Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1363940

ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ BÂY GIỜ

ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ BÂY GIỜ – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm SJ

ĐỜI SỐNG MỚI SAU CÁI CHẾT ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ BÂY GIỜ

Nhiều người chê Ki-tô hữu là dại, vì các Ki-tô hữu không tận hưởng những lạc thú trên đời, lại còn chuốc vất vả vào thân khi lao vào giúp đỡ người khác. Những người này nghĩ vậy, vì họ chỉ biết đến họ, và không động lòng trước nỗi khổ của bao anh em nghèo đói sống bên họ. Thế nhưng, chết đâu phải là hết. Và những người chỉ biết sống cho mình, chỉ biết sống như thể chỉ có đời sống này, lại trở thành người dại sau khi chết.

Ai cũng phải chết

Không phải ai cũng giầu, cũng đẹp, cũng có địa vị. Nhưng có một điều rất công bằng cho mọi người: ai cũng phải chết. Cái chết làm người ta bình đẳng: chẳng ai mang theo gì với mình ngoại trừ chính con người của mình: không tiền bạc, không người thân, không quyền lực, không sắc đẹp, không kiến thức. Sinh ra trần trụi, chết cũng trần trụi.

Cái chết làm con người trở lại với con người thực của mình. Cái chết giúp người ta nhận ra sự thật, và cố gắng sống cho ra người trong đời hiện tại. Trong nhãn quan này, cái chết không chỉ là mối họa, nhưng còn là một hồng ân cho những ai đang sống, vì qua nó, con người nhận ra đâu là quê hương thật của mình, đâu là điểm mà mỗi người sẽ đến. Chỉ lo đi bắt bướm tìm hoa trên đường, mà không lo hoàn tất nhiệm vụ của mình, thì quả là người dại biết bao.

Cái chết làm người ta đi vào vĩnh cửu

Thời gian thật là quý. Vì người ta có thể xây dựng và hoàn thành con người của mình một cách tuyệt vời. Con người mình như thế nào, tuỳ mình khi sống trên đời này. Khi chết rồi, mình không còn thay đổi được nữa. Thời gian trên trần thế, là thời gian của mỗi người, thuộc về mỗi người, mỗi người được quyền định đoạt và hình thành con người mình theo như mình muốn. Với tự do Chúa ban, không ai hình thành đời mình, nếu không phải chính mình. Chỉ cần một giây thôi, cũng đủ làm cho người ta ra khác, được sống hạnh phúc vĩnh cửu hay không. Một giây thôi, quý như thế nào.

Cũng khó mà diễn tả tại sao cái chết lại làm người ta thành vĩnh cửu. Theo nhãn quan của thánh Ynhã Loyola, ma quỷ và những người ở dưới hoả ngục vẫn luôn chống đối và nguyền rủa Thiên Chúa. Thái độ người ta chọn lúc chết, là thái độ vĩnh hằng của người đó. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy như thể người giầu vẫn thương anh em của ông ta còn đang sống, nên đề nghị Abraham cho người về. Chúng ta biết rằng, bởi vì đây là dụ ngôn, nên không phải tất cả đều có ý nghĩa và phải được giải thích. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay dạy con người hãy sống sao, để khi chết được hạnh phúc vĩnh cửu. Mỗi người phải chọn lựa ngay trong đời sống của mình, với những lời dạy dỗ của những người được sai tới với họ. Họ không cần phải chờ người chết hiện về, hoặc thiên thần tới nói với họ. Như vậy, những người sống với chúng ta, những người nói Lời Chúa cho chúng ta rất quan trọng. Không ai thay thế họ cho chúng ta. Đừng đòi người chết hiện về để nói.

Hôm nay là ngày hồng phúc, hôm nay là ngày cứu độ

Hôm nay, với những điều kiện tôi có và hoàn cảnh cùng những người xung quanh tôi, tôi phải sống cho ra người, hình thành con người của tôi. Người nghèo ăn xin, không có gì, vẫn có thể hình thành con người của anh ta cách trọn vẹn. Những người làm vệ sinh đường phố, những người quét rác ngoài đường, những giám đốc xí nghiệp lớn, hay những bác sĩ kỹ sư, đều ngang nhau trong việc hình thành đời mình. Nếu một bác sĩ không tận tâm cứu giúp bệnh nhân, là bác sĩ dở. Bác sĩ đó cũng tương tự như người giầu không có lòng thương với người nghèo ăn xin Ladarô. Nếu một công nhân quét đường mà không làm tròn bổn phận của mình, thì cũng dở như một giám đốc xí nghiệp không cố gắng để xí nghiệp được trao cho mình phát triển. “Không có nghề dở, chỉ có người dở”. Trước mặt Chúa, bác sĩ và công nhân vệ sinh trong bệnh viện đều ngang nhau. Và ngay cả trước mặt con người, một người làm phu vệ sinh nhưng thương yêu và giáo dục con nên người, thì tốt hơn một bác sĩ hay kỹ sư giầu có mà không dành giờ để thương yêu và giáo dục con cái họ. Chính trong việc làm, và trong việc giáo dục con cái, hình thành nhân cách và bản lãnh mỗi người, cũng như hình thành con người vĩnh cửu của mình trong đời sống mai hậu.

Tài nguyên của cải, là của Cha trên trời cho tất cả mọi người. Không ai được lợi dụng tài năng của mình để bóc lột người khác. Tài nguyên, là để cho tất cả mọi người; và tài năng là để phục vụ mọi người. Một giám đốc đi xe hơi giầu sang, không chắc đã tốt bằng người công nhân xúc đất bên đường. Tốt hay không, tuỳ thuộc mỗi người dùng tài năng Chúa ban cho mình, để phục vụ mọi người hay không. Nếu Chúa ban cho họ 5 nén, họ phải làm lời 5 nén. Nếu Chúa chỉ ban cho tôi một nén, Ngài chỉ đòi tôi làm lời 1 nén. Đừng đem chôn nén bạc tài năng Ngài ký thác. Nếu không có người phu quét đường và những người trồng và săn sóc cây trong công viên, cuộc đời đã không đẹp như đang là. Những công nhân làm sạch đường phố, không chỉ làm đẹp phố phường, nhưng làm đẹp cả đời tôi, và làm tôi hạnh phúc. Họ có thể là những người tuyệt đẹp ở đời sống mai hậu.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1/. Theo bạn, Thiên Chúa có công bằng khi để mỗi người đều phải chết không? Tại sao?

2/. Người giầu và người nghèo, ai dễ hạnh phúc hơn? Tại sao?

3/. Có ai hình thành đời bạn giúp bạn không? Bạn hình thành đời bạn mỗi ngày thế nào?

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- C

SỰ LÀNH VÀ SỰ KHỐN KHÓ- Lm. Micae Võ Thành Nhân

 Đọc bài Tin mừng theo thánh Luca của Chúa Nhật XXVI năm C Thường Niên hôm nay, Chúa nói về sự lành và sự khốn khó qua hai con người: Người giàu có sang trọng và anh Lazarô nghèo khổ ăn xin.

       -Sự lành: “ Hỡi con, suốt đời con, con gặp toàn sự lành “ ( Lc 16, 25a ). Đó là: Ông nhà giàu vận toàn gấm vóc lụa là, nhà cao cửa rộng, lầu son gác tía, nhiều tôi trai tớ gái hầu hạ, ngày ngày yến tiệc linh đình ( Lc 16, 19 )- Đây là lúc khi ông nhà giàu còn đang sống.

       -Sự khốn khó: “ Còn Lazarô gặp toàn sự khốn khó “ ( Lc 16, 25b ). Đó là: Anh Lazarô không nhà không cửa, không nơi nương tựa, đói khát, bệnh tật, bị khước từ, bị bỏ rơi: ” Lại có một người hành khất tên là Lazarô nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn rơi xuống ăn cho đỡ đói “ ( Lc 16, 20 )- Đây là lúc khi anh Lazarô còn sống trên dương gian.

       Hai hình ảnh tương phản nhau, trái ngược nhau, một bên thì quá giàu sang phú quý, sung sướng, no đủ, dư dật, còn một bên thì quá đói khát, bần cùng, khổ đau, bệnh tật. Một bên thì quá đầy đủ đến nỗi thừa mứa, một bên thì quá thiếu thốn không có gì để mà ăn. Để rồi qua đó chúng ta lại thấy kết quả tiếp theo liền sau đó:

       -Trước khi chết, ông nhà giàu được cho là rất hạnh phúc, rất may lành.

       -Sau khi chết ông là người thật quá bất hạnh, trầm luân trong lửa.

       -Trước khi chết, ông Lazarô là người quá nghèo túng, quá cơ cực.

       -Sau khi chết, anh là người rất hạnh phúc, được ở trong lòng ông Abraham.

       Nguyên nhân của vấn đề này chẳng phải là do sự có mặt của anh Lazarô trên cõi đời này để rồi làm cho ông nhà giàu phải bị án phạt, mà là: “ Gieo cái gì thì gặt cái đó “. Đó chính là sự khép lại tấm lòng, đóng kín cánh cửa tâm hồn của ông nhà giàu. Trái tim của ông không còn rung cảm, không còn cảm xúc, không còn biết thương xót trước nỗi đau của tha nhân. Không biết chia sẻ, không biết cho đi mà chỉ biết hưởng thụ cho bản thân, không quan tâm đến người xung quanh. Đây là tội dẫn đến án phạt cho ông sau này.

       Bài Tin Mừng hôm nay không phải Chúa cổ động chúng ta: Sướng trước, khổ sau hay là khổ trước, sướng sau, và cũng chẳng phải để chúng ta sẽ phải chọn lựa sống theo hướng nào cho riêng bản thân của mình, mà là Chúa muốn nói với chúng ta trong cuộc sống chung ở trần gian này, chúng ta phải biết thương nhau, biết quan tâm đến nhau, biết chia cơm sẻ áo cho nhau, vì tất cả chúng ta là anh chị em với nhau trong gia đình của Thiên Chúa. Nếu Chúa ban cho chúng gặp may lành, thì chúng ta hãy nghĩ đến những người kém may mắn. Nếu Chúa ban cho chúng ta giàu có thì chúng ta hãy nghĩ đến những người nghèo khổ. Nếu Chúa ban cho chúng ta có của ăn của để thì chúng ta hãy nghĩ đến những người túng thiếu. Nếu Chúa ban cho chúng ta có sức khỏe thì chúng ta hãy nghĩ đến những người ốm đau bệnh tật. Nếu Chúa ban cho chúng ta có chữ nghĩa tri thức thì chúng ta hãy nghĩ đến những người không có chữ nghĩa dốt nát. Nếu Chúa ban cho chúng ta quyền cao chức trọng thì hãy nghĩ đến những người thấp cổ bé miệng, bị thua thiệt, bị ức hiếp……. Một khi chúng ta nghĩ đến được như vậy thì chúng ta hãy hành động một cách cụ thể mà giúp đỡ anh chị em của chúng ta. Chúng ta giúp đỡ với tình yêu thương bác ái vì Chúa, vì hạnh phúc của anh chị em chúng ta. Chúng ta giúp đỡ vô vị lợi, không đòi hỏi một sự trả công hay đền đáp ở đời này mà hãy để Chúa trả công là hạnh phúc thiên đàng đời sau cho chúng ta.

       Sự trừng phạt rất nặng nề khi mà chúng ta không quan tâm đến người khác, sống chết mặc kệ họ miễn là chúng ta được phần riêng cho mình là đủ rồi. Sống như vậy là chúng ta tự tạo ra vực thẳm ngăn cách giữa chúng ta với Chúa và với anh chị em của chúng ta. Sống mà không có tình yêu thì sẽ là ích kỷ, là hố sâu vực thẳm: “ Vả chăng giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ bên đó qua đây được “ ( Lc 16, 26 ).

       Để khỏi bị trầm luân sau này, Chúa dạy chúng ta hãy biết sống yêu thương chia sẻ cho đi, chấp nhận mất mát, chấp nhận hao mòn vì hạnh phúc và vì phần rỗi của anh chị em chúng ta một cách vui vẻ trong Chúa.

        Một điều quan trọng mà chúng ta có được qua Lời Chúa hôm nay: Sự lành trở thành sự khốn khó, sự dữ hay sự khốn khó trở thành sự lành là do ở nơi chúng ta có biết tận dùng ơn Chúa ban để sinh ích cho phần rỗi chúng ta hay không mà thôi. Chúng ta hãy tận dụng tự do của bản thân để làm theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

       Lạy Chúa, chúng con xin Chúa mở đôi mắt mù lòa của chúng con ra để chúng con thấy được gương mặt khốn cùng của anh chị em chúng con mà chúng con cảm thông nâng đỡ. Xin Chúa mở đôi tai điếc lác của chúng con để chúng con nghe được tiếng tha nhân cầu khẩn mà đáp ứng kịp thời. Xin Chúa thêm sức làm cho đôi chân chúng con nên mạnh mẽ để đến với mọi người. Xin Chúa mở rộng đôi tay của chúng con ra để chúng con biết sẻ chia cho đi. Xin Chúa cho chúng con biết sống cho nhau và vì nhau, không tính toán so đo hơn thiệt, biết nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến cho bản thân của mình.

       Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả, xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban, và chúng con đang hết lòng theo đuổi. Amen.

CHÚA NHẬT  XXVI THƯỜNG NIÊN-C

TỘI THIẾU SÓT-  Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC

Thưa anh chị em,

Chúa nhật tuần trước Lời Chúa dạy “Hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu, để sau này họ đưa chúng ta vào cuộc sống vĩnh cửu”. Hôm nay, Lời Chúa tiếp tục nói với chúng ta về việc sử dụng của cải như là phương tiện tốt để đạt được ơn cứu độ.

Trong bài đọc I, tiên tri Amos nhân danh Thiên Chúa nặng lời chúc dữ: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu sang ở Sion. Các ngươi nằm trên giường ngà, ăn ngon, xức dầu thơm hảo hạng, mà chẳng chạnh lòng thương những người khốn khổ. Rồi đây, những buổi tiệc tùng của các ngươi sẽ không còn nữa”(Am 6, 1. 4-6).

 Thái độ sống dửng dưng của những người giàu sang bên cạnh những người nghèo khó mà tiên tri Amos nói trên, là hình ảnh tiên trưng dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay.

Dụ ngôn cho chúng ta thấy hai người hai hoàn cảnh khác nhau. Nhà phú hộ ăn mặc lụa là gấm vóc;  Còn Lazarô thì rách rưới tả tơi. Nhà phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình ; Còn Lazarô đói khát ước ao một chút bánh vụn từ bàn ăn rơi xuống mà cũng không có. Nhà phú hộ sống trong lâu đài đầy đủ tiện nghi êm ấm; còn Lazarô sống cảnh màn trời chiếu đất trước cửa lâu đài nhà phú hộ, ấy thế mà ông không nhìn thấy Lazarô mình đầy ghẻ chóc đang lê lết trước nhà ông. Lazarô rên rỉ đau đớn vì bệnh tật, mà ông cũng chẳng hay. Lazarô chết dần chết mòn mà nhà phú hộ chẳng chạnh lòng thương xót.

Nhưng rồi, Lazarô chết trong cảnh nghèo đói cô đơn; còn nhà phú hộ chết trong cảnh giàu sang ấm cúng. Thế nhưng, số phận đời sau hai người rất đổi khác nhau. Nhà phú hộ rơi xuống biển lửa cực hình; còn Lazarô được Chúa thưởng ngồi trong lòng tổ phụ Abraham.

Tác giả Tin mừng không nói nhà phú hộ xua đuổi Lazarô ra khỏi lâu đài đáng thương, mà đơn giản là ông không chạnh lòng thương xót Lazarô đói khổ trước cửa nhà ông. Chẳng bao giờ ông nghĩ mình được Chúa ban cho giầu có, suốt đời gặp những sự lành; còn Lazarô kia hoàn cảnh bất hạnh đáng thương, thế mà lòng ông không chút cảm thương. Cho nên, nhà phú hộ không phải vì giàu có mà bị luận phạt, nhưng bị phạt vì tội thiếu sót, tội làm ngơ, tội không quan tâm đến người khác, không làm những gì lẽ ra phải làm.

Lazarô không phải nghèo khó mà được Chúa thưởng, nhưng vì ông biết chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và cậy trông vào tình thương xót của Chúa.

Anh chị em thân mến,

Nhìn vào thế giới hôm nay, con người quá ư là văn minh tiến bộ vượt mức. Thế nhưng, dường như trái tim con người lại nhỏ bé hơn, lòng con người hẹp hòi hơn, ích kỷ hơn, do chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ, chỉ lo vun đắp cho mình hơn lo cho người khác. Vì thế, thánh Gioan Phaolô II đã nói: “Đó là nền văn minh của sự chết “.

Mặc dầu thế giới văn minh như thế, nhưng vẫn còn ở nhiều nơi thiếu thốn lương thực. Đức Chúa Trời tạo dựng nên vũ trụ này, tài nguyên thiên nhiên dư đầy, thì không thể nào con người phải thiếu thốn. Ấy thế mà tại sao vẫn còn tình trạng đói khát như vậy? Thưa, bởi vì con người thiếu tình thương xót với nhau.

 Mỗi năm những nước giàu đổ xuống biển biết bao nhiêu tấn lương thực, do thừa mứa, do hết hạn sử dụng, mà không viện trợ cho những đất nước nghèo.

Rồi hơn 80% của cải được cất giữ trong ngân hàng, trong két sắt, trong túi áo của những nhà tỉ phú, những ông đại gia…

Người ta bỏ ra bao nhiêu tiền của, để đầu tư vào những vũ khí tối tân, những thiết bị y tế, nhằm bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống con người, nhưng người ta lại ác tâm giết chết những đứa con vô tội còn trong dạ mẹ.

Người ta bỏ ra bao nhiêu thời giờ, bao nhiêu tiền của đi du lịch nước này nước nọ chơi được; nhưng lại khó lòng dành ra một chút thời giờ bước sang nhà bên cạnh, để thăm một bệnh nhân đang cần một lời kinh hay một lời an ủi trong giờ sau hết.

 Có khi người ta không chết vì chén cơm manh áo, nhưng mà người ta đói tình người, đói sự quan tâm chia sẻ với nhau. Cho nên, thế giới ngày nay con người rất cần tấm bánh yêu thương, tấm bánh cảm thông, tấm bánh của lòng thương xót.

 Dưới ánh sáng Tin mừng hôm nay, chúng ta cần xét lại đời sống đạo của mình. Nếu chúng ta đọc kinh dự lễ hằng ngày mà chúng làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân… thì e rằng chúng ta mắc tội thiếu sót, đây là một trong bốn tội mà trước khi dâng thánh lễ chúng ta đều đấm ngực xưng thú: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”.

Ngày nhắm mắt lìa đời, Chúa không hỏi chúng ta đi một ngày bao nhiêu lễ, đọc mỗi ngày bao nhiêu kinh, hay đi hành hương mỗi năm bao nhiêu lần…. nhưng Ngài chỉ hỏi chúng ta một điều duy nhất đó là: con có yêu mến Ta không? Và thước đó lòng yêu mến Chúa được căn cứ vào đức bác ái đối với tha nhân mà thôi.

 Ước gì giờ sau hết chúng ta được gặp thấy ánh mắt nhân từ và nghe những lời mời gọi của Chúa: ” Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp là sự sống đời đời đã dành sẵn cho các con, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta bệnh tật các ngươi viếng thăm… hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”. Amen./.

 CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- C

THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG THƯỞNG PHẠT CÔNG BẰNG- Lm. Phêrô Lê Văn Chính

   Câu chuyện của bài dụ ngôn Tin mừng lại tiếp tục chủ đề sử dụng của cải tài sản trong cuộc đời hiện tại. Có một sự thay đổi triệt để và chung cuộc ở cuộc đời sau cái chết. Người phú hộ giàu có sung sướng rồi sẽ phải đau khổ trầm luân sau cái chết, trái lại người nghèo khổ Lazarô rồi sẽ được hưởng hạnh phúc viên mãn mai này.

          Truyền thống Kitô giáo, tiếp nối truyền thống Do thái giáo, đã có những hiểu biết rất mạch lạc và lý luận chặt chẽ về chủ đề sử dụng tiền của trong cuộc đời hiện tại. Trong cái nhìn đức tin, các tiên tri luôn có những cái nhìn sắc bén về thời đại mà các ngài đang sống. Trong khi mọi người bằng lòng với những sự giàu có hưởng thụ vật chất, nào là “nằm ngủ trên giường ngà, mê đắm trên trường kỷ, xức dầu thơm hảo hạng…. và chẳng thương hại gì tới nổi băn khoăn của Giuse”, thì  tiên tri Amos đã thoáng  thấy ở chân trời những thảm họa của một cuộc tận diệt do đế quốc Assyria mà sức mạnh và sự trừng phạt của nó sẽ rất ghê gớm : “giờ đây họ phải đi lưu đày, và đi đầu những kẻ lưu đày… Những yến tiệc của kẻ buông tuồng sẽ không còn nữa”. Nhưng giải thích cho cùng thì chính Thiên Chúa mới là Đấng chủ tể tối cao và người để cho  đế quốc Assyria trừng phạt Dân của người. Vào thời tiên tri Amos, vương quốc phía Bắc được hưởng một thời kỳ phồn thịnh kinh tế kéo dài. Triều đại của nhà vua Giêrôbôam II kéo dài tới 40 năm, từ năm 783 tới 743, vương quốc mở rộng và càng lúc càng giàu có phồn thịnh với triều đại kéo dài cho thấy sự bình an thịnh vượng của vương quốc, lúc mà nhiều người giàu cảm thấy bình an và bằng lòng với những gì họ đang thụ hưởng. Trong hoàn cảnh như thế, với sứ điệp của tiên tri Amos, lần đầu tiên người ta thấy xuất hiện thành ngữ “ngày của Giavê”, ám chỉ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đối với dân của người vì những bất công xã hội mà những người giàu có trong xã hội chà đạp trên hạng người nghèo khổ. Giavê là Đấng chủ tể hoàn vũ và chủ tể mọi dân tộc sẽ trừng phạt nặng nề đối với Israel vì đời sống xa hoa và những thực hành mất công bằng của họ.

          Câu chuyện dụ ngôn của bài Tin mừng là giải thích rất thẳng thắn của Chúa Giêsu đối với các môn đệ và mở rộng cả với những người biệt phái vốn quen với quan niệm thông thường trong xã hội do thái là sự giàu có đầy đủ ở đời này là dấu chỉ sự chúc lành của Thiên Chúa và là dấu chỉ đời sống luân lý ngay thẳng. Chúa Giêsu cho thấy một cái nhìn sắc bén về một sự đảo lộn mọi hoàn cảnh trong dự định cứu độ của Thiên Chúa, và những sự giàu có bề ngoài không làm chứng điều gì như người ta vẫn nghĩ, nó chỉ có tính cách giai đoạn hạn hẹp của đời sống con người mau qua sánh với cuộc đời vĩnh cửu sau này. Lề luật và các tiên tri vốn là những bản lề quan trọng quyết định trong tư duy của người do thái, giờ đây phải được cập nhật bởi một sự đánh giá mới quyết định bởi Chúa Giêsu, vị tiên tri cao cả của Thiên Chúa có thẩm quyền giải thích lề luật và khai mạc triều đại mới mẽ của Nước Thiên Chúa. Lời rao giảng này mời gọi mọi người phải có một cung cách mới mẽ quyết định trong thái độ của mình đối với việc sử dụng của cải vật chất.  Câu chuyện dụ ngôn về người phú hộ  và Lazarô nghèo khổ trình bày hình ảnh của một con người giàu có, được đánh giá cao đối với cái nhìn thông thường của người do thái, ăn mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình, lại trở nên rất lạc hậu so với thời cuộc mới mẽ mà Chúa Giêsu đang thiết lập. Trong khi ông vẫn bình an hưởng thụ mọi tiện nghi vật chất, vẫn an nhàn trong tư duy cố hữu của mình như sự giàu có nhiều của cải là sự chúc lành của Thiên Chúa, thì ngoài kia, mọi sự đang bắt đầu thay đổi nhanh chóng, sứ điệp những người nghèo khổ, bị khinh miệt sẽ là những người được thừa hưởng hạnh phúc Nước Thiên Chúa đang được công bố với vị tiên tri cao cả  là Chúa Giêsu, Đấng đang thực hiện và hoàn tất những gì đã được Lề luật và các tiên tri loan báo.

          Người phú hộ này là hình ảnh của một con người lạc hậu so với thời cuộc, sử dụng của cải một cách tưởng là thời thượng nhưng lại rất sai lầm: ngày ngày yến tiệc linh đình, mặc toàn lụa là gấm vóc. Trong khi đó người nghèo Lazarô trong mô tả của câu chuyện dụ ngôn thì không thấy có nhân đức nào ngoài thân phận nghèo khổ bất hạnh bi đát. Câu chuyện như làm vọng lại sứ điệp đã được công bố về Hiến chương Nước Trời với những mối phúc dành cho những người nghèo khổ, đói khát, khóc lóc và những lời đe dọa đối với những người giàu có, no đủ, sung sướng. Một sự thay đổi đảo lộn sẽ diễn ra bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng sẽ trả lại sự công bằng ngay thẳng cho những người đã phải chịu những đau khổ thiếu thốn trong cuộc đời hiện tại. Thánh vịnh 145 trong bài đáp ca làm vang vọng sứ điệp cứu độ giải thoát của Thiên Chúa dành cho những người nghèo khổ : “Chúa là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.” Sứ điệp của bài dụ ngôn chỉ là khẳng định lại giá trị của nền luân lý tinh tuyền của sách Lề luật và các tiên tri mà không ai có thể cho phép mình bỏ qua hay không biết. Sách đệ nhị luật (15,7-11)  đã viết: “Nếu ở nhà ngươi có người nghèo khó… ngươi không được cứng lòng và không được khép kín bàn tay không giúp đỡ người nghèo khó này. Ta truyền cho ngươi: ngươi phải mở rộng bàn tay cho người anh em nghèo khổ ở trong xứ sở của ngươi”. Câu chuyện mang nhiều nét được hình dung theo văn hóa do thái, như sau khi chết thì người phú hộ phải ở trong hỏa ngục đau khổ bị lửa thiêu đốt và Lazarô thì được hạnh phúc ở trong lòng tổ phụ Abraham.  Điều được khẳng định mạnh mẽ qua câu chuyện là giờ đây số phận đã thay đổi quyết định, và dù người phú hộ có là con cháu Abraham đi nữa, thì quan hệ ruột thịt này cũng không thay đổi gì được tình thế đã được an bài và mỗi người phải chấp nhận định mệnh mà mình đã tự quyết định trong cuộc đời tại thế. Câu chuyện còn nêu lên một khẳng định nhắc nhở khác khi gợi ra lời cầu xin của người phú hộ, xin phép tổ phụ Abraham cho Lazarô trở về nhắc nhở năm người em còn sống vì ông nghĩ rằng nếu có người chết trở về nhắc nhở thì họ sẽ tin. Nhưng lời thỉnh cầu này cũng bị từ chối dứt khoát vì nếu những người này không nghe lời Lề luật và các tiên tri, họ cũng không bao giờ nghe lời người chết trở về nhắc nhở.

          Lời khuyên của thánh Phaolô đối với Timôthêu trong bài đọc thứ hai cũng là lời nhắc nhở cho mọi người: hãy luôn giữ vững đức tin của mình trong mọi giao động của cuộc đời. Có lẽ vào lúc bấy giờ, Phaolô hình dung Chúa Giêsu sẽ trở lại trong một thời gian gần, vì thế điều quan trọng là phải sẵn sàng trong đời sống của người tín hữu, cố gắng thực hành những nhân đức nền tảng của người tín hữu là đức tin, đức ái, đức nhẫn nại và hiền lành; và đời sống đức tin của người tín hữu là một cuộc chiến đấu với chính nghĩa là đức tin để đạt được cuộc sống đời đời. Phaolô nhắc lại gương mẫu sống động là hình ảnh Chúa Giêsu đứng trước toà án Philatô. Người đã vững vàng trong cuộc chiến đấu của đức tin đến hơi thở cuối cùng và trở nên gương mẫu cho mọi người chúng ta, Người sẽ trở lại tràn đầy vinh quang mà chúng ta sẽ dự phần với người.

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- C

GIÀU VÀ NGHÈO- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Trong cuộc sống, chúng thấy người ta thường trò truyện với nhau, có khi còn tranh luận nữa: ai giàu, ai nghèo? Ai giàu vật chất nhưng có tinh thần nghèo, ai nghèo vật chất nhưng có tinh thần giàu? Đối với chúng ta, vấn đề không phải là phân biệt ai giàu ai nghèo, nhưng vấn đề quan trọng là: ai là người có phúc, ai là người bị lên án? Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: một người giàu, ăn sung mặc sướng ở đời này, nhưng lại phải khổ ở đời sau. Ngược lại, một người nghèo, đói khát ở đời này, nhưng lại được hạnh phúc ở đời sau. Như vậy, phải chăng giàu có là một tội và nghèo khổ là có phúc?

Trước hết, nói đến giàu nghèo là nói đến tiền của, và nói đến tiền của chúng ta có thể ghi nhận ba điều: Thứ nhất, tiền của cũng như danh vọng, khoái lạc, đối với lòng tham của con người, không bao giờ là đủ, lòng tham này vô đáy. Người ta có thể mơ ước tiền của suốt đêm, bàn tán về tiền của suốt ngày, lo tìm kiếm tiền của suốt tháng, vơ vét tiền của suốt năm… chẳng bao giờ thỏa mãn và chẳng biết bao nhiêu là đủ: ta có một triệu, lại muốn được hai triệu, có hai triệu, ta lại thèm ba triệu, có ba triệu, ta lại ước bốn triệu. Cuộc săn đuổi cứ tiếp tục leo thang, thỏa mãn, cho là đủ rồi, thật là hai tiếng xa vời. Thứ hai, thái độ cần tiền của là chuyện tự nhiên, không ai tránh được, vì ai cũng cần chúng. Và việc cố gắng làm cho có nhiều tiền của không phải là chuyện xấu, cũng như giàu có không phải là một tội, miễn là người ta không kiếm tiền và làm giàu cách bất chính. Thứ ba, tiền bạc, của cải vật chất là điều có thể mất, chúng ta mất chúng vì chúng bỏ chúng ta, như khi tiêu xài, mất mát, nhưng chúng ta cũng mất chúng, vì chúng ta bỏ chúng, lúc chúng ta chết chẳng hạn, chúng ta phải bỏ lại tất cả, chúng có thể hết, vì là vật chất, linh hồn không hết, vì linh hồn thiêng liêng.

Thế nên, tiền của không thể bảo đảm hạnh phúc đời sau cho chúng ta được, mà trái lại, như thực tế chúng ta thấy, chúng thường là nguyên nhân gây ra bao tội lỗi, tật xấu và làm mất hạnh phúc đời sau của chúng ta. Tuy nhiên, tiền bạc của cải, nếu được sử dụng đúng cách, hợp tình hợp lý, cũng có thể là phương tiện mua nước thiên đàng, như giúp đỡ việc công, làm việc bác ái, cứu giúp người nghèo khổ… đó là dùng tiền của để mua nuớc trời, đó là cách thu tích của cải để bảo đảm hạnh phúc đời đời.

Trong dụ ngôn của Tin Mừng, chúng ta thấy không đề cập tới một tội rõ rệt nào của ông nhà giàu, thế mà ông đã sa hỏa ngục, như vậy, nguyên việc giàu đã là một tội chăng? Không, ông bị phạt không phải vì ông giàu, nhưng vì ông đã sử dụng tiền của một cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ, thương giúp người hành khất đói rách, nghèo khổ. Ngược lại, người hành khất La-da-rô nghèo khổ, nguyên tình trạng nghèo chưa phải là điều kiện để ông được thưởng, mà là ông có tinh thần, có tâm hồn nghèo khó, biết chấp nhận cảnh nghèo khổ, bệnh tật, tuân theo ý Chúa. Dĩ nhiên sự chấp nhận này không ngăn trở người nghèo khổ cố gắng hành động phải lẽ, làm việc chính đáng để thoát khỏi cảnh nghèo và bệnh tật.

Như vậy, một điều nữa chúng ta cần ghi nhận là có sự tương quan giữa cách chúng ta sử dụng tiền của với hạnh phúc vĩnh cửu: nếu ông nhà giàu biết đem tiền của chia sẻ cho ông La-da-rô, thì ông đã sắm cho mình kho tàng trên trời. Chính vì thế có người đã nói rằng người Ki-tô hữu có ba loại người bạn là tiền bạc, bà con bạn hữu và việc lành phúc đức. Tiền bạc là người bạn chúng ta thương nhất, quý nhất, chiếm môt vị trí quan trọng trong đời chúng ta, thậm chí khi phải chọn lựa, có người đã không theo lẽ phải, nhưng đã để hấp lực của đồng tiền cuốn hút. Loại người bạn thứ hai cũng chiếm một vị trí quan trọng trong tim óc chúng ta là bà con ruột thịt và bạn hữu, trong đó phải kể đến người bạn cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm với chúng ta, người bạn mà Chúa đã bảo chúng ta với họ không còn là hai nhưng đã trở thành một.

Thân như thế, thương như thế, mà khi chúng ta chết, cả hai đều dừng bước trước cánh cửa vĩnh cửu. Trước tòa Thiên Chúa, tiền bạc như câm nín, chẳng một lời biện hộ cho chúng ta. Còn thân quyến bạn hữu, tốt lắm là theo chúng ta tới huyệt, đẹp lắm là ném cho chúng ta một nắm đất rồi ra về, quên lãng, việc chúng ta gặp gỡ Chúa khó dễ thế nào họ chẳng biết đến.

Còn người bạn thứ ba là việc lành phúc đức, chúng ta không yêu, không thương bằng hai người bạn kia, nhưng lại tín trung với chúng ta hơn cả. Khi sống ở trần gian, nhờ nó chúng ta được mọi người yêu thương quý mến, nhất là khi chúng ta cất bước đi về đời sau, nó là người bạn sát cánh chúng ta hơn cả, nó không dừng lại trước nấm mồ, nhưng theo chúng ta tới tận tòa Chúa, mạnh dạn biện hộ cho chúng ta và đưa chúng ta vào cõi phúc. Người bạn này thật chân tình đối với chúng ta, thế mà khi sống ở đời này, chúng ta chỉ đáp lại hờ hững.

Tóm lại, tiền bạc của cải rời bỏ chúng ta khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, thân thuộc bạn hữu còn nán lại lâu hơn đưa chúng ta tới phần mộ, chỉ có việc lành phúc đức mới đi theo chúng ta vào cõi đời đời. Xin Chúa cho chúng ta từ nay có thái độ gần gũi, gắn bó với người bạn thứ ba nhiều hơn.

home Mục lục Lưu trữ