như thế trong lòng, thì được Thiên Chúa can thiệp qua việc mộtthiên sứ đến báo mộng để khẳng định với ngài là quả thật con trẻ sắp chào đời thuộc nguồn gốc thần linh; nhưng ngài có nhiệm vụ đón Maria về và đặt tên cho con trẻ. Ngài phải duy trì dây liên hệ với Maria và như thế, nhìn nhận trước luật pháp rằng con trẻ ấy là con của ngài. Do nhiệm vụ Thiên Chúa giao, Giuse trở thành cha của hài nhi về mặt luật pháp và cũng trước luật pháp, Giêsu trở thành con và đương nhiên là người thừa kế của ngài. Hệ quả là Đức Giêsu được tháp nhập hợp pháp vào gia phả của Giuse. Như thế, Đức Giêsu đi vào trong dòng dõi xuất thân từ các vị tiền nhân ấy và trở thành đích điểm và sự hoàn tất của dòng dõi ấy. Như vậy, tác giả Mt không nhắm thỏa mãn óc tò mò của chúng ta. Tất cả những gì ngài muốn chúng ta hiểu là: con của bà Maria là người được Thiên Chúa hứa cho thừa kế ngai vàng vua Đavít, như các ngôn sứ đã từng loan báo.
Còn Đức Giêsu thực hiện vị trí và nhiệm vụ ấy như thế nào, thì chính tên của Người cho thấy, tên mà Thiên Chúa đã chọn cho Người và Giuse phải đặt cho Người. Thiên Chúa đã đổi tên cho người trước đây được gọi là Abram và ban cho ông tên mới là Abraham, “vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc” (x. St 17,5). Sự tuyển chọn của Thiên Chúa được diễn tả ra và xác nhận bằng việc đổi tên. Vì trao mộtnhiệm vụ mới và với nhiệm vụ này là mộtđời sống mới, Ngài ban cho mộttên mới. Điều đó càng đúng hơn nữa với Đức Giêsu, con cháu tổ phụ Abraham. Cùng với cuộc đời, Người đã được Thiên Chúa ban cho ngay từ đầu tên và nhiệm vụ. Tên của Người là Yeshua hay là Yehoshua, có nghĩa là “Thiên Chúa là sự cứu độ”; Người giải thoát khỏi tội lỗi (1,21; x. Tv 130,8). Với nhiệm vụ này, Đức Giêsu có quyền năng Thiên Chúa và ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho ta nhờ trung gian Người. TM Mt sẽ cho thấy Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Đức Vua và Vị Mục tử, Người săn sóc dân Người và đưa họ đến sự sống viên mãn.
* Lời bình của tác giả (22-23)
Đến đây tác giả viết lời bình. Với biến cố này, đã thực hiện điều mà Thiên Chúa đã loan báo qua miệng các ngôn sứ. Trong dự phóng của Ngài, chính Thiên Chúa muốn có cuộc chào đời và hài nhi này. Khi khẳng định rằng lời Thiên Chúa được ứng nghiệm, mộtlần nữa tác giả muốn nói rằng đàng sau biến cố này, có Thiên Chúa như là Đấng quy định và hướng dẫn mọi sự. Khi cho biết Đức Giêsu cũng chính là “Emmanuel”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, tác giả cho biết đặc tính của biến cố Người đến, cũng như đặc điểm của sự hiện diện và công trình của Người: nơi Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Đức Giêsu là sự hiện diện năng động của Thiên Chúa gần kề chúng ta; nơi Người, vị Thiên Chúa từ bi thương xót tỏ mình ra, vị Thiên Chúa trợ giúp và cứu độ, cũng như tỏ hiện dự phóng của Ngài đối với loài người. Nơi Người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta và chúng ta đến được với Thiên Chúa (x. 28,20).
* Giuse thi hành lệnh Thiên Chúa (24-25)
Khi đã biết rõ ý Thiên Chúa, Giuse thi hành ngay: ngài “đón vợ về nhà”. Câu văn tiếp theo cho biết là ngài không có quan hệ phu thê với Maria, và như thế hài nhi Giêsu không phải là con của ngài. Nhưng câu văn này cũng không hề ám chỉ là sau đó Giuse có quan hệ vợ chồng với Maria. Với lại tác giả không quan tâm đến vấn đề này. Ông còn đang cho thấy là Giuse thi hành chính xác lệnh Thiên Chúa truyền: “ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu”.
+ Kết luận
Tại hai cực của lịch sử Lời Hứa, có hai ơn gọi hướng về nhau và hoàn tất lẫn nhau: ơn gọi của Abraham, tổ phụ đón nhận Lời Hứa, và ơn gọi của Giuse, người đã vâng lệnh Chúa truyền nên đã tạo điều kiện cho Lời Hứa được thực hiện, đó là biến cố Đấng Emmanuel ngự đến. Kể từ nay, nhờ đã được Giuse đưa tháp nhập vào trong dòng dõi vua Đavít, Đức Kitô có quan hệ trực tiếp với mỗi người con người cháu của tổ phụ Abraham, dù họ có đông như sao trên trời không thể đếm nổi (x. St 15,5). Công trình của Người không liên hệ đến mộtlãnh vực nào của cuộc sống loài người, nhưng đi đến tận gốc rễ và thay đổi tương quan với Thiên Chúa. Người sẽ chiến thắng sự bất phục tùng và thái độ nổi loạn, sẽ tha thứ tội lỗi và tái lập sự hiệp thông vào đời sống với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu là cùng đích và sự hoàn tất của lịch sử Israel, là như mộtkhởi đầu mới phát xuất từ Thiên Chúa. Như thế, Thiên Chúa không bỏ mặc dân Ngài xoay xở bằng sức lực riêng, phó mặc con người cho sức mạnh của lịch sử. Đức Giêsu là quà tặng chân thật Thiên Chúa ban cho dân Ngài. Nơi Người, công trình cứu độ của Thiên Chúa được hoàn tất và sự hiệp thông mật thiết nhất giữa Thiên Chúa và loài người được thiết lập: Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
2. Đức Giêsu là con cháu vua Đavít, nhưng không theo nghĩa là Người có mộtquyền lực chính trị hoặc quân sự, hoặc Người là một nhà giải phóng chính trị theo nghĩa trần thế. Người sẽ giải thoát loài người khỏi tội lỗi, sẽ đưa con người thoát khỏi tình trạng xa cách với Thiên Chúa và đưa họ về hiệp thông trọn vẹn với Ngài.
3. Bởi vì biết là Thiên Chúa đang can thiệp vào cuộc đời Maria cách đặc biệt mà lại không thấy Ngài giao phó cho mình sứ mạng gì đặc biệt, Giuse tìm cách âm thầm rút lui. Ngài chứng tỏ ngài có mộtcảm thức sắc bén về Thiên Chúa, mộtlòng tôn trọng thẳm sâu đối với mầu nhiệm của Thiên Chúa và mầu nhiệm thánh ý Ngài. Người Kitô hữu được mời gọi học nơi Giuse bài học này: tôn trọng đối với các dự phóng của Thiên Chúa nơi mình và nơi kẻ khác, nhạy bén đối với sự cao cả thẳm sâu và sự hiện diện gần gũi của Ngài trong những biến cố lớn nhỏ thuộc cuộc sống hằng ngày.
4. Đức Giêsu chính là Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn khi đọc TM Mt cho đến hết (Mt 28,20). Hôm nay Người là Emmanuel để tiếp tục hỗ trợ chúng ta trong hành trình trần thế, trong nỗ lực loan báo Tin Mừng “cho muôn dân” và cứu độ chúng ta bằng quyền năng của Đấng “đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới đất”.
72.Người Công Chính
(Giải tích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
“Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyển”
Gia phả của Chúa Giêsu khởi từ thời Abraham, đến Đavít và cao điểm là việc Người sinh ra (1,1-17). Sau đó Matthêô trình bày việc Chúa Giêsu giáng sinh để hoàn tất lời hứa cứu chuộc của Thiên Chúa đối với dân Người (2,1-12). Trình thuật về Giuse (1,18-25) là đoạn chuyển tiếp giữa hai đoạn về gia phả và giáng sinh. Chủ đề chính của đoạn là Chúa Giêsu Kitô từ Thiên Chúa mà đến và sứ mạng cứu chuộc của Người. Phần Giuse, ông được tham dự vào sứ mạng cứu độ của Người bằng việc đem mẹ Maria về nhà, đặt tên cho Chúa Giêsu, và qua ông Chúa Giêsu được kể là thuộc dòng tộc Đavít. Những từ liên kết đoạn nầy với hai đoạn trước và sau là: “sự sinh ra” genesis (1,1.18), “sinh ra”, gennaō (1,2; 2,1); Iēsous (1,1.18.25; 2,1). Câu 1,17 như là bảng tổng kết của gia phả, trong khi những gì được trình bày trong câu 1,16 sẽ được giải thích chi tiết trong đoạn về câu chuyện Giuse (1,18-25).
Bố cục của đoạn nầy: – Dẫn nhập: lập lại bối cảnh của việc Chúa Giêsu giáng sinh (1,18); – Giuse và sứ mạng của ông đối với việc giáng sinh của Chúa Giêsu (1,19-25). Iēsous (1,18.21.25) và Iōsēph (1,18.19.20.24) là từ xuất hiện nhiều nhất trong đoạn nầy, qua đó Giuse được bàn đến trong tương qua chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Được cưu mang bởi Chúa Thánh Thần (1,18)
Câu 1,16 chỉ ghi nhận sự kiện cách khách quan là sự sinh ra của Chúa Giêsu, trong khi câu 1,18b tập trung vào trường hợp nào Người được cưu mang. Tên “Giêsu Kitô” trở thành tên kép của Đấng được sinh bởi mẹ Maria ở đây. “Giêsu Kitô” nầy là “con của Đavít, con của Abraham” (1,1). Có một phân biệt tinh tế ở đây là Giuse được giao nhiệm vụ đặt tên cho Đấng sẽ được sinh ra nầy là “Giêsu” (1,21.25), trong khi tước hiệu “Kitô” thì do Thiên Chúa. Cụm từ “được gọi là Đấng Kitô” trở thành yếu tố cần thiết để xác định căn tính của “Giêsu” (x. 1,16; 27,17.22). Trong khi tên “Kitô” thường được gắn liền với “Con Thiên Chúa” (16,16; 26,63), tên “Giêsu” gắn liền với Giuse (13,55), chỉ nguồn gốc nhân loại và thuộc dòng tộc Đavít của Người (9,27; 12,23; 20,30.31; 21,9.15). Rất có thể Matthêô đưa tên kép “Giêsu Kitô” vào ngay trong câu dẫn nhập nầy để khẳng định nguồn gốc thiên tính của Chúa Giêsu khi bàn về mẹ Maria mang thai “bởi Chúa Thánh Thần”. Điều nầy được thiên sứ xác định lại với Giuse trong giấc mộng (1,20).
Những chi tiết về Maria được đưa ra khá đầy đủ trong câu nầy: “đã đính hôn”, “mẹ của Người”, “trước khi về chung sống”, và đáng chú ý hơn cả là Maria “được thấy mang thai (dịch theo từ ngữ là “có trong bụng”) bởi Chúa Thánh Thần”. Trước hết cách dùng động từ “heuriskō”, “được tìm thấy” ở thể thụ động chỉ một tình trạng hay sự kiện được Thiên Chúa hoặc con người khám phá ra. Khó có thể cho rằng Maria là chủ từ của động từ nầy (x. Lc 1,28-38), càng không thể là dân chúng, dựa trên những điều Giuse suy nghĩ có thể sẽ làm (1,19). Chỉ có thể là Giuse, từ đó mới dẫn ông đến những quyết định. Rồi theo cách trình bày của Matthêô, chỉ người cha mới “sinh con”, gennaō; trong khi người mẹ tham gia vào việc nầy. Giới từ “ek”, “bởi” với sở hữu cách (genitive) của người mẹ chỉ nguồn gốc của người được sinh ra: bởi Tamar (1,3), Rahab, Ruth (1,5), vợ của Uria (1,6), Maria (1,16), Thánh Thần (1,18.20). Rất hiếm khi nói là người mẹ sinh con; chỉ thấy trong Luca 1,13.57; 23,29; và Gioan 16,21. Với Chúa Giêsu, Matthêô dùng động từ gennaō nầy luôn luôn ở thể thụ động “được sinh ra” (1,16.18.20; 2,1.4) để chỉ Thiên Chúa Cha sinh ra Người. Hơn nữa trong câu 1,20 có một chút dị biệt so với 1,18 là “Người được sinh ra, gennaō, trong vợ ông (Maria) bởi Chúa Thánh Thần”. Matthêô nhất quán với mình là ngay cả mẹ Maria cũng không sinh ra Chúa Giêsu, nhưng Người được Chúa Cha sinh ra trong mẹ Maria bởi Chúa Thánh Thần. “Bởi Chúa Thánh Thần” có thể dẫn đến kết luận là Thánh Thần đóng vai trò như người mẹ trong việc sinh ra Chúa Giêsu Kitô. Sau cùng, không nên tách rời “được thấy mang thai” khỏi “bởi Chúa Thánh Thần”. Việc biết nầy phải là “mang thai bởi Thánh Thần”, chứ không phải chỉ là “mang thai”, bằng không sẽ dẫn đến chuyện hiểu sai những quyết định của Giuse. Và hai yếu tố “đã đính hôn” và “trước khi về chung sống” ra hiệu cho biết mẹ Maria mang thai không bởi Giuse. Trong câu kết luận 1,25 Matthêô còn nhắc lại lần nữa là “Ông không biết bà cho đến lúc bà sinh con”. Điều nầy chỉ muốn nói là Giuse không tham dự chút nào vào việc hình thành thai nhi trong lòng mẹ, và mẹ Maria là trinh nữ khi mang thai Chúa Giêsu Kitô và cho đến lúc sinh hạ Người. Điều nầy sẽ được khẳng định lại trong lời của thiên sứ khi nhắc lại Is 7,14 “Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con”. Vậy, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã được hình thành trong lòng mẹ Maria bởi Chúa Thánh Thần và Giuse không dự phần vào việc nầy.
Con người và quyết định của Giuse (1,19)
Giuse được khẳng định là “chồng”, anēr, của mẹ (1,16.19) và mẹ Maria được gọi là “vợ”, gynē, của ông (1,20.24) hay là “mẹ của Người/con trẻ” (1,18; 2,13). Khó khăn trong chú giải là làm sao giải thích được tương quan của hai mệnh đề phân từ trong câu nầy: “Giuse là người công chính” và “và ông không muốn tố giác bà, quyết định lìa bỏ bà cách kín đáo”. Những câu hỏi được đặt ra là hiểu thế nào là “công chính”? Nếu đi tố giác mẹ Maria, Giuse vẫn là người công chính? Giuse không muốn tố giác mẹ, nhưng bỏ mẹ mà đi cách kín đáo; đó không phải là một cách tố giác gián tiếp sao? Nếu không đi tố giác và âm thầm bỏ đi vì là người công chính, việc Giuse nghe lời thiên sứ đón nhận Maria về nhà sẽ làm cho ông hết là người công chính? Nếu Giuse biết mẹ Maria mang thai bởi Chúa Thánh Thần, sao lại đi tố giác? Bất cứ một cố gắng giải thích tiêu cực nào về quyết định và hành động của Giuse đều gặp phải khó khăn.
Để giải quyết, trước tiên cần tìm hiểu từ “công chính” áp dụng cho Giuse. Dikaios, “công chính”, 17 lần, và dikaiosynē 7 lần được dùng trong Matthêô theo nhiều nghĩa khác nhau. Trước tiên, “công chính” dùng để phân biệt cách chung với những người không công chính, cũng như người tốt lành đối nghịch với người xấu (5,45; 13,49); rồi chỉ những người sống theo luật Chúa trong Cựu ước (13,17; 23,29.35[2x]); chỉ những người tự cho mình là công chính (x. 9,13; 28,38); sau cùng là những người sống theo đòi hỏi và tinh thần của Chúa Giêsu (5,45; 10,41; 25,37.46). Giuse là người công chính không chỉ vì ngài tuân giữ luật Chúa như những người do thái tốt lành thời ấy, mà còn hơn thế nữa. Sự công chính của ngài chắc chắn vượt hơn hẳn sự công chính của các thầy thông luật và những người nhóm Pharisêô (5,20). Bởi đó, ngài không thể là công chính theo nghĩa vì tuân theo lề luật mà đem mẹ Maria ra bêu xấu trước mặt công chúng (Đnl 22,20-21.23-24). Ngài không thể làm như các thầy thông luật và Pharisêô đã làm khi đem người phụ nữ ngoại tình ra trước mặt Chúa Giêsu và mọi người để xét xử theo luật (Gio 8,3-11). Chính Chúa Giêsu không làm theo ý họ, mà còn bênh vực cho người phụ nữ nầy. Cũng không thể hiểu theo nghĩa là vì người công chính có lòng thương xót vị hôn thê, nên Giuse không đi tố giác. Việc âm thầm bỏ đi đã là một tố giác trực tiếp rồi. Nếu thật sự có lòng thương xót, Giuse phải ở lại với mẹ Maria.
Động từ “deigmatizō” là một từ hiếm (hapax legomenon) trong tin mừng nhất lãm. Chỉ xuất hiện duy nhất ở đây, và trong thư gởi cho các tín hữu Côlôsêô 2,15. Ý nghĩa căn bản của động từ nầy là “trưng bày”, “đưa ra cho công chúng thấy”; “deigma” có nghĩa là “mẫu” “sự hiển nhiên”. Bởi đó, động từ có nghĩa trung tính là trình bày cho mọi người đều thấy sự hiển nhiên, chứ không có nghĩa là “tố giác” hay “làm cho ai xấu hổ trước mặt công chúng” (x. Côl 2,15). Nếu động từ nầy có “para-” đi trước thì có thể hiểu theo nghĩa trên là “tố giác” (x. Do thái 6,6; Ds 25,4; Giêr 13,22; Êzêk 28,17). Giuse không muốn cho mọi người biết sự kiện Đấng Kitô đang được cưu mang trong lòng mẹ Maria bởi Thánh Thần. Ông không nói ra vì phải tôn trọng công việc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã cấm các môn đệ không được nói cho mọi người biết Người là Đấng Kitô sau lời tuyên xưng của Phêrô (x. 16,20). Giuse quyết định li dị mẹ Maria vì ông biết mẹ Maria cưu mang Đấng Kitô bởi Thánh Thần (xem trên). Ông li dị vì ông sợ nhận Maria vợ ông. Cụm từ “nhận Maria về nhà” (1,20.24) đóng khung sứ điệp của thiên sứ (1,20-23), trong đó thiên sứ nói đến con người và sứ mạng của Chúa Giêsu, và cả bổn phận đặt tên của ông cho con trẻ. Giuse sợ và không muốn nhận Maria làm vợ mình nữa, vì Maria đã trở thành mẹ của Đấng Kitô. Ông thấy mình bất xứng với người ông đã đính hôn, nên phải rút lui. Đây là thái độ đúng của người công chính. Mẹ Maria cũng sợ khi thiên sứ truyền tin (x. Lc 1,30), dân chúng sợ khi thấy điều kỳ diệu Chúa Giêsu làm cho người bại liệt (9,8). Như thế, chính quyết định của Giuse cho thấy cách hiển nhiên ông là người công chính trước khi ông được củng cố lòng tin và mời gọi tham dự vào công việc cứu chuộc của Thiên Chúa.
Hai cuộc truyền tin của Giuse và mẹ Maria tương tự nhau. Cả hai đều sợ trước lời mời gọi cộng tác trực biết vào việc nhập thể của Con Thiên Chúa. Tuy không nói, Giuse đã làm như mẹ Maria là thi hành ý muốn của Thiên Chúa là “đem mẹ về nhà mình”. Đứng trước Thiên Chúa ai mà không run sợ và thấy mình bất xứng?
73.Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 4 Mùa Vọng xoay quanh cùng một đề tài: “Đấng Mê-si-a, “con vua Đa-vít”.
Is 7: 10-16
Bài Đọc I trích dẫn là lời hứa long trọng mà ngôn sứ I-sai-a gởi đến cho vua A-khát, vua vương quốc Giu-đa, trong bối cảnh bi thảm: đất nước bị phân đôi và chịu áp lực tứ phía, vua không có con nối dòng. Thiên Chúa hứa ban cho nhà Đa-vít một dấu lạ: một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên cho con trẻ là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Rm 1: 1-7
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc nhớ rằng xét như một phàm nhân, Đức Giê-su xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít; nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.
Mt 1: 18-24
Tin Mừng tường thuật “Biến Cố Truyền Tin” cho thánh Giu-se. Sứ thần mặc khải cho thánh nhân nguồn gốc thần linh của người con mà Đức Trinh Nữ Ma-ri-a cưu mang, và xin thánh nhân nhận đứa con này làm nghĩa tử để tháp nhập con trẻ vào dòng dõi vua Đa-vít.
BÀI ĐỌC I (Is 7: 10-16)
Sấm ngôn I-sai-a này là một trong những sấm ngôn vĩ đại về Đấng Mê-si-a: nó vang lên cách long trọng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít!”. Vị ngôn sứ ngỏ lời với vua A-khát, vua vương quốc Giu-đa, vào năm 734 trước Công Nguyên, tại Giê-ru-sa-lem trong hoàn cảnh ngặt nghèo cùng cực.
1. Bối cảnh:
Vào lúc đó, đế quốc Át-sua (thủ đô là Ni-ni-vê) đang bành trướng thế lực: đế quốc này gây sức ép trên cả vương quốc phương Bắc (vương quốc Ít-ra-en, kinh đô là Sa-ma-ri) lẫn vương quốc phương Nam (vương quốc Giu-đa, kinh đô là Giê-ru-sa-lem). Trong vòng ba mươi lăm năm, các đạo quân Át-sua xâm chiếm miền Pa-lét-tin đến sáu lần, tàn phá xứ sở và buộc triều cống nặng nề.
Vua A-khát cai trị vương quốc Giu-đa. Vì sợ hãi, vua tìm cách hòa hoãn với vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe. Trái lại, vua Xy-ri và vua Ít-ra-en liên minh với nhau để chống lại đế quốc Át-sua và muốn vua A-khát gia nhập liên minh vơi họ. Vua A-khát từ chối. Lúc đó, các lực lượng liên minh này mở chiến dịch gây sức ép với vua A-khát và đã tiến quân gần đến Giê-ru-sa-lem. Vua A-khát, bất trung với Thiên Chúa, đã tế lễ và đốt hương trên các nơi cao, trên các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh (2V 16: 3-4).
Những lần can thiệp của ngôn sứ I-sai-a có thể đặt vào trong hoàn cảnh bi đát này. Vị ngôn sư chỉ đưa ra một huấn lệnh duy nhất: “Hãy đạt trọn niềm tin tưởng vào chỉ một mình Đức Chúa”.
Bản văn chúng ta đọc mô tả lần can thiệp lần thứ hai của ngôn sứ I-sai-a bên cạnh vua A-khát. Trong lần can thiệp lần thứ nhất, ngôn sứ I-sai-a cố gắng thức tỉnh đức tin đang chao đảo của vua. Chắc chắn vô ích; vị ngôn sứ thử thuyết phục vua cách khác.
2. Xin một dấu lạ:
Ngôn sứ I-sai-a nói với vua: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu lạ dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”, nghĩa là một động đất, sao băng hay sấm chớp…
Vua A-khát trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Nhà vua tìm cớ thoái thác bằng cách viện dẫn Kinh Thánh: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6: 16). Lúc đó, ngôn sứ I-sai-a cất cao giọng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít!”. Và có lẽ trước toàn thể triều thần, vị ngôn sứ long trọng loan báo rằng thậm chí như vậy, Thiên Chúa vẫn cứ ban một dấu lạ và qua dấu lạ này Ngài sẽ cho biết rằng, bất chấp những tội bất trung của vua, Ngài sẽ không bỏ rơi dân Ngài khi ban cho vua một dấu chỉ: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”.
Tên con trẻ này là “Em-ma-nu-en”, có nghĩa: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, chắc chắn xuất xứ từ phụng vụ. Chúng ta gặp thấy tên này như một điệp khúc trong Tv 46. Tên này đối lập với thái độ cứng tin và ngần ngại của vua A-khát. Ngoài ra, nó cô động điều cốt yếu của những lời Thiên Chúa hứa trong Giao Ước.
3. Tính thời sự của sấm ngôn:
Sấm ngôn theo bản văn Hy-bá loan báo một thiếu nữ hay một người vợ trẻ chưa sinh con, tức là một trong các người vợ trẻ của vua sẽ sinh hạ một con trai cho vua. Sấm ngôn sẽ sớm được ứng nghiệm. Đối diện với hoàn cảnh bi thảm của Giê-ru-sa-lem, trước những đe dọa đè nặng trên vương quyền nhà Đa-vít: một mặt, thế lực liên minh muốn lật đổ vua; mặt khác, vua không có con thừa tự, vị ngôn sứ long trọng trấn an khi đảm bảo rằng Thiên Chúa vẫn phù trợ. Việc dòng dõi nhà Đa-vít vẫn không bị tuyệt tự là dấu chỉ cho thấy Đức Chúa vẫn bảo vệ che chỡ. Xem ra dấu lạ được loan báo ở đây là việc sinh hạ con của vua A-khát, tức vua Khít-ki-gia tương lai. Trên dòng dõi nhà Đa-vít, những niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a được kết tinh.
“Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong”: Diễn ngữ “Sữa chua và mật ong” gợi nhớ những ngôn từ diễn tả những ân ban của Đất Hứa: “Xứ sở chảy sữa và mật ong”. Tuy nhiên, theo văn mạch trực tiếp, quang cảnh về xứ sở màu mở này nhuốm màu sắc bi quan. Phần tiếp theo của sấm ngôn I-sai-a loan báo lãnh thổ bị quân Át-sua xâm chiếm và trở thành hoang phế: nghề canh tác sẽ bị tàn phá; không còn dầu, rượu lẫn bánh, “toàn xứ sẽ chỉ có gai góc và bụi rậm”. Những ai vẫn còn ở lại trong xứ sẽ chỉ ăn “sữa chua và mật ong” (Is 7: 21-23). Sự thánh thiện của con trẻ sắp chào đời được miểu tả cách thanh đạm: “biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt”.
Cuối cùng, sứ điệp tối hậu của vị ngôn sứ đem lại niềm hy vọng cho triều thần và đặc biệt cho vua A-khát, đó là hai vị vua liên minh chống vương quốc Giu-đa rốt cuộc sẽ thất bại và bị quân Át-sua tiêu diệt trong tương lai không xa. Quả thật, vào năm 732, hai mươi năm sau sấm ngôn này, vương quốc Xy-ri và vương quốc Ít-ra-en bị triệt hạ hoàn toàn: những của cải của họ bị chuyển đến kinh đô Ni-ni-vê, và dân chúng của họ bị dẫn đi lưu đày. Và sau đó không bao lâu, vào năm 721, vương quốc Ít-ra-en bị họa diệt vong.
4. Chiều kích Mê-si-a của sấm ngôn:
Chiều kích Mê-si-a của sấm ngôn này được mặc khải thành hai thời kỳ. Vào thời kỳ thứ nhất, chính ngôn sứ I-sai-a sẽ triển khai sấm ngôn này. Ở chương 9, vị ngôn sứ công bố: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta”. Nhờ sự xuất hiện của con trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít này, ánh sáng huy hoàng sẽ bừng lên chiếu rọi khắp miền Ga-li-lê. Ở chương 11, vị ngôn sứ hết lời ca ngợi những đức tính của con trẻ này, Đấng Mê-si-a vương đế sẽ mang đến cho thế giới sự công minh chính trực và nền hòa bình viên mãn.
Vào thời kỳ thứ hai, “dấu lạ” mà vị ngôn sứ được ơn linh hứng xác định rõ hơn. Vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, bảy mươi nhà thông thái thành A-lê-xan-ri-a họp nhau và dịch bản văn Kinh Thánh bằng tiếng Hy-bá sang Hy-ngữ, vì thế được gọi bản Bảy Mươi. Họ dịch “một thiếu nữ” của bản văn Hy-bá sang “một trinh nữ” của bản văn Hy-ngữ: “Một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”. Theo họ, ngôn sứ I-sai-a đã ban một dấu lạ, ấy vậy nếu một thiếu nữ sinh hạ một con trai thì chẳng có gì là lạ lùng cả, vì thế phải là một trinh nữ thụ thai và sinh hạ một con trai, thì đó mới thật sự là dấu lạ cho thấy Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của dân tộc mình và của nhân loại.
5. Dấu lạ
Thiên Chúa thực hiện dấu lạ khi mà những luật tự nhiên không đáp ứng hay không còn đáp ứng nữa, như khi Thiên Chúa cho bà Xa-ra, dù son sẻ và tuổi đã cao, sinh hạ I-xa-ác, hay cho bà Ê-li-sa-bét, chị họ của Đức Ma-ri-a, sinh hạ Gioan Tẩy Giả trong hoàn cảnh như bà Xa-ra. Thiên Chúa sẽ thực hiện dấu lạ còn lạ lùng hơn thế nữa khi cho Đức Ma-ri-a, một trinh nữ thụ thai và sinh hạ một con trai mà không cần đến sự kết hợp phái tính.
Nhưng việc sinh hạ Đấng Em-ma-nu-en có một tầm quan trọng khác nữa. Trong hoàn cảnh sấm ngôn được công bố, sứ điệp được gởi đến cho dân Ít-ra-en thật rõ ràng: bất chấp những bất tín của dân Ngài, Thiên Chúa vẫn ở với họ. Bất chấp tội lỗi của con người, bất chấp tội lỗi của chúng ta, “Thiên Chúa vẫn ở với chúng ta”.
BÀI ĐỌC II (Rm 1: 1-7)
Bài Đọc II trích dẫn phần mở đầu Thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần mở đầu này tương ứng với với thể thức thư tính rất quen thuộc vào thời đại này: trước hết tên và thân thế của người gởi, tiếp đó tên và thân thế của người nhận, và cuối cùng lời chào và lời cầu chúc. Tuy nhiên, thánh Phao-lô mở rộng những dữ kiện và Ki-tô hóa chúng.
1. Tên và thân thế của người gởi:
Chúng ta lưu ý đến cách thức thánh Phao-lô tự giới thiệu thân thế của mình: trước hết, thánh nhân tự nhận mình chỉ là “tôi tớ của Đức Giê-su Ki-tô”; thứ nữa, thánh nhân nêu lên đặc tính ơn gọi Tông Đồ của mình: thánh nhân được Thiên Chúa gọi làm Tông Đồ và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa, xa hơn một chút, thánh nhân còn nhấn mạnh: “Nhờ Người (Đức Giê-su Ki-tô) chúng tôi nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ”. Qua cách thức giới thiệu này, thánh nhân nhất quyết xem mình ngang hàng với nhóm Mười Hai. Như họ, thánh nhân đã được Đức Giê-su chọn; như họ, thánh nhân đã được gặp gỡ Đức Ki-tô Phục Sinh và Ngài đã được trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho lương dân. Đây là lý do duy nhất mà thánh nhân có thể viện dẫn để đến Rô-ma, viếng thăm một Giáo Đoàn mà thánh nhân đã không sáng lập.
2. Tóm tắt đạo lý:
Trong lời mở đầu giới thiệu và chào hỏi này, thánh Phao-lô điểm qua những khái niệm Ki-tô giáo và thậm chí rút gọn đạo lý về thân thế của Đức Giê-su. Xét như một phàm nhân, Đức Giê-su xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít; xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Đức Giê-su đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng. Chúng ta lưu ý cách diễn đạt rất tinh tế của thánh Phao-lô ở đây. Thánh nhân không nói: “Con Thiên Chúa được sống lại từ cõi chết”, nhưng với tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài đã từ cõi chết sống lại và lấy lại quyền năng ẩn dấu của Ngài ở nơi nhân tính.
3. Con vua Đa-vít:
Vài người hiểu kiểu nói của thánh Phao-lô: “Theo xác thịt, Ngài xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” theo sát từ rằng Đức Ma-ri-a cũng thuộc dòng dõi vua Đa-vít như thánh Giu-se. Cách hiểu này quá thu hẹp ý nghĩa thông thường của từ “xác thịt” theo Kinh Thánh. Trong Cựu Ước, từ xác thịt thường nhất chỉ toàn thể con người, tức là một phàm nhân đối lập với thần linh. Bất chấp vài điểm tương đồng, quan niệm Do thái về sự duy nhất của con người khác với quan niệm nhị nguyên của dân Hy-lạp theo đó có một sự đối lập giữa thân xác hư nát và linh hồn bất tử. Thuyết nhị nguyên này thật ra xa lạ với tư tưởng Do thái.
Vì thế, phải hiểu câu nói này rằng về phương diện phàm nhân, Đức Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Đây là chủ đề ngự trị cả ba bài đọc Chúa Nhật IV Mùa Vọng này. Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, chính xác là Đức Giê-su, ở nơi Ngài mọi lời hứa đều được thành tựu.
4. Con Thiên Chúa:
Thánh Phao-lô không bao giờ sử dụng kiểu nói “được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần” để chỉ tước vị Con Thiên Chúa của Đức Ki-tô như các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Quả thật, thánh Phao-lô không bao giờ ám chỉ đến cuộc thụ thai đồng trinh của Đức Giê-su, cũng như không bao giờ nói về Đức Trinh Nữ, ngoại trừ một lần mà không nêu tên: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” (Gl 4: 4).
Sự thinh lặng này có thể có lý do. Vào thời kỳ thánh Phao-lô viết Thư này, Đức Ma-ri-a có thể vẫn còn sống, vì thế, để bày tỏ lòng tôn kính Mẹ của Chúa Giê-su, thánh nhân kín đáo không nói về Đức Ma-ri-a. Nhất là, thần học của thánh Phao-lô xoay chung quanh trục biến cố Phục Sinh (và nhất thiết là Thập Giá) chứ không là biến cố Nhập Thể. Chính biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đã thiết lập một cuộc sáng tạo mới, một con người mới, một thời kỳ mới. Chính trong ánh sáng của viễn cảnh này mà lời công bố này mặc lấy tầm mức quan trọng của chúng: “Nhưng xét như Đấng từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng”.
5. Lời cầu chúc:
Sau cùng, thánh Phao-lô chào hỏi những người nhận thư. Thánh nhân ngỏ lời với hai nhóm người hình thành nên cộng đồng Ki-tô hữu Rô-ma: trước tiên, những người Ki-tô hữu gốc lương dân, nghĩa là “những người được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô”; tiếp đó, những người Ki-tô hữu gốc Do thái, nghĩa là “những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh”. Và thánh Phao-lô hiệp nhất hai nhóm làm một trong lời cầu chúc sau cùng: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an”. “Ân sủng” là lời chào của người Ki-tô hữu gốc lương dân, còn “bình an” là lời chào của người Ki-tô hữu gốc Do thái.
TIN MỪNG (Mt 1: 18-24)
Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta chuyện tích Truyền Tin cho thánh Giu-se về cuộc thụ thai của Đức Giê-su bởi người mẹ đồng trinh là Đức Ma-ri-a. Trong Cựu Ước, văn thể truyền tin tự nó nói lên rằng việc con trẻ được sinh ra không do ý muốn thường tình của cha mẹ, nhưng do sự can thiệp của Thiên Chúa, như chuyện tích truyền tin cho tổ phụ Áp-ra-ham về cuộc sinh hạ I-xa-ác (St 18: 1-15), và cho cha mẹ của ông Sam-son về cuộc sinh hạ ông, một anh hùng của dân tộc (Tl 13: 1-7).
Quả vậy, ngay từ đầu chuyện tích Truyền Tin này, thánh ký ghi nhận cuộc thụ thai lạ lùng của Đức Giê-su: “Bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”. Chuyện tích xoay quanh nhân vật chính: phản ứng của thánh Giu-se trước việc thụ thai của Đức Ma-ri-a mà tác nhân không phải là thánh nhân. Câu chuyện này thường nêu lên hai vấn đề: trước hết, Đức Công Chính của thánh Giu-se; thứ đến, Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a.
1. Đức Công Chính của thánh Giu-se:
Về Đức Công Chính của thánh Giu-se, cách giải thích truyền thống nhấn mạnh rằng thánh Giu-se không hề hay biết câu chuyện Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Vì thế, thánh nhân nghi ngờ đức hạnh vị hôn thê của mình, nhưng vì lòng nhân hậu, thánh nhân không muốn tố giác bà cách công khai, nên định tâm lìa bỏ bà một cách kín đáo. Lối giải thích nầy bật sáng đức hạnh không chỉ của thánh Giu-se, nhưng còn của Đức Ma-ri-a nữa. Sự im lặng của Đức Ma-ri-a thật đáng thán phục. Đối mặt với một mầu nhiệm không thể nào giải thích theo phương diện con người, Đức Ma-ri-a hoàn toàn tín thác vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai mà vẫn còn đồng trinh là công việc của Thiên Chúa, thì chắc chắn Thiên Chúa có cách để giải quyết vấn đề. Chắc chắn Thiên Chúa đặt để hai vị thánh này vào một sự thử thách nghiêm trọng. Từ đó rút ra một bài học linh đạo tuyệt vời: chúng ta đừng ngạc nhiên nếu phải chịu trăm chiều thử thách trong cuộc đời. Noi gương thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a, chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa và triệt để trung thành với kế hoạch yêu thương của Người.
Tuy nhiên, cách giải thích truyền thống này gặp phải một vấn nạn nan giải: Đức Công Chính theo Lề Luật đòi buộc thánh Giu-se phải tố cáo vị hôn thê của mình, vì thế thánh Giê-rô-ni-mô đã nhận xét chí lý rằng: “Thánh Giu-se ém nhẹm trọng tội của vợ mình mà cho là công chính ư?”. Vì thế, theo cách giải thích hiện đại, làm thế nào Đức Ma-ri-a có thể giữ kín cho riêng mình mà không cho thánh Giu-se biết, người mà Mẹ tin tưởng gởi gắm cuộc đời cho thánh nhân như một người chồng? Vì thế, thánh Giu-se không một chút nghi ngờ về đức hạnh người bạn đời của mình. Điều làm cho thánh nhân trăn trở chính là trong hoàn cảnh này, phải biết xử sự như thế nào cho phải lẽ. Một đàng, trên bình diện công bình pháp lý, với tư cách là người chồng hợp pháp của Đức Ma-ri-a, thánh nhân có quyền nhận Đức Ma-ri-a là vợ của mình và đứa con mà nàng cưu mang là con của mình. Nhưng mặt khác, trên bình diện công bình tôn giáo, thánh nhân bị đòi buộc phải kính trọng công việc của Thiên Chúa ở nơi Đức Ma-ri-a mà cho đến lúc này thánh nhân không được Thiên Chúa mời gọi dự phần vào.
Lúc đó, thánh nhân quyết định âm thầm rút lui, nhường bước trước kế hoạch của Thiên Chúa, chấp nhận dâng hiến điều đắt giá nhất của cuộc đời mình: tình yêu đối với Đức Ma-ri-a. Chính trong tâm trạng tiến thối lưỡng nan này mà thánh nhân giữ kín ý định cho riêng mình vì không thể nào thổ lộ hay giải bày với người bạn đời của mình. Vì thế, động từ Hy ngữ được dùng trong bản văn này không có ngữ nghĩa tiêu cục “tố cáo” hay “tố giác” như cách giải thích truyền thống đã hiểu, nhưng mang ý nghĩa tích cực: “thổ lộ” hay “giải bày”: “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính, vì thế không muốn ‘thổ lộ’ (giải bày) ý định của mình cho Đức Ma-ri-a”.
Quả thật, để xua tan những nghi ngại của thánh nhân, sứ thần tái khẳng định những gì mà thánh nhân đã biết, đó là thai nhi mà Đức Ma-ri-a cưu mang là công việc của Chúa Thánh Thần, đồng thời mời gọi thánh nhân tham dự vào công việc này trong vai trò là người chồng của Đức Ma-ri-a và là người cha hợp pháp của thai nhi qua việc thánh nhân đặt tên cho con trẻ, nhờ đó con trẻ được sáp nhập hợp pháp vào hoàng tộc Đa-vít, có như thế, sấm ngôn của ngôn sứ Na-than về Đấng Mê-si-a (2Sm 7: 12) được ứng nghiệm. Vì thế, bản văn đòi buộc phải đọc là “Này ông Giu-se, hậu duệ Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì quả thật (“gar”) thai nhi mà bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh thần. Vì thế bà sẽ sinh con trai, còn ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì quả thật (“gar”) chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” .
Như vậy, Đức Công Chính của thánh Giu-se không dính dáng gì đến việc tuân giữ Lề Luật, (phải nói là việc tuân giữ Lề Luật quá nghiêm nhặt sẽ dẫn đến việc giết chết Đức Ma-ri-a và thai nhi Giê-su), nhưng thành tâm thiện chí lắng nghe để khám phá ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố đời thường của mình và mau mắn tìm cách đáp trả một cách tích cực: “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình”. J. Escriva ca ngợi Đức Công Chính của thánh Giu-se như sau: “Thánh Giu-se là một thường nhân mà Thiên Chúa tin tưởng để thực hiện những điều vĩ đại. Thánh nhân đã làm đúng như Đức Chúa muốn thánh nhân làm, trong từng mỗi một biến cố hình thành nên cuộc đời của thánh nhân. Đó là tại sao Kinh Thánh ca ngợi thánh Giu-se là ‘người công chính’” (Bl. J. Escriva, Christ is passing by, 40).
2. Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a:
Cả hai cách giải thích, truyền thống hay hiện đại, đều nêu bật chủ đích của thánh Mát-thêu: nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su trong việc thụ thai đồng trinh. Điều này được khẳng định qua việc trích dẫn sấm ngôn I-sai-a: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Nhưng Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a được đặt thành vấn đề ở câu cuối cùng: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai”. Anh em Tin Lành thường hiểu liên từ Hy-lạp “cho đến khi” theo nghĩa liên từ tiếng Anh: “until” hay tiếng Pháp “jusqu’a ce que”, theo cách hiểu này Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a chỉ giới hạn trước và trong khi sinh con. Tuy nhiên, liên từ Hy-lạp này không khẳng định cũng không bác bỏ việc đồng trinh vẫn tiếp tục sau khi sinh con.
Phải nói rằng qua việc sử dụng liên từ Hy-lạp này, thánh ký không quan tâm đến điều gì đã xảy ra sau đó, nhưng chỉ đơn giản lưu ý điều gì xảy ra cho đến lúc đó, tức là, việc Đức Ma-ri-a thụ thai Đức Giê-su không do bởi tác nhân nam giới, nhưng hoàn toàn do bởi sự can thiệp duy nhất của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy cũng liên từ này ở Ga 9: 18, ở đó những người Pha-ri-sêu được nói cho biết họ đã không tin vào việc anh mù từ lúc mới sinh được chữa lành một cách diệu kỳ cho đến khi họ gọi cha mẹ của anh. Tuy nhiên, sau đó, họ cũng không tin. Sự bỏ ngỏ này được lấp đầy bởi truyền thống Giáo Phụ và Huấn Quyền như lời dạy của Công Đồng La-tê-ra-nô: “Nếu bất cứ ai không tuyên xưng theo các thánh Giáo Phụ rằng theo ý nghĩa đích thật Đức Thánh Nữ Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì vào thời sau cùng, không với yếu tố nam nhân nhưng bởi Chúa Thánh Thần, Mẹ đích thật cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã sinh ra bởi Chúa Cha từ muôn thuở, và Mẹ sinh hạ Ngài mà không có bất kỳ tổn hại nào đối với Đức Đồng Trinh của Mẹ, vẫn không bị xâm phạm ngay cả sau khi sinh hạ Ngài; thì kẻ ấy sẽ bị vạ tuyệt thông” (can. 3).
3. Trọng tâm của câu chuyện Tin Mừng:
Trọng tâm của câu chuyện Tin Mừng này là nhằm mạc khải nguồn gốc đích thật của Đức Giê-su được gói trọn ở nơi danh xưng “Em-ma-nu-en”, Đức Giê-su không đơn giản là một con người được tuyển chọn, nhưng là Thiên Chúa làm người để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Hằng năm, theo tiến trình Phụng Vụ, trước ngày đại lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cử hành một tuần lễ thường được gọi “Bát Nhật Giáng Sinh” kể từ ngày 17 đến ngày 24 để mời gọi các tín hữu suy gẫm các biến cố và các nhân vật có liên quan trực tiếp đến Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Như mọi năm, vào ngày 17 và ngày 18, bắt đầu Bát Nhật Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi suy gẫm nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su qua gia phả của Ngài và nguồn gốc thần linh của Ngài qua chuyện tích Truyền Tin cho thánh Giu-se, được đặt ngay từ đầu sách Tin Mừng Mát-thêu, ngỏ hầu khi chiêm ngắm con trẻ trong máng cỏ, chúng ta cũng có tâm tình như các mục đồng xưa: “Các mục đồng ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2: 20).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam