Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 35

Tổng truy cập: 1363358

E SỢ

E SỢ

 

Chuyện xưa kể lại rằng: Đức Khổng Tử thấy người giăng lưới chim sẻ, chỉ đánh được các chim sẻ con, còn non, vàng mép. Ngài liền hỏi rằng: "Không đánh được chim sẻ già là làm sao?". Chim sẻ già bíết sợ nên khó được, sẻ non ham ăn cho nên dễ bắt. nếu sẽ non mà theo sẻ già thì bắt sẻ non cũng khó. Nhưng nếu sẽ già mà theo sẽ non thì bắt sẽ già cũng dễ. Đức Khổng Tử nghe vậy hỏi học trò rằng biết sợ để tránh tai hại tham ăn mà quên nguy vong . Điều đó là tính tự nhiên vậy.

Qua câu chuyện trên ta thấy những con chim sẻ già biết sợ nên sống, đó là một cái sợ khôn ngoan, cái sợ của một con chim có nhiều năm kinh nghiệm, nên nó biết chọn chỗ nào nguy hiểm chỗ nào không nguy hiểm, có thể nói con chim sẽ già biết sợ để được sống chứ không phải là bị sợ vì nó hoàn toàn chủ động chứ không phải vào thế bị động.

Trong tâm lý học cho thấy, có rất nhiều cái làm cho người ta sợ. Sợ có thể là do bị mặc cảm tự ti, sợ không bằng người khác, sợ không thể làm được trước một công việc mà họ cho là quá lớn lao. Cái sợ thứ hai gần giống như sự xao xuyếnbăn khoăn thổn thức, nội tâm cảm thấy bất an sâu xa mà không có nguyên do khách quan nào. Họ sợ bị bất hạnh ập đến, một tai nạn gần kề trí tưởng tượng sẽ xảy ra cho họ rằng có những biến động bất ngờ đôi khi rất kinh sợ mà họ không tài nào xua đuổi được.

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một cái sợ mới, rất độc đáo. Nó không giống cái sợ từng trải của con chim sẻ già, cũng không giống một cái sợ mặc cảm tự ti, cũng không xao xuyến bất an, một cái sợ thật dễ thương biết mình là thụ tạo được tuyển chọn, biết mình để mà sợ sống phó thác, sống vâng lời. Đó chính là cái sợ của Đức mẹ Maria cô trinh nữ làng Nazareth và anh chàng thợ mộc Giuse nghèo nàn, ít nói và luôn sống âm thầm.

Không phải tự nhiên ta có thể khẳng định Đức Meria sợ hãi. Điều đó đã được chứng minh qua việc khi sứ thần truyền tin. "Maria đừng sợ, Bà đã được Thiên Chúa sủng ái" Chắc Maria lại càng sợ hơn khi nghe nói mình sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu . Không phải chỉ có Đức Mẹ khi nghe lời đó sợ hãi mà hầu hết tất cả các thiếu nữ Do Thái khi nghe đều sợ. Vì theo lật Do Thái người phụ nữ nào có chồng mà có con trong khi Đức Mẹ lại là người phụ nữ đẹp nết đẹp người, Hơn nữa Đức Maria lại là con ông Gioan Kim và Anna sống tốt lành thánh thiện thì lại càng sợ hơn nữa. Nhưng cái sợ của Đức Maria khi nghe truyền tin không giống như cái sợ của những người phụ nữ Do thái khác. Sợ vì có một chút bất ngờ một chút bỡ ngỡ, vì không ngờ một thụ tạo hèn kém như mình lại được Chúa chọn, được Chúa ban cho hồng ân to lớn đến thế. Có thể nói cái sợ của Mẹ Maria như lời tạ ơn đơn sơ đẹp lòng Chúa nó cũng chứng tỏ nơi Mẹ một tâm hồn phó thác vì biết sợ trong Chúa vì biết tin tưởng nới Thiên Chúa mà Mẹ đã biến nỗi sợ hãi bằng lời thưa trong sự can đảm và vâng phục thánh ý Thiên Chúa

Khi nói đến Thánh Giuse, người ta nghĩ ngay đến một người công chính, ngay thẳng sống âm thầm, ít nói. Suốt cuộc đời trong Kinh Thánh không ghi lại một lời nào của ông nhưng ta biết được ông cảm thấy e ngại khi biết Đức Maria có thai, ông không hề nói cho ai biết điều làm ông e ngại đó, nhưng Thiên Chúa đã thấy và biết được sự lo lắng trong lòng ông. Do đó Thiên Thần đã đến với ông trong giấc mơ và nói với ông hỡi Giuse đừng sợ đón nhận Maria về nhà làm vợ vì nàng đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. sau khi tỉnh giấc Giuse đã tin tưởng vào Thiên Chúa và đường lối hành động của người. Do đó ông cũng vượt qua được nỗi sợ hãi và làm theo ý Chúa. Tất cả chúng ta đều đã đụng chạm đến nỗi sợ hãi và chắc chắc cũng còn gặp nhiều nỗi sợ hãi nhưng đường để nỗi sợ hãi đó làm ta không thể đến được với Chúa nhưng hãy biết chuyển đổi nỗi sợ hãi để thành niềm tin.

Trong mùa giáng sinh này hãy biến nỗi sợ hãi thành lòng khao khát đợi Chúa đến, và chỉ có Chúa ta mới nhận được niềm vui lớn lao như Đức Mẹ và thánh Cả Giuse đã nhận hơn 2000 năm trước.

 

33.Chúa Cứu Thế giáng sinh – R. Veritas

(Trích từ ‘Sống Tin Mừng’)

Chúa nhật IV Mùa vọng hướng tâm trí chúng ta đến thật gần mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, mầu nhiệm mà mỗi người con của Giáo Hội được mời gọi đón nhận với tâm hồn được chuẩn bị kỹ lưỡng trong suốt bốn tuần Mùa vọng. Tất cả ba bài đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều hướng về sự kiện căn bản này: “Con Thiên Chúa Nhập Thể và sinh ra bởi Người Nữ Đồng Trinh, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần”, theo như lời hứa của Thiên Chúa trong lịch sử dân Chúa.

Bài tường thuật biến cố Con Thiên Chúa Giáng Sinh nơi Phúc Âm thánh Luca sẽ được dùng trong Thánh Lễ Giáng Sinh vào Chúa nhật IV Mùa vọng, Giáo Hội nhắc đến biến cố căn bản qua bài tường thuật của Phúc Âm thánh Mátthêu (x. Mt 1,18-24). Dĩ nhiên, tác giả Phúc Âm theo thánh Mátthêu không tường thuật biến cố Nhập Thể và Giáng Sinh của Con Thiên Chúa trong cùng một cách thức như Phúc Âm thánh Luca. Tác giả Phúc Âm thánh Mátthêu nhắc đến biến cố trong vai trò của thánh Giuse, thánh nhân được mạc khải cho biết mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, tức Con Thiên Chúa được sinh ra trong cung lòng Đồng Trinh của Mẹ Maria, do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse được mạc khải cho biết và đồng thời mời gọi Ngài tích cực tham dự vào chương trình đó, là người cha nuôi của Con Thiên Chúa, là Đấng bảo vệ cho Mẹ Maria và Chúa Giêsu.

Qua đó, Thánh Giuse được mạc khải cho biết nguồn gốc thần linh của Đấng được Mẹ Maria cưu mang. Trong mạc khải đó, Thánh Giuse được nhắc lại cho biết lời tiên tri được loan báo trong dân Israel và được ghi chép lại trong sách Isaia nơi chương VII mà bài đọc I Chúa nhật IV Mùa vọng đã nhắc lại, đó là lời tiên tri được loan báo gần 8 thế kỷ trước khi biến cố thực sự xảy ra. Là một người Công Chính như thánh Giuse, chắc chắn Ngài đã đọc Kinh Thánh Cựu Ước và biết về lời tiên tri này như bao thành phần tốt của dân Israel thời đó. Tuy nhiên, khi biến cố thực sự xảy đến trước mắt mình và có liên quan đến chính mình, thì thánh Giuse có phản ứng đầu tiên là không chấp nhận, như Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại như sau: “Thánh Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo”. Luật Do Thái phạt nặng nề một người phụ nữ đã đính hôn mà đi ngoại tình với kẻ khác. Giuse có thể đi tố cáo Mẹ Maria, vì khi thấy Bạn mình chưa về chung sống mà đã mang thai. Phúc Âm không nói gì, nhưng người ta có thể hiểu là Maria có thể đã kể cho Giuse biết biến cố thiên thần truyền tin và việc mang thai là do quyền phép Chúa Thánh Thần như lời thiên thần loan báo, nhưng có thể thánh Giuse không hiểu, không tin hoặc tin lời Maria nói nhưng lại cảm thấy mình không xứng đáng, không muốn tham dự vào chương trình cao cả của Thiên Chúa, vì thế mà Ngài định tâm rút lui.

Thánh Giuse có thể tố cáo Maria dựa trên luật Israel lúc đó, nhưng ông không làm như vậy, Ông muốn trốn đi, vì việc này có thể được mọi người xung quanh hiểu như là một hành động bỏ trốn trách nhiệm làm cha, và trên bình diện siêu nhiên thì có thể được hiểu như là việc chối từ cộng tác với chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho Giuse một cơ hội, nên đã sai sứ thần đến xác nhận cho Giuse biết là: “Đừng ngại nhận Maria về làm Bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần”, và thiên thần mạc khải thêm về thân thế của Đấng Cứu Thế đang được cưu mang trong cung lòng Mẹ Maria và mời gọi Giuse cộng tác và Ngài sẽ đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Việc đặt tên cho con là quyền của người cha, như vậy khi mời gọi Giuse đặt tên cho Con Trẻ không do chính máu huyết của mình, có nghĩa là mời gọi Giuse chấp nhận quyền hay đúng hơn sứ mạng làm cha của Con Trẻ trên bình diện pháp lý.

Thánh Giuse có thể từ chối, nhưng Ngài đã không từ chối mà vâng phục lời thiên thần truyền, Ngài chu toàn vai trò Thiên Chúa muốn trong việc cứu rỗi. Khi Mẹ Maria sinh Con Trẻ thì Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu. Ngoài mẫu gương hành động của Giuse, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nơi bài đọc II nhắc chúng ta nhớ đến một mẫu gương hành động trước mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, đó là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ, một khi chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, thì con người không thể nào có thái độ dửng dưng được nữa, nhưng phải để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô chiếm lấy, biến mình trở thành môn đệ, thành người cộng tác với Chúa để mang ơn cứu độ đến cho mọi người, mọi dân tộc.

Mùa Giáng Sinh sắp đến, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa làm người được người đồ đệ suy niệm bắt chước, nhưng không dừng lại hưởng niềm vui cứu rỗi nơi mình, nhưng cần để cho ơn Chúa chiếm lấy nơi mình và dấn thân mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta cầu chúc cho mọi người được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha. Amen.

 

34.Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐÓN TIẾP CHÚA

Ngày 17 tháng 12 vừa qua, ta đã đọc bài Phúc Âm nói về gia phả Đức Giêsu, trong đó Chúa Giêsu sinh bởi dòng dõi vua Đavít. Hôm nay, Phúc Âm lại trình bày cho ta một gốc tích khác của Người: Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức Maria do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Phải chăng thánh sử Matthêu mâu thuẫn khi đưa ra hai gốc tích khác nhau như thế?

Thánh sử Matthêu không mâu thuẫn, nhưng khi trình bày cho ta hai gốc tích khác nhau của Chúa Giêsu, thánh sử có một dụng ý thần học. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên việc thụ thai phải do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng Chúa Giêsu cũng là người nên phải sinh ra bởi một con người. Thiên Chúa ban Con Một cho loài người. Đức Maria đã đại diện loài người lãnh nhận. Nhưng quyền năng Chúa Thánh Thần tác động trên Đức Maria chỉ diễn ra trong riêng tư, âm thầm. Chính thánh Giuse đưa Chúa Giêsu ra công khai khi nhận Ngài vào dòng tộc Đavít. Qua trung gian của thánh Giuse, Chúa Giêsu đã chính thức gia nhập gia đình nhân loại, trong một đất nước, trong một dân tộc, trong một dòng họ. Tên tuổi của Người được ghi trong lịch sử của dân tộc, của dòng họ, của gia đình. Vận mệnh của Người gắn chặt với dân tộc, dòng họ, gia đình ấy. Người thực là Emmanuel, là “Thiên Chúa ở với chúng ta”.

Nhờ đâu mà thánh Giuse và Đức Maria được diễm phúc là những người đầu tiên, đại diện nhân loại tiếp đón Đấng Cứu Thế. Qua bài Phúc Âm Truyền Tin và bài Phúc Âm hôm nay, ta thấy thánh Giuse và Đức Maria có những đặc điểm sau đây.

1) Các Ngài có tâm hồn khiêm nhường sâu xa.

Đức Maria là một thiếu nữ có tâm hồn khiêm nhường. Từ nhiều thế kỷ qua, lời sấm về Đấng Cứu Thế vẫn được truyền tụng trong dân Do Thái. Thiếu nữ nào cũng mong được làm mẹ Đấng Cứu Thế. Đó là một hạnh phúc, một vinh dự không chỉ cho cá nhân mà còn cho cả gia đình, cho dòng họ, cho đất nước. Vậy mà khi nghe thiên thần loan báo tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chỉ khiêm tốn thưa: “Này là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”. Khi bà Êlisabeth ca tụng Ngài, Đức Maria đã đáp lại: “Vì Chúa đã đoái thương phận tôi tớ thấp hèn. Người nâng cao những người bé nhỏ”. Đức Maria nhận ra sự thật là: Nếu Ngài được ơn Chúa ban thì không phải vì công trạng của mình, nhưng do lòng từ bi thương xót của Chúa. Vì khiêm tốn, nên Đức Maria âm thầm ghi nhớ tất cả mọi việc Chúa làm, mọi lời Chúa phán. Ghi nhớ để suy gẫm trong lòng. Càng suy gẫm lại càng thêm khiêm nhường. Càng khiêm nhường lại càng kín đáo.

Thánh Giuse cũng có tâm hồn khiêm nhường không kém. Đọc Phúc Âm, ta có cảm tưởng là thánh Giuse luôn tự rút lui vào trong bóng tối. Ngài luôn sống âm thầm khiêm tốn trong công việc tầm thường của thợ thuyền. Sự khiêm tốn ấy đặc biệt thể hiện trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi biết tin Đức Mẹ đang mang thai Đấng Cứu Thế, thánh Giuse đã âm thầm bỏ đi. Ngài không dám tự cho mình cái vinh dự được làm cha Đấng Cứu Thế. Ngài không dám chiếm hữu quyền làm cha của Thiên Chúa. Ngài không dám mạo nhận công việc của Chúa Thánh Linh. Ngài là người công chính vì khiêm tốn sống đúng thân phận của mình. Ngài là người công chính vì trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.

2) Các Ngài mau mắn vâng lời Thiên Chúa.

Các Ngài có chương trình cho đời sống. Chương trình ấy được suy nghĩ kỹ lưỡng vì được thực hành nghiêm chỉnh. Đức Maria khấn giữ mình đồng trinh. Thánh Giuse muốn sống âm thầm trong bóng tối. Nhưng khi nghe biết thánh ý Thiên Chúa các Ngài đã mau mắn xin vâng, bỏ dở chương trình riêng tư, chuyển hướng cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa. Đức Maria đã thưa “xin vâng” bất chấp những đau khổ, khó khăn đang chờ đón. Thánh Giuse đã mau mắn vâng lời dù thánh ý Thiên Chúa chỉ mơ hồ giữa bóng đêm dày đặc, trong một giấc mộng lãng đãng mơ hồ.

Vì Chúa, các Ngài đã từ bỏ ý riêng mình. Vì Chúa, các Ngài đã thay đổi toàn bộ đời sống. Thay đổi quyết liệt. Từ bỏ dứt khoát. Vâng lời mau mắn.

Thái độ của các Ngài rất gần với thái độ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ tự hạ mình thẳm sâu. Dù là Thiên Chúa, Người đã không đòi cho mình quyền được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự hạ làm một người bé nhỏ nghèo hèn. Người luôn vâng lời Đức Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập giá.

Đồng thanh tương ứng, đồng ý tương cầu. Giống nhau thì tìm đến nhau. Chúa Giêsu xuống trần trong một thái độ khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa Cha đã tìm được nơi cư trú tâm đắc nơi Đức Maria và thánh Giuse, hai tâm hồn khiêm nhường và tuyệt đối vâng lời.

Lạy Chúa Giêsu bé nhỏ, bây giờ thì con đã hiểu biết phải dọn một máng cỏ như thế nào cho Chúa. Chúa muốn con khoét một hang sâu khiêm nhường trong lòng con, trải trên đó những sợi cỏ vâng lời mau mắn. Như thế con sẽ được hạnh phúc đón tiếp Chúa, Đấng rất khiêm nhường và rất vâng lời. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Ngày càng có nhiều người mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng Lễ Giáng Sinh đã bị thương mại hóa. Bạn sẽ chuẩn bị Lễ Giáng Sinh thế nào cho phù hợp với tinh thần của Chúa?

2) Sống khiêm nhường và vâng lời trong xã hội hôm nay có dễ không?

3) Bạn nghĩ gì về việc Chúa Giêsu tự nguyện xuống thế, làm một người, làm con trong một gia đình?

 

35.Emmanuel - Br. B.M. Thiện Mỹ, CRM

Có ba thanh niên leo núi Manhull bên Hoa Kỳ. Bỗng một cơn bão tuyết đổ xuống vùng ba người đang ở. Họ bắt buộc phải ẩn trú trong một hang đá!

Cơn bão kéo dài đến ngày thứ 11. lương khô đã cạn,mỗi người chỉ còn được một muỗm mạch nha mỗi ngày. Trong cơn nguy ngập như thế, họ chỉ còn một nguồn hy vọng là cuốn Thánh Kinh của một người trong nhóm mang theo. Mỗi người đọc Kinh Thánh 8 tiếng đồng hồ rồi trao cho người khác. Cứ như thế họ đọc lời Chúa suốt đêm ngày. Bên ngoài là tiếng gió rít của bão tố, bên trong hang họ nhờ Kinh Thánh mà duy trì niềm tin cho đến ngày thứ 16, bão tuyết chấm dứt và có nhóm người tiếp cứu tìm gặp họ …

Cuộc đời chúng ta cũng tràn đầy những cơn phong ba bão táp, bao trùm khắp cả địa cầu. Đối với thời tiết cơn bão cũng chỉ có từng lúc rồi lại tan biến nhường chỗ cho thời tiết điều hoà, riêng mùa xuân cảnh vật trời đất còn được vui tươi, thanh bình, ấm áp, cùng với muôn chim ca hót trong những vườn hoa nở rộ, những bông hoa thật xinh tươi thơm tho …. Nhưng cơn bão tâm hồn nó hoành hành con người triền miên, lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác. Cơn bão nội tâm đầu tiên mà ma quỷ tạo ra ngay từ lúc nguyên tổ còn ở trong vườn địa đàng, con người đã bị ngã gục trước cơn bão khổng lồ của Satan. Cũng như mưa sa bão táp ở thiên nhiên, cơn bão tâm hồn cũng xô đẩy con người dưới nhiều hình thức và cường độ mạnh yếu khác nhau mà chúng ta quen gọi là 7 quỷ hay 7 mối tội đầu. Một cơn bão cụ thể hiển nhiên và nổi bật trong các thời đại hiện tại là cơn “bão sex”, nó bao vây thế giới trẻ hiện nay và đã có rất nhiều thanh niên thanh nữ, kể cả những anh chị mới lớn cũng bị gục ngã trước cảnh bầy hầy trong sinh hoạt hằng ngày.

Dưới sức tấn công của tà thần trong muôn mặt của cuộc đời, chúng ta cũng có quyển Kinh Thánh ở ngay trong tâm hồn người Kitô hữu. Quyển Kinh Thánh này ghi khắc vào linh hồn ta khi rửa tội, bắt đầu gia nhập hàng ngũ Hội Thánh và được chính thức làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Quyển Kinh Thánh đó, với ơn thánh trợ giúp, chúng ta đọc thấy những trang sách ở mọi nơi: Ở trong giòng suối nước róc rách chảy ngang qua các cánh đồng cỏ xanh tươi, ở trên những dãy núi hùng vĩ trùng trùng điệp điệp, ở tận bầu trời cao thẳm hay ở dưới đại dương mênh mông … vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và lời Chúa sống động nhất trong lúc ban bố ở Thánh Lễ Misa hằng ngày. Lời Chúa chính là của ăn bổ dưỡng cho tâm hồn để chúng ta chiếm hữu được Đấng EMMANUEL nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta cũng như lời thánh Phaolô nói: “cho đến khi Chúa Kitô thành hình trong anh em”.

Ngày Chúa Nhật hôm nay, Phúc Âm cũng thuật lại câu chuyện của gia đình Thánh Gia vào thời kỳ đính hôn. Hồi ấy giữa lúc mối tình đẹp đẽ đang dâng cao để tiến lễ thành hôn, thì cơn bão thánh thiện ập đến túp lều lý tưởng đề hứa hẹn. Suy đi nghĩ lại nhiều ngày trời về sự kiện Mẹ Maria, thánh Giuse rất áy náy ưu tư khi thấy bạn đồng trinh của mình ngày càng khác lạ rõ ràng. Còn đối với người ngoài cuộc, bà con trong họ hay hàng xóm láng giềng, lại không có vấn đề gì phải thắc mắc. Vì theo phong tục người Do Thái, việc thụ thai trong thời kỳ đính hôn được coi như con chính thức. Riêng thánh Giuse lại không hiểu đơn giản như thế, Ngài thấy đây là công trình tác tạo của Thiên Chúa, thánh Giuse ái ngại như thánh Phêrô khi thấy quyền năng của Thiên Chúa liền cúi mình thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội” (Lc.5,8). Lại nữa, thánh Giuse là người công chính, Ngài không muốn đảm nhận tư cách làm cha mà không phải là tác phẩm của Ngài. Để tôn trọng chương trình của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Mẹ Maria, thánh Giuse đã muốn âm thầm rút lui ….

“Nhưng đang khi định tâm như vậy …” thì Thiên Chúa đã sai sứ thần đến để trấn an, báo tin và trao ban sứ mệnh cho Ngài. Như vậy thánh Giuse là nhân chứng sống động cho việc Mẹ Maria sinh hạ Chúa Giêsu mà vẫn còn trinh khiết. Việc thánh Giuse đặt tên Con Trẻ là Giêsu nói lên vai trò làm Cha trước pháp luật. Vì theo phong tục bấy giờ, chỉ có cha mẹ mới có quyền đặt tên cho con mình. Và vì thánh Giuse là con vua Davit, nên Con Trẻ Giêsu cũng thuộc dòng tộc Davit, đúng như lời Kinh thánh đã báo trước qua các ngôn sứ. Đó là một chiến thắng rất vĩ đại của Cha thánh Giuse, Ngài đã vượt qua mọi giông tố để chiếm được Đấng EMMANUEL cho nhân loại.

Như vậy bài suy niệm hôm nay mời gọi chúng ta chiêm ngắm hoàn cảnh gia đình thánh Nazaret, để chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh, để nhận ra công trình phi thường của Thiên Chúa, và để chúng ta noi gương các Đấng đã rất mềm mỏng tinh tế với ý muốn của trời cao.

Gương sáng chói của Chúa Giêsu, Ngài là Đấng rất cao cả vô cùng, Ngài có thể cứu chuộc thế gian bằng nhiều cách, nhưng Chúa đã trở nên con của Mẹ và con của thánh Giuse là Cha Đồng Trinh Ngôi Lời Nhập thể và nhờ Giáo hội cộng tác vào chương trình cứu thế của Ngài. Được Thiên Chúa xử dụng trong việc tông đồ, được Ngài kêu gọi chúng ta vào hàng ngũ tuyển chọn trong đời dâng hiến … Chúng ta hãy thưa lời xin vâng như thánh Giuse khi được báo tin trong giấc mơ, như lời Fiat của Đức Mẹ trong ngày truyền tin, như thánh Phêrô thưa cùng Chúa rằng: “Vâng lời Thầy con xin thả lưới…”.

Tuy nhiên cuộc đời không thuần đơn giản như thế, thánh ý Chúa dễ bị những mây mù bão tuyết của trần gian che khuất. Che khuất bởi quỉ thần Satan, bởi dục vọng nặng nề của lòng người , bởi hào nhoáng của thế gian, đấy là chưa kể ý chí bị ru ngủ, không muốn vươn cao lên khỏi tầng mây mù để bay về trước Thánh Nhan Chúa, tìm gặp Đấng EMMANUEL. Ước gì gia đình Thánh Nazret là mẫu gương sáng chói cho chúng ta noi theo sống đời theo chân Chúa.

 

36.Hãy sẵn sàng - Lm. Thu Băng, CRM

Vài tuần trước đây, tạp chí "This week" có thuật lại câu chuyện cảm động về một cậu bé người Hòa Lan, đã từng trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc Xã, nhưng đã bị bắt lại và đã bị kết án tử hình. Ngày trước khi bị hành hình, cậu đã gửi cho cha ruột cậu lá thư sau đây. "Cha thân yêu, thật khó khăn lắm con mới viết được cho cha lá thư này, nhưng con vẫn phải cho cha hay rằng con đã bị tòa án quân sự kết án tử hình. Xin cha đọc lá thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, lúc đúng 5 giờ sáng, chỉ một lát nữa thôi, thế là con sẽ về cùng Chúa. Nói cho cùng, đấy có phải là sự chuyển tiếp đáng kinh hãi không? Không, con cảm thấy rõ ràng rằng mình đang ở gần bên Chúa, con đã chuẩn bị sẵng sàng chờ đón giờ Chúa gọi con. Con nghĩ rằng con còn đỡ đau khổ hơn cha nhiều, vì con biết rằng mình đã xưng tội, đã sống công chính và hiện tâm hồn con hoàn toàn bình an thanh than. Ký tên "John Kless". Phúc cho ai vào giờ Chúa gọi có thể nói được như cậu ta.

Chúng ta có thể nói được rằng, Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn, sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Giáo Hội khuyên chúng ta nên chuẩn bị tâm trí, chuẩn bị tâm hồn, chuẩn bị thể xác, để đón tiếp Chúa Kitô. Đây phải chăng chỉ là sự đón tiếp liên quan đến cuộc giáng thế có tính cách lịch sử của Ngài, thường được chúng ta tưởng niệm vào dịp Giáng Sinh, cũng không phải chỉ liên quan đến cuộc ẩn thân mầu nhiệm của Ngài nơi bí tích Thánh Thể, mà đặc biệt là việc Chúa đến với mỗi người chúng ta trong giờ chết.

Để đón tiếp Chúa Giêsu đến, chúng ta đã chuẩn bị thế nào? Chúng ta nên vâng theo lời thánh Gioan tầy giả khi ông chuẩn bị cho dân Do Thái thời ông đón chờ Đức Giêsu đến với thế gian lần đầu tiên. Ông dạy bảo họ ăn năn thống hối từ bỏ tội lỗi, tin vào Phúc Âm. “Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ lòng ăn năn thống hối của các ngươi” (Lc.3:8). Đây là điều Giáo Hội mời gọi thực hiện trong ngày đón chờ Chúa đến. Chúng ta hãy từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những tính mê nết xấu, những gian tham, những hờn oán và bắt đầu sống đúng như lời Chúa Giêsu từng khuyên dạy chúng ta. Hãy tập tành các nhân đức. Hãy dục lòng yêu mến Chúa gấp trăm lần bù lại những giây phút quên lãng. Hãy hy sinh, hãm mình và làm việc lành phúc đức nhiều hơn mọi khi. Hãy để giờ làm việc thiêng liêng, đọc kinh nguyện ngắm, để tâm thần thêm sốt sáng. Hãy nghiêm chỉnh tự vấn xem "liệu chúng ta có thể trình diện trước mặt Chúa ngay lúc này không?

Mùa Vọng là thời gian tốt nhất để chúng ta hồi tỉnh tâm trí và chuẩn bị tinh thần. Đây là thời gian tự vấn chính mình xem chúng ta đã sẵn sàng đón tiếp Chúa chưa? Chúng ta có nói được như cậu bé John Kless trước giờ hành quyết: "Con cảm thấy rõ ràng con đang ở gần Chúa. Con chuẩn bị sẵn sàng chờ đón cái chết... Con đã xưng tội và tâm hồn con hoàn toàn thanh thản, bình an và hạnh phúc".

Chúng ta hãy qùi xuống trước tôn nhan Chúa, hãy dùng giây phút này để thầm lặng, gẫm suy đến việc chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa đến.

Lạy Chúa, xin giúp con sẵn sàng đón Chúa đến trong mọi lúc. Xin canh tân trí lòng chúng con, đổi mới ý chí. Xin giúp chúng con quyết tâm trong lời nói, trong việc làm, trong hành động, để sống đạo đức thánh thiện hơn trong những ngày đón chờ Chúa đến. Lạy Chúa, con đây xin sẵn sàng thực thi ý Chúa. Amen.

 

37.Vâng phục trong trách nhiệm

Học cùng buổi, là anh lớn, tôi được cha mẹ giao cho trách nhiệm quản lý chiếc xe và đưa rước em út học ở trường mầm non gần trường tôi. Tôi chẳng thích tí nào, vì như thế tôi chẳng bao giờ được đi chơi cùng đám bạn mỗi khi tan học. Nhưng tôi chẳng còn cách nào khác vì cha mẹ phải đi làm, em út thì chưa thể tự đi được.

Lần nọ, cô giáo bị bệnh đột ngột. Chúng tôi được nghỉ tiết cuối. Tôi theo đám bạn ra sân vận động chơi đá banh. Mãi chơi quên cả giờ giấc phải đón em. Chờ mãi không thấy tôi đến rước, cô giáo nhà trẻ đưa luôn em tôi về nhà cô và điện qua nhà tôi bảo mẹ tôi qua rước em. Còn tôi, khi chơi chán thì đã trễ giờ, đến trường của em thì được biết em đã được cô đưa về. Tôi đành lững thững về nhà chịu tội. Về đến nhà, đứa em út nhìn tôi khóc tức tưởi: "Anh hai đi đâu không đón em!".

Phúc Âm ngày hôm nay giới thiệu cho chúng ta một khuôn mặt - một người thầm lặng, thầm lặng nhưng rất vâng phục; ít nói nhưng đầy trách nhiệm. Thánh sử gọi ngài là người công chính. Đó là thánh Giuse.

Trình thuật bài Phúc Âm cho biết Giuse đã đính hôn với Maria, nhưng trước khi về chung sống thì Maria đã mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse thì lòng bối rối như tơ vò, "bỏ thì thương vương thì tội". Tố cáo thì Maria sẽ chết, bởi luật lệ Do thái thời ấy rất khắt khe với những phụ nữ chửa hoang. Rước nàng về chung sống thì sao quá bất công cho mình. Cuối cùng Giuse đã chọn giải pháp âm thầm ra đi. Đành chấp nhận dang dở một cuộc tình đẹp... Nhưng có phải vì sự âm thầm đó mà Giuse được gọi là người công chính? Hay là vì lòng nghĩa hiệp không muốn phanh phui ra ánh sáng một bào thai đang lớn lên từng ngày trong bụng Maria?

Nếu chỉ đơn giản như thế thì cần gì phải nêu ra cho mọi người học hỏi làm gì! Vì thực tế mẫu anh hùng như thế không phải làm hiếm.

Mặc dù Phúc Âm không nói gì về cuộc đời thánh Giuse, nhưng chắc rằng ngài là một người tốt lành, có đạo đức, có học thức. Sự công chính của Giuse được các nhà chú giải cho rằng: Giuse đã biết được thai nhi trong bụng Maria là ai, ngài cũng hiểu được rằng Thiên Chúa đã chọn Maria cho công trình cứu rỗi của Người. Giuse tự thấy mình không có quyền giành Maria với Thiên Chúa, càng không xứng đáng tham dự vào công trình quá cao vời của Thiên Chúa. Giuse chấp nhận hy sinh tình yêu của mình để ý định của Thiên Chúa được thành sự. Giuse công chính là vì ngài đã nhận ra được điều Chúa muốn ngài phải hy sinh và vâng theo điều đó với cả ý thức và trách nhiệm.

Cho tới khi suy nghĩ của Giuse được xác nhận bởi lời của sứ thần, thì sự vâng phục của Gisue được chuyển sang hướng khác và nâng lên cao hơn. Giuse không là kẻ đứng ngoài công trình cứu rỗi. Rối rắm trong lòng Giuse được hoá giải. Trách nhiệm của Giuse giờ đây là công nhận người con Giêsu trong tư cách pháp lý cũng như cho Giêsu được đứng vào hàng con cháu Đavit. Giuse không hề đắn đo hối tiếc trong vai trò cha nuôi của mình. Ngược lại, ngài còn vui mừng vì đã được cộng tác, vì đã được mời gọi. Việc nầy xem ra quan trọng hơn so với việc chấp nhận người khác đứng vào dòng tộc mình. Giuse đã hoàn toàn để ý Chúa "được như lời sứ thần truyền".

Là người Công giáo, chắc hẳn phải hơn một lần bạn nghe nói về sự vâng phục của thánh Giuse, hay của Đức Maria, hay của một vị thánh nào đó. Thế bạn nghĩ gì về điều nầy? Các ngài không phải vâng phục lề thói xã hội không đâu, mà là vâng phục ý Chúa. Và khi đã chấp nhận xin vâng như vậy, các ngài cũng phải đảm đương một trách nhiệm đi cùng.

Như câu chuyện tôi đã kể ở phần đầu, tôi đã miễn cưỡng vâng phục. Tôi không phản ứng nhưng tôi không làm tròn trách nhiệm. May là hôm ấy em tôi không xảy ra sự cố gì rắc rối. Nếu không chắc tôi phải ân hận suốt đời.

Cuộc sống đòi buộc bạn phải dấn thân, đòi buộc bạn phải đáp trả lời mời gọi cộng tác. Bạn không thể ăn bám gia đình mãi. Bạn không thể ngồi đó oán trách số phận đen đũi. Bạn càng không thể trốn chạy trước tương lai của chính đời bạn. Khi bạn chưa bắt tay vào làm bất cứ điều tốt nào thì bạn không được quyền nói bạn không có khả năng. Bạn đã thấy thánh Giuse cũng nghĩ rằng ngài không thể, nhưng với lòng tin vào Chúa và vào chính mình, ngài đã làm được.

Hãy đến chiêm ngắm sự vâng phục của Giêsu - Maria - Giuse nơi hang đá trong đêm Giáng Sinh và nguyện cầu để được các Ngài hướng dẫn cuộc đời bạn. Chúc bạn Giáng Sinh an lành.

 

38.Giải quyết một vấn đề nhờ đức tin

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Nếu đây không phải là một bài Thánh Kinh, người ta sẽ có thể rút ra từ bài tường thuật của thánh Matthêu những yếu tố của một thảm kịch lạ lùng. Song ở Thiên Chúa gọi ta suy nghĩ sâu xa, một suy tư vượt quá óc phân tích, vượt quá nghệ thuật. Những cõi lòng đơn sơ, nghĩa là những ai không vướng mắc vào một hệ thống tư tưởng phiền phức, nhận ra trong biến cố tường thuật lại đây một ‘phát minh’ của tình yêu Thiên Chúa. Một trong những hậu quả lớn lao nhất của mọi mối tình, và dấu hiệu của nó, là làm cho trí khôn phải sửng sốt. Ở đây là tình yêu của Thiên Chúa; nó còn làm trí khôn sửng sốt gấp bội. Nó làm cho trí khôn chưng hửng không phải để hạ thấp trí khôn, song là để nâng cao nó lên nếu nó biết khiêm tốn.

Tác giả Phúc Âm báo trước Chúa Giêsu sẽ sinh ra bởi một người mẹ đồng trinh. Sự kiện đó không phải là không gây ra vấn đề cho hai người trong cuộc, là Maria và Giuse. Thánh Giuse bị đặt ở điểm then chốt của một hoàn cảnh bi đát. Trước hết, cũng như Maria, Người được Chúa mời giải quyết vấn đề của mình, từ ‘trên cao’ nghĩa là bởi một hành vi đức tin. Điều đã nói về Maria: bà có phúc vì đã tin, cũng áp dụng cho Giuse.

Thử rút ra từ đoạn Phúc Âm này hai ý tưởng:

1) Maria đã để cho Thiên Chúa làm việc báo tin cho Giuse biết tình trạng của Người.

Có những kinh nghiệm tinh thần liên quan tới kẻ khác mà người ta vẫn không thể nói tới, bởi vì chúng xảy ra ở một bình diện quá sâu xa. Chúng tôi không nói: Maria và Giuse không hề nói với nhau về việc thụ thai lạ lùng, chẳng hạn sau khi Thiên Chúa can thiệp với Giuse, nhưng Đức Trinh Nữ phó thác cho Chúa việc khai triển ‘cái lý’ của biến cố và các phương tiện của biến cố. Ở những trình độ khiêm tốn hơn nhiều, cũng xảy ra như vậy trong đời sống, nhất là đời sống giữa vợ chồng Kitô hữu. Mọi Kitô hữu ý thức, đều có những ơn sủng riêng tư, nhưng không ơn nào chỉ dành cho mình mà thôi; ơn sủng của Chúa, dù riêng tư nhất, vẫn có một chiều kích hiệp thông huynh đệ. Tuy thế loại ơn này cần phải được giữ gìn kín đáo. Vừa phải đón nhận nó trọn vẹn, vừa phải phó thác cho Chúa công việc làm cho kẻ khác hiểu biết, nhìn nhận nó. Người ta có thể mang trong mình một ơn Chúa làm cho người khác thắc mắc: nếu đó là ơn đích thực, phải để mặc cho Chúa phương tiện giải đáp thắc mắc ấy, hay nói đúng hơn: hãy giao cho Chúa trước đã; phần việc ta có thể sẽ tới sau.

2) Ta nên lưu ý tới tình hình rất cao đẹp của thánh Giuse.

Người đã có thể chiều theo luật lệ sơ đẳng của xã hội đương thời mà tố giác Maria. Một sự ngay thẳng căn bản khiến người hành động cách khác. Qua hành động này ta thấy một giá trị nhân bản sâu xa, vượt xa mặt chữ của lề luật. Lúc đó Thiên Chúa can thiệp. Sự kiện này gợi cho ta một câu hỏi: ta có xác tín rằng các hồng ân cao cả nhất Chúa ban, cái mà ta gọi là các ơn siêu nhiên, cần được dựa trên nền móng các nhân đức tự nhiên như: tính ngay thẳng, lương thiện, can đảm, tinh thần phục vụ, tấm lòng cởi mở… hay không? Sau Đức Mẹ, thánh Giuse nêu cho ta tấm gương đầu tiên trong Hội Thánh về sự thánh thiện được phát triển từ những nền tảng nhân bản rất cao quý.

 

39.Mùa Vọng: Mùa trong veo – ĐGM Vũ Duy Thống

Trên chuyến xe xuôi miền lục tỉnh, người ta chuyển đến tôi một cuốn truyện cũ đã mất bìa để đọc cho quên đường dài. Truyện kể lại mối tình giữa một chàng trai là con sĩ quan học tập và một cô gái là con cán bộ chức quyền. Họ thương nhau và muốn kết hôn với nhau, nhưng khi công khai ý định ấy, họ đã gặp phải những lực cản từ hai phía gia đình. Đã có nhiều nghi ngờ từ phía cha chàng trai và cũng có lắm nghi ngại từ phía cha cô gái. Giải pháp phải chọn là chia xa đôi lứa.

Đành lòng làm thế, nhưng họ vẫn âm thầm chờ đợi nhau, cho đến khi cha chàng trai mãn hạn học tập về nhà và cha cô gái đã đến tuổi về hưu. Hai người cha có dịp gần gũi cảm thông làm chất keo thân ái cho tình yêu đôi trẻ có điều kiện gắn hàn. Kết truyện là đám cưới.

Truyện có hậu và có nét hấp dẫn riêng của thể loại, nhưng điều hấp dẫn hơn hết đối với tôi không phải là cốt truyện cho bằng chính tựa đề “Tình yêu trong veo”: trong veo giữa hai người cha biết xoá tan ngờ vực để thêm gần gũi; trong veo giữa hai bạn trẻ biết vượt qua thử thách để giữ vững tình yêu. Xin mượn tựa đề “Tình yêu trong veo” ấy để gọi tên Mùa Vọng là mùa trong veo một tình yêu.

1) Bằng tình yêu trong veo, Thiên Chúa trao thân cho con người.

Trong khi người Do Thái còn đang mải miết với một vì Chúa ở trên cao và dường như say sưa về một Đấng ở xa con người, đến nỗi trong quan hệ nguyện cầu, thay vì xin những biểu tỏ gần gũi để dễ dàng nắm bắt, họ lại chỉ dám xin một dấu lạ điềm thiêng mãi tận trời cao vượt quá tầm nhìn; và trong niềm mong chờ Đấng Cứu Thế, vốn là mạch sống hy vọng cho cả dân tộc, họ những tưởng nghĩ rằng Người sẽ đến, nhưng là đến trong cung cách của một vị Chúa oai phong lẫm liệt, cho muôn dân nếu không phải cúi đầu sợ hãi thì cũng phải bái phục tôn thờ. Có ngờ đâu, khi Chúa đến, Người lại chọn cho mình một cách đến rất khác lạ.

Người đến thật gần: trong thân phận của một con người để làm người giữa muôn người trần thế. Người đến thật thấp: thấp đến nỗi chọn cho mình cách sống của một người cùng khổ dưới đáy xã hội. Người yêu thương con người để sẵn sàng trao thân cho họ, chấp nhận phải điều đình, chấp nhận được cưu mang, chấp nhận được sinh hạ, chấp nhận được làm người: “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14)

Phải chăng khi trao thân cho con người như thế, Thiên Chúa sẽ được thêm vinh quang? Phải chăng nếu không trao thân cho nhân loại, Thiên Chúa vẫn là Chúa, nhưng là một vị Chúa không được ai biết đến hay là một vị Chúa bị kết án phải cô đơn? Thưa không phải thế. Chính khi trao thân cho con người trong mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa không còn úp mở như trong thời Cựu Ước nữa, Người đã dứt khoát cho thấy mình là Đấng giải cứu con người và sẵn sàng làm hết cách để thực hiện bằng được chương trình của Người mà không đợi chờ mảy may vinh quang nào ngoài lợi ích cứu độ cho người trần gian. Để độ thế, Thiên Chúa đã nhập thể; để cứu người, Thiên Chúa đã làm người.

Chính hai Danh xưng được nêu lên trong phần Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã nói lên tất cả. Danh xưng Emmanuel khẳng định “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Danh xưng Giêsu bộc lộ “Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ” (Mt 1,23-25). Nối kết hai Danh xưng ấy nơi Đấng Cứu Thế, ta sẽ thấy một tình yêu trong veo Thiên Chúa dành cho con người: Người là Thiên Chúa ở cùng ta để cho ta ơn cứu rỗi, và Người là Thiên Chúa cứu độ ta bằng cách ở cùng ta.

2) Bằng tình yêu trong veo, con người gửi phận cho Thiên Chúa.

Nếu bằng tình yêu trong veo cứu độ, Thiên Chúa trao thân cho con người, thì Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng cho thấy những nhân vật gần gũi với mầu nhiệm Giáng Sinh nhất là Đức Maria và thánh Giuse đã bằng tình yêu trong veo tự nhiên gửi phận mình cho Thiên Chúa.

Đối với Đức Maria, tình yêu trong veo đã rõ qua tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, mà Phụng Vụ hữu ý mừng kính ở đầu Mùa Vọng. Tình yêu ấy đã rõ trong việc Mẹ dâng mình vào Đền Thánh, nhưng tình yêu ấy còn rõ ràng hơn khi tiếp cận với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Ngày Truyền Tin, mới gặp sứ thần, Đức Maria đã bối rối, thứ bối rối của một tình yêu trong sạch buổi đầu gặp gỡ. Rồi, lúc được đề xuất làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã băn khoăn, thứ băn khoăn của một tình yêu trong sáng muốn được giải thích đôi câu. Và chính lúc thưa “Xin vâng” (Lc 1,38) là cả một tình yêu trong veo như chưa bao giờ trong đến thế, Đức Maria đã gửi trọn phận mình vào tay Thiên Chúa, bất chấp đó là một mạo hiểm chết người: trinh nữ mà lại mang thai, phải ăn nói ra sao với thánh Giuse? Mới đính hôn thôi mà sắp thành mẹ, phải dàn xếp thế nào cho hợp luật pháp?

Còn thánh Giuse, con người lặng thầm nhất của Mùa Vọng, đã được đặt vào một tình huống khó xử đến độ ray rứt, nhất là trong những ngày trước lúc Đấng Cứu Thế giáng sinh như Phúc Âm hôm nay mô tả. Nhưng chính ở đây ông đã chứng minh bằng những nét đẹp kín đáo hào hùng về một tình yêu trong veo từ lâu đã dệt nên đời sống qua những lựa chọn xé lòng. Là người công chính, dù ghi nhận ít nhiều dấu hiệu chuyển biến nơi Đức Maria, ông cũng chẳng dám nghi ngờ mà chỉ một thoáng băn khoăn, để rồi định chọn cho mình giải pháp âm thầm rút lui. “Đào vi thượng sách” là giải pháp an toàn nhất. Nhưng chính lúc ấy, được tỏ nguồn cơn, ông đã tiếp nhận ý Chúa và tiếp đón Đức Maria về nhà mình bằng một tình yêu trong veo, mà người trần mắt thịt dẫu có bản lĩnh cách mấy cũng khó mà dám xâm mình mạo hiểm (Mt 1,24).

Nhìn như thế, tình yêu trong veo đã liên kết Đức Maria và thánh Giuse, để mái nhà chung sống không chỉ là nơi che nắng trú mưa cho qua ngày đoạn tháng, mà đã trở thành một mái ấm của những tấm lòng biết mở ra cưu mang Con Thiên Chúa và sẵn sàng để sinh Người ra cho dương thế, cho dẫu tình yêu trong veo ấy trên đường cứu độ như một bản trường ca sẽ không thiếu những quãng nghịch, mà việc khó xử hôm nay trong Phúc Âm mới chỉ là những nốt nhạc mở đầu.

3) Cũng bằng tình yêu trong veo, ta đón mừng lễ Giáng Sinh.

Hiểu như trên, Chúa Nhật thứ tư Mùa Vọng rõ ràng là một tình yêu hai chiều trao gửi: Thiên Chúa trao thân cho con người để con người biết gửi phận mình cho Thiên Chúa. Đồng thời cũng là Chúa Nhật trong veo của những tấm lòng biết gửi trao tấm lòng trong ơn cứu độ.

Trên nền tảng ấy, tình yêu trong veo đã trở nên tinh thần phải có để đón Chúa Giáng Sinh. Trong những ngày này, đi ra phố xá, đã nghe vang lên những bài ca Giáng Sinh quen thuộc; ngang qua nhà thờ, đã thấy trưng bày những bộ Noel với hang đá, cây thông, đèn sao đẹp mắt; và đi tới chỗ nào cũng thấy thấp thoáng Giáng Sinh với muôn màu lấp lánh. Nhưng có một màu được xem là không thể quên hay không bao giờ quên đối với mọi tín hữu mừng lễ Giáng Sinh, màu đó không ở trên áo quần giầy dép, môi mép tóc tai, hoa cài áo khoác, mà là ở trong tấm lòng kìa! Đó là màu trong veo của những tâm hồn trinh trong biết cưu mang ý Chúa và biết sinh hoa kết trái trong cuộc sống công minh chính trực của mình.

Nếu ngày xưa trong khúc hát quan họ Sion, câu xướng “Ai được lên Núi Chúa?” đã nhận được lời đáp “Chỉ những người thật thà ngay chính tay sạch lòng thanh mới được bước tới Thánh Cung” (Tv 23,3-4), thì hôm nay cũng thế, trong bài ca cuộc sống ai cũng nôn nao xôn xao ồn ào huyên náo tiếp cận lễ Giáng Sinh cả, kẻ tiếp thị, người tiếp tân; nhưng chỉ có những tấm lòng trinh trong mới xứng đáng trở nên Hang đá tiếp đón Chúa sinh vào. Chúa chỉ một lần đến sinh ra trên trần thế là đủ để cứu chuộc muôn người, nhưng giả như Người có đến sinh ra nhiều lần hơn nữa cũng vẫn thiếu, nếu lòng người chưa sẵn sàng một tình yêu trong veo mở ra đón nhận. Liệu ta hôm nay đã sẵn có một tâm hồn như thế trước lễ Giáng Sinh?

Hơn nữa, tình yêu trong veo cũng là tiếng nói cuối cùng của Mùa Vọng thúc đẩy ta đến với những người xung quanh. Không thể có Mùa Vọng đầy đủ nếu bỏ quên chiều kích tha nhân trong tình yêu của mình, và cũng chẳng tiếp đón Chúa cho đủ nếu từ chối tiếp nhận anh chị em gần gũi với mình trong những sinh hoạt hằng ngày.

Trong Phúc Âm, Giuse biết tiếp nhận ý Chúa “qua giấc mơ”, để rồi sau đó “tỉnh dậy” ông mau mắn đón Đức Maria nên bạn đường bạn đời của mình, cho dẫu hậu thế có kẻ điều ong tiếng ve xem ông như kẻ “vô tư”. Nhưng đó lại là bước đột phá của một tình yêu trong veo biết nhận ra rằng: Thiên Chúa đã ân cần trao thân cho mình qua mầu nhiệm Nhập Thể, thì mình cũng tín thác gửi phận mình trong mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Đó là hai chiều gặp gỡ của tình yêu Giáng Sinh.

Tóm lại, tình yêu trong veo là động lực khiến Chúa đến với con người và là nguồn lực thúc đẩy con người tiếp đón Chúa, để trong cuộc sống cụ thể trở thành nỗ lực của mọi tín hữu đón lễ Giáng Sinh. Trong khi còn chuẩn bị và chưa thực sự được tiếp đón Chúa, hãy bắt đầu bằng cách thực tập tiếp đón những hình ảnh sống động của Chúa là những người ta gặp hoặc những người gặp ta bằng một tình yêu trong veo luôn thăng tiến. “Nếu không gặp Ngài trong nghèo khổ, sẽ chẳng gặp Ngài giữa cao sang. Nếu không gặp Ngài ở dưới đất, sẽ chẳng gặp Ngài chốn Thiên Đàng” (thơ Xuân Ly Băng).

Đến đây, xin được khép lại những chia sẻ Mùa Vọng năm nay. Xin cám ơn Mùa Vọng đã đem đến những ý nghĩ đẹp màu. Xin cám ơn cộng đoàn đã vui lòng lắng nghe. Hy vọng những tâm tình chia sẻ cũng cung cấp chút ý tưởng giúp mỗi người hình thành được Máng Cỏ tâm hồn. Và cám ơn đứa cháu nhỏ đã tình cờ viết lộn chữ Mùa Vọng thành chữ “Màu Vọng” để có được bốn sắc màu chia sẻ nơi đây. Qua xanh đến tím gặp hồng, dìu ta đón Chúa với lòng trong veo.

 

home Mục lục Lưu trữ