Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 19
Tổng truy cập: 1363341
GIUSE CON NGƯỜI THẦM LẶNG
GIUSE CON NGƯỜI THẦM LẶNG
Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về bài học thinh lặng và đợi chờ trong đức tin của thánh Giuse.
Thông thường khi bản thân hay gia đình gặp phải những tai ương hoạn nạn, bị người khác hiểu lầm và chà đạp lên danh dự, chúng ta có khuynh hướng trả đũa, bằng cách bêu xấu đối phương và phân trần với người khác về nỗi bực tức của mình. Thậm chí, chúng ta còn tức giận và tìm đủ mọi cách thức để phản pháo theo kiểu mắt đền mắt, răng đền răng.
Thế nhưng, những người tin Chúa thì phản ứng một cách khác. Thay vì rêu rao phân trần với những người chung quanh, họ sẽ thưa lên với Chúa, tha thiết xin Chúa giải oan cho mình khỏi những chước mốc thiên hạ. Khi chúng ta kêu lên với Chúa, chúng ta hãy ghi nhớ một điều mà chúng ta thường hay quên đó là sự thinh lặng.
Phải, thinh lặng cũng là một cách cầu nguyện rất hữu hiệu. Kinh thánh nói rằng:
- Khi cõi lòng chất nặng nỗi ưu tư, khi ngôn ngữ không nói lên được nỗi sầu buồn của mình, thì chính Chúa Thánh Thần sẽ lấy những điều đang đè nặng tâm hồn chúng ta mà trình lên cùng Chúa Cha, cầu khấn thay cho chúng ta.
Bởi đó sự thinh lặng là điều rất cần thiết. Đúng thế, trước hết sự thinh lặng sẽ giúp chúng ta bình tĩnh lại để có thể lắng nghe được tiếng nói của Chúa và giúp chúng ta tập trung niềm tin tưởng vào Ngài.
Thứ đến, sự thinh lặng sẽ làm rung động Chúa Thánh Thần, khiến Ngài sẽ cầu nguyện thay cho chúng ta. Liệu có lời cầu nguyện nào linh ứng hơn lời van xin của Chúa Thánh Thần? Ngài hiểu rõ ý muốn của Chúa Cha và biết rõ nhu cầu của chúng ta.
Thánh vịnh 37 đã khuyên chúng ta:
- Hãy thinh lặng và đợi chờ, chớ buồn lòng.
Vậy những lý do ấy đã đủ làm cho chúng ta thinh lặng và đợi chờ hay chưa? Nhiều khi chúng ta thêm buồn vì thấy kẻ làm khổ chúng ta lại được nhiều may mắn.
Dưới con mắt trần gian, một người dù làm điều xấu mà vẫn thu hoạch được những kết quả tốt đẹp thì đó là thành công. Nhưng dưới con mắt đức tin, thì đó không phải là thành công thật. Thành công hay không là tùy vào kết quả sau này. Khi kẻ làm điều xấu mà được may mắn thì nên biết rằng Thiên Chúa muốn tỏ lòng tốt đối với họ, trước khi trừng phạt họ một cách xứng đáng.
Trên đời này không thiếu gì những trường hợp ác giả ác báo nhãn tiền. Thiên bất dung gian. Trời xanh con mắt là gương, người ghét nó ít, người thương nó nhiều.
Nhưng cũng có những trường hợp Thiên Chúa chưa làm ngay mà lại để dành đời sau hay dòng dõi của kẻ ác. Dù sao những hình phạt chúng ta nghe được vẫn là nhẹ lắm, nếu đem so với án phạt của ngày phán xét. Thiên Chúa có luật công bình và thánh thiện của Ngài. Ngài không bao giờ quên người công chính bị oan khiên. Hãy xác tín Ngài luôn can thiệp thật đúng lúc. Hãy ghi nhớ trường hợp của thánh Giuse hôm nay để thấy được bàn tay Thiên Chúa quan phòng luôn sẵn sàng thi ơn giáng phúc.
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải biết yên lặng chờ đợi và trao phó mọi khó khăn oan trái cho Ngài phân xử, chứ đừng nóng lòng khi thấy kẻ dữ được sống thảnh thơi. Nhưng vấn đề là chung cuộc ai mới là người chiến thắng thật sự. Hãy can đảm yên lặng và chờ đợi ý Chúa và thời giờ của Chúa. Ý Chúa thì cao vời và Ngài có một chương trình tốt đẹp.
Tin rằng khi Thiên Chúa giải quyết thì sẽ không trí óc nào suy tưởng nổi. Cho nên nếu giờ đây gia đình chúng ta còn đang hoạn nạn hoặc người ngoài làm nhục thì bí quyết để thành công, đó là yên lặng trong đức tin, hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa. Đó cũng chính là bí quyết giúp chúng ta sống vui, sống mạnh giữa những đổ vỡ của đời mình.
Lạy thánh Giuse, là gương sự nhịn nhục, xin giúp đỡ chúng con.
41.Mộng báo
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Chuyện kể rằng: có một cô gái hàng ngày cầu nguyện đã nhiều năm qua, xin thánh Giuse tìm cho được tấm chồng tốt, nhưng chẳng kết quả gì. Cô bắt đầu cảm thấy thất vọng.
Một sáng Chúa nhật, sau khi đi lễ về, cô quì trước tượng thánh Giuse nài xin ngài ban cho điều cô khấn nguyện. Nhưng mười phút sau cô bỗng phát cáu vì thánh nhân không chịu đáp lời. Cô liền cầm tượng thánh Giuse ném ra ngoài cửa sổ. Tượng rơi trúng đầu anh thanh niên vừa đi ngang qua đó làm cho anh bị thương. Anh vội chạy đến gõ cửa xin cô giúp đỡ.
Cô gái rất ân hận thành thật xin lỗi anh và ao ước được chăm sóc vết thương cho anh. Họ trở nên đôi bạn thân thiết và sáu tháng sau đám cưới được tổ chức rất trọng thể.
Qua câu chuyện vui hi hữu trên đây, thánh Giuse đã giải quyết khá là ngoạn mục cho đôi tân hôn tưởng như không may lại hóa ra may mắn. Còn hôm nay, chuyện trăm năm của Ngài với Đức Mẹ phải tính sao đây? Thánh Kinh viết: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18). Đính hôn là thời kỳ hạnh phúc nhất, là lúc đôi bạn yêu nhau dệt nên bao giấc mộng vàng. Thế mà, giờ đây giấc mơ ấy, bỗng tan thành mây khói. Maria thục nữ 15 tuổi, đạo hạnh, kiều diễm lại có thai trước khi về nhà chồng. Thật là bối rối, khó xử.
Để rồi cuối cùng, Giuse cũng phải đi tới một quyết định “Đào vi thượng sách”: “Ông Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Bỏ mặc cho số phận một người vợ đang mang thai mà Thánh Kinh gọi là “người công chính” được sao? Có lẽ Đức Maria, hay nói đúng hơn là bà thánh Anna mẹ của Đức Maria đã tiết lộ nguồn gốc của thai nhi, chính là bởi tác động của Chúa Thánh Thần. Biết được ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa nơi Đức Maria nên Giuse rất mực tôn trọng chương trình của Người. Vì thế, ông đã quyết định âm thầm rút lui, không dám nhận “quyền làm cha” đứa trẻ. Giuse quả thật là “người công chính”.
Nhưng chính lúc Giuse khước từ “Đứa con theo xác thịt” thì ông lại nhận được “đứa con của lời hứa”. Cũng như tổ phụ Abraham hy sinh Isaac con trai mình, thì ông xem đứa con ấy như “của lễ” dâng cho Thiên Chúa. Chính vì dòng dõi vua Đavid mà Thiên Chúa đã muốn Giuse đổi ý để “đón Maria vợ ông về”, và “đặt tên cho con trẻ là Giêsu”. Theo ngôn ngữ Sêmit trong Kinh Thánh, việc đặt tên có nghĩa là “nhận lấy quyền làm cha pháp lý” cho đứa trẻ. Chính qua dòng họ Giuse mà Đức Giêsu mới trở nên “con vua Đavid, để hoàn tất mọi lời hứa của Thiên Chúa”. Kết thúc Tin Mừng hôm nay, Matthêu viết: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24). Khép lại những giấc mơ của Giuse, là mở ra một thế giới tình yêu mới. Dù biết tình yêu rồi cũng không thoát khỏi những gian nan vất vả.
Như Maria, Giuse cũng phải mò mẫn trong đêm tối của đức tin, đến miền ánh sáng của thiên ý. Và khi nhận ra chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa, mặc dù chưa hiểu hết sự việc, các ngài vẫn mau mắn đáp lời xin vâng, với trọn niềm kính tin và phó thác. Các ngài nhìn tất cả chỗ nào cũng là hồng ân.
Thật đáng mừng là trong thế giới thực dụng và hưởng thụ của chúng ta ngày nay, vẫn còn hàng trăm ngàn các bạn trẻ nam nữ, tuổi 16 – 30 từ Mỹ và Pháp tình nguyện gia nhập hội Ava với bản hợp đồng “không sinh hoạt tình dục trước ngày cưới”. Đó là một lối sống mới tích cực trong hiểm họa AIDS hiện nay.
Sau khi “cam kết”, các thành viên Ava sẽ đến các trường học, các nơi công cộng… để nói với các thanh niên khác về hậu quả tai hại từ việc quan hệ tình dục bừa bãi, tuyên truyền chống lại loại phim ảnh khiêu dâm, bạo lực và cả những nhóm nhạc có phong cách quá khích.
42.Đức Trinh Nữ Maria
Một khuôn mặt nổi bật trong những ngày cuối cùng của mùa vọng, đó là khuôn mặt của Đức Trinh Nữ Maria. Chúng ta có thể nói được rằng Mẹ là người đầu tiên được diễm phúc đón nhận Chúa. Tại sao thế? Vì tâm hồn Mẹ vô cùng trong trắng, không vướng mắc tội lỗi, đã trở thành chiếc nôi hồng ấm áp và tuyệt vời nhất cho Chúa ngự trị. Từ đó, chúng ta đi tới một kết luận: tội lỗi chính là chướng ngại vật ngăn cản không cho Chúa đến với chúng ta, cũng như không chúng chúng ta đến cùng Chúa.
Đúng thế, Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, còn tội lỗi thì xấu xa, nên không thể đội trời chung với nhau, trái lại luôn đối kháng nhau như trắng với đen, như lửa với nước, như ánh sáng với đêm tối. Giữa Thiên Chúa thánh thiện và tội lỗi xấu xa là cả một vực thẳm ngàn trùng ngăn cách, không thể có được một nhịp cầu cảm thông. Nơi nào có Thiên Chúa ngự trị, thì nơi đó phải quét sạch mọi bóng dáng của tội lỗi. Trái lại, nơi nào tội lỗi ngập tràn, thì chắc chắn sẽ không có được sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa. Chính vì thế, tâm hồn tội lỗi sẽ không thể nào đón nhận Chúa mỗi khi Ngài viếng thăm, bởi vì Ngài luôn ghét bỏ tội lỗi, dù rất mực yêu thương các tội nhân.
Thực vậy, tội lỗi là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa, người cha toàn năng và giàu lòng nhân ái. Từng giây và từng phút, chúng ta đã nhận được biết bao ơn lành của Ngài. Chẳng hạn nếu không có khí trời, thì chỉ trong dăm ba phút, chúng ta sẽ không thể nào sống được. Nếu không có cơm ăn và nước uống, thì chỉ trong dăm ba ngày, chúng ta cũng sẽ không thể nào tồn tại. Vì thế, tội lỗi chính là một sự vô ơn bạc nghĩa đối với Chúa. Khi phạm tội, chúng ta giống như chàng trai phung phá trong Phúc Âm, đã bỏ mặc ngoài tai những lời khuyên nhủ, những lời van xin của người cha.
Hơn thế nữa, tội lỗi còn là một sự phản bội lại tình thương của Chúa. Vì khi phạm tội, chúng ta đã dùng những ân huệ Ngài ban để chống lại Ngài. Chẳng hạn Chúa ban cho chúng ta cặp mắt là để chúng ta chiêm ngưỡng những kỳ công của Ngài mà lên tiếng ca tụng, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để nhìn vào những sự xấu xa, khả dĩ làm cho tâm hồn bị hoen ố.
Chúa ban cho chúng ta đôi bàn tay là để chúng ta lao động sản xuất, kiếm tìm chén cơm manh áo cũng như cộng tác với Ngài trong công cuộc sáng tạo, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để đánh đập người khác và thực hiện những hành động gian tham trộm cắp.
Chúa ban cho chúng ta một trái tim là để chúng ta kính mến Ngài và yêu thương anh em, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta lại dùng để chất chứa những hận thù ghen ghét.
Cũng vậy, chính vì tội lỗi chúng ta mà Chúa đã phải sinh ra nghèo túng nơi máng cỏ Bêlem và đã phải chết một cách tủi nhục trên thập giá Canvê. Bởi đó, mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta hò hét như dân Do Thái ngày xưa:
- Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào cây thập giá.
Mỗi khi phạm tội là một lần chúng ta giết Chúa, là một lần chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá. Đồng thời, mỗi tội chúng ta phạm là một lằn roi, là một gai nhọn, là một khạc nhổ chúng ta đổ xuống trên thân xác Chúa. Như thế, sống trong tội lỗi là chúng ta đã làm cho những khổ đau Chúa phải chịu và những giọt máu Chúa đã chảy ra trở nên vô ích.
Có một tên sát nhân âm mưu giết hại hoàng tử. Rất may hoàng tử chỉ bị thương nặng và được cứu sống. Hoàng tử đã xin vua cha tha tội chết cho tên sát nhân. Cảm động trước tấm lòng khoan dung ấy,, vua cha đã dẫn tên sát nhân tới gặp hoàng tử và hỏi hắn:
- Ngươi sẽ làm gì để đền đáp tấm lòng khoan dung tha thứ của hoàng tử?
Tên sát nhân không ngần ngại trả lời:
- Tôi sẽ tìm cách để giết chết hoàng tử một lần nữa.
Đức Kitô đã xuống thế và đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, thế nhưng khi phạm tội, chúng ta cũng nói như tên sát nhân:
- Tôi sẽ tìm cách để giết chết Ngài một lần nữa.
Sau cùng, tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ bẩn, không còn xứng đáng làm nơi cho Chúa cư ngụ. Trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục xức dầu dự tòng cho chúng ta và nói:
- Hời thần ô uế, hãy ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thiên Chúa ngự trị.
Thế nhưng, khi phạm tội, chúng ta nói ngược lại với những lời ấy:
- Hỡi Thiên Chúa, hãy ra khỏi tâm hồn tôi, để nhường chỗ cho ma quỉ và tội lỗi ngự trị.
Tội lỗi sẽ biến tâm hồn chúng ta trở thành một hang trộm cướp, nếu Chúa có ghé thăm, chắc chắn Ngài sẽ phải nổi nóng, rút dây lưng mà xua đuổi, như ngày xưa Ngài đã từng xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ Giêrusalem.
Vì thế, để đón mừng Chúa, để tìm gặp Chúa, cũng như để được Chúa ngự trị, điều kiện đầu tiên chúng ta phải có đó là một tâm hồn trong sạch. Muốn được như vậy, chúng ta phải ra sức chống trả những cám dỗ, xa tránh những dịp tội, là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta vấp ngã. Vì lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy, chơi dao có ngày đứt tay. Sống trong dịp tội mà không vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng.
Có khử trừ tội lỗi, thì tâm hồn chúng ta mới sẽ trở nên một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa ngự đến.
43.Công chính
Sách Điển Ngữ thần học Thánh Kinh xác định: “Theo trào lưu tư tưởng đầu tiên qua suốt toàn bộ Thánh Kinh, thì công chính là nhân đức luân lý mà chúng ta biết, được nới rộng để chỉ sự tuân giữ hoàn toàn các giới răn Thiên Chúa, nhưng đồng thời lại luôn được coi như một phẩm tính để đáng được công nghiệp trước mặt Thiên Chúa”.
Khi Matthêu gọi Giuse “là người công chính”, không chỉ vì Giuse tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhưng còn vì trái tim của Giuse tràn ngập lòng nhân từ, quảng đại và thương yêu đối với Maria: “không muốn tố giác bà”. Thánh Kinh gọi Giuse là người công chính, vì Giuse thánh thiện và vô tội nữa. Khi viên đại đội trưởng chứng kiến Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, đã nói: “Người này quả thật là công chính”. Công chính còn có nghĩa là thánh thiện và vô tội, Giuse đã có lòng kính sợ và thi hành thánh ý Thiên Chúa qua mọi hình thức mạc khải, dù là giấc mơ: “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như sứ thần Chúa dạy”. Vì thế Giuse đã được chọn để đặt tên cho Đức Giêsu, “Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi”. Một người có tội không thể nào đặt tên cho Đấng Cứu Thế được!
Quả vậy, bản tường thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu trong Phúc âm của thánh Matthêu đã tập trung vào vai trò của thánh Giuse hơn là của Đức Maria. Bởi Phúc âm của thánh Matthêu được viết cho những người Kitô hữu gốc Do Thái, Matthêu muốn chứng tỏ cho họ thấy rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã đến qua dòng dõi vua Đavid. Đấng đã được hứa ban và loan báo bởi các tiên tri trong Thánh Kinh. Giuse thuộc dòng dõi vua Đavid. Chính Giuse đã đặt tên cho con trẻ, đã dâng hiến cuộc đời mình và làm tất cả mọi sự cho con trẻ. Con trẻ là Con Thiên Chúa và con Đức Maria, nhưng qua việc đặt tên của Giuse, con vua Đavid.
Mỗi vị thánh đều có một ơn đặc sủng và một nét độc đáo. Đặc sủng ấy, nét độc đáo ấy nơi thánh Giuse là sự công chính.
44.Tĩnh tâm cùng sống niềm hy vọng
“Lạy Chúa, con đã để cho mình bị lừa dối; bằng ngàn cách con đã chạy trốn tình yêu Chúa, ..."
“Lạy Chúa,
con đã để cho mình bị lừa dối;
bằng ngàn cách con đã chạy trốn tình yêu Chúa,
nhưng con đang ở đây một lần nữa
để lập lại giao ước của con với Chúa.
Con cần Chúa.
Xin Chúa chuộc con lại một lần nữa.
Lạy Chúa,
xin một lần nữa đón nhận con
trong vòng tay cứu độ của Chúa”
(Trích từ Niềm vui Tin Mừng số 03).
BẢY BƯỚC CẦU NGUYỆN
(15 phút mỗi buổi sáng, và 15 phút trước khi nghỉ đêm).
Buổi sáng
1. Mở đầu với Kinh Sáng Soi: Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen.
2. Thinh lặng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần.
3. Đọc chậm rãi lời của Đức Thánh Cha và lời gợi ý.
4. Thinh lặng suy niệm và rút ra một lời một ý tưởng để sống trong ngày. Tâm sự với Chúa để kết thúc phần suy niệm buổi sáng.
Buổi tối.
1. Cuối ngày trước khi đi ngủ dành 10 phút để nhìn lại: Bài cầu nguyện hôm nay đã đi với tôi và đã giúp tôi như thế nào? Tôi có khó khăn gì trong cầu nguyện? Có thể tôi chưa thấy bài cầu nguyện giúp tôi trong ngày sống. Nếu vậy thì tại sao? Tôi có chú tâm và ý thức đủ để “dành một chỗ” cho bài cầu nguyện ở trong lòng tôi và trong ngày sống của tôi chưa?
2. Viết lại một vài hàng (tối đa nửa trang A4) về hoa quả mà tôi nhận được trong ngày sống cầu nguyện hôm nay.
3. Cám Ơn Chúa về những hồng ân trong ngày, và xin Chúa thứ lỗi về những yếu đuối. Xin Chúa ban thêm sức mạnh và bình an để nghỉ đêm và bắt đầu ngày sống mới.
Chúa nhật thứ III Mùa Vọng năm A
Lời của Đức Thánh Cha Phanxico:
Lúc khởi đầu Mẹ Maria chưa biết con đường của Mẹ sẽ dẫn tới đâu, và Mẹ sẽ phải chịu những đau khổ nào, cũng như những nguy hiểm gì mà Mẹ sẽ đối diện. Nhưng Mẹ luôn ý thức rằng, chính Thiên Chúa là người nhìn đến Mẹ, và Mẹ thật sự tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Mẹ hiện diện hoàn toàn trong tình yêu của Thiên Chúa.
Mẹ Maria thực sự có một niềm tin mạnh mẽ. Mẹ dạy dỗ chúng ta biết nhận ra khoảnh khắc mà Chúa Giêsu đến trong lòng của chúng ta và Ngài xin chúng ta một câu trả lời thành tâm và quảng đại.
Lời gợi ý:
- Theo tâm tình của Đức Thánh Cha, Mẹ Maria bước đi trên con đường theo Chúa với niềm tin tưởng mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Nhìn lại bản thân, bạn thấy niềm tin của bạn mạnh mẽ như thế nào? Trong những sự kiện hay biến cố tế nhị trong cuộc đời, bạn đã tin tưởng và phó thác cho Chúa ra sao?
- “Mẹ dạy dỗ chúng ta biết nhận ra khoảnh khắc mà Chúa Giêsu đến trong lòng của chúng ta và Ngài xin chúng ta một câu trả lời thành tâm và quảng đại”. Đọc đi đọc lại lời này, suy xét xem bạn nên trả lời Chúa Giêsu như thế nào, khi Ngài nhẹ nhàng đi vào cuộc đời và tâm hồn bạn?
- “Alleluia, alleluia! – Này đây trinh nữ sẽ mang thai, hạ sinh một con trai, và người ta sẽ gọi tên Người là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta. – Alleluia”. Bạn hãy để lời ca ngợi – Alleluia này đi với bạn trong ngày sống. Lâu lâu bạn dừng bước và nhủ thầm với chính bạn rằng: “Thiên Chúa ở cùng tôi – Emmanuel”.
Bài tập trong tuần (05 phút): ĐỂ TÂM LẮNG NGHE.
Ngồi lại trong thinh lặng. Chú ý đến hơi thở của bạn cách đều đặn. Từ từ bạn hãy chú ý lắng nghe. Trước hết bạn hãy để những âm thanh gần nhất đến với bạn. Hãy nghe những âm thanh đó, đừng vội xác định chúng là âm thành gì. Sau đó, lắng nghe các âm thanh xa hơn. Cuối cùng bạn để tất cả mọi âm thanh xung quạnh bạn được phép “nhảy múa” cách sống động trong đôi tai và trái tim của bạn. Mỗi ngày bạn có thể đổi một nơi chốn khác để tập bài này.
(dongten.net)
45.Phúc thay Chúa ở cùng
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Ngôi nhà thờ đương đầu rất giỏi và gió chỉ làm bung một mảng tường nhỏ mới vá sau bàn thờ chính. Bất tiện quá! Lễ Giáng Sinh gần kề làm sao bít kịp cái lỗ hổng đó? Không khéo nó lại lôi cuốn sự chú ý của người dự lễ hơn là cái hang đá. Cha xứ nảy ra sáng kiến đi ra cửa hàng tạp hóa của một hội đoàn giới trẻ. Người bán hàng đưa ra một bức thảm dệt tay kim tuyến, lấp lánh chen với ngà, chung quanh viền ren Bỉ. Chiếc thảm này trước kia được phủ trên một cái bàn trong cung điện cao sang, nhưng ở cái xó vùng sâu xa này, có ai thưởng thức được cái nghệ thuật quí giá đó? Vì thế giá rẻ mạt. Ừ, sao lại không mua bức thảm này che vào cái lổ hổng đó? Ngài mua liền.
Ý kiến thế mà hay: Bức thảm làm nhà thờ nổi bật lên! Sáng sớm ngày áp lễ, cha xứ đến nhà thờ, ở chỗ chờ xe bus, ngài gặp một bà đang đứng đợi xe trong gió lạnh, ngài bảo:
- Bà vào nhà thờ ngồi cho đỡ lạnh, còn 45 phút nữa xe mới qua đây.
Bà ta vào nhà thờ quì gối đọc kinh, mắt bà bỗng mở to ra, bà chạy lên gần ngắm nhìn, sờ sờ tấm thảm và thốt lên:
- Thưa cha, bức thảm này đúng là của chúng con. Chồng con mua nó ở thủ đô nước Bỉ. Cha coi, đây chính là ký hiệu của chúng con.
Bà kể cho cha nghe tấm thảm kịch của gia đình. Vợ chồng bà sống tại nước Áo, khi quốc xã Đức tràn tới, họ bỏ chạy. Họ định trốn sang Thụy Sỹ, là phụ nữ, bà quá cảnh dễ dàng, còn chồng bà bị bắt lại, bà cho rằng ông đã chết trong trại tập trung rồi. Cha xứ ngỏ ý muốn trao lại tấm thảm nhưng bà từ chối:
- Thưa cha bức thảm để ở đây tốt hơn trong túp lều của con. Con vui lòng chịu đựng cảnh khốn quẫn. Con đi xin việc coi sóc nhà cửa, nhưng người ta từ chối vì lý do con đã già!
Thánh lễ đêm Giáng Sinh, mọi người dự lễ đều ngắm nhìn gian cung thánh được trang trí lộng lẫy, những ánh nến càng tôn vẻ lấp lánh của bức thảm. Lễ xong một ông đến xin gặp cha xứ, ông là chủ một hiệu kim hoàn. Ông nói:
- Thưa cha, thực là lạ quá! Bức thảm này đúng là của chúng con trước kia. Khi chúng con sống ở Viên, thủ đô Áo Quốc, cứ mỗi lần mời Đức Cha đến dùng bữa, nhà con lại đem tấm thảm này ra trải bàn. Cha xứ kể lại cho ông sự việc xảy ra sáng nay. Ông hồi hộp xin cha:
- Cha có thể tả cho con vóc dáng của bà ấy được không? Có lẽ nào lại chính là nàng? Không lẽ nàng còn sống?
Ông xin cha hướng dẫn để theo dõi vết tích người đàn bà nghèo khổ đó. Quả đúng là bà vợ của ông ta. Chiều ngày lễ Giáng Sinh hai vợ chồng được đoàn tụ sau bao năm dài xa cách. Một phép lạ của Tình Yêu Con Thiên Chúa. (Internet)
Đấng Thiên Chúa Ở Cùng đem đến nhân loại tình yêu, giao hoà và bình an sáng ngời trong đêm đen chia rẽ, hãi hùng, hận thù. Tin Mừng Chúa nhật 4 Mùa Vọng hôm nay trình thuật sứ thần truyền tin cho Giuse rằng, Mẹ Maria đã thụ thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, như ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ 8 thế kỷ:"Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta."(Is 7, 14)
Tình yêu
“Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4, 16) Thánh Giuse từng phân vân, lúng túng, nghĩ ngợi, trước sự kiện Mẹ Maria mang thai, đã kiên quyết vượt lên chính mình, khi nghe sứ thần báo mộng. Một cách diễn tả sự bén nhạy thấu hiểu Thánh Ý Chúa qua các dấu chỉ. Đấng Emmanuel đã ban tràn đầy cho Giuse tình yêu dâng hiến, lòng khoan dung và hy sinh, để ngài sẵn sàng chấp nhận sứ vụ cao cả, làm cha nuôi nhiều chông gai, đau khổ.
Chỉ có Tình Yêu thật sự mới có thể mạnh mẽ hậu thuẫn cho Giuse quyết định, dấn thân phục vụ công trình cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ có Tình Yêu mới có thể hoá giải Luật lệ, cũng như xung đột ý riêng với Thánh Ý, để Giuse hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa và kiên trì hoàn hành. Chỉ có Tình Yêu mới giúp Giuse thấu hiểu kỳ công của Thiên Chúa, cũng như dẫn dắt đến niềm tin vững mạnh.
Giao hoà
“Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” Qua lời sứ thần truyền tin, Đấng Emmanuel đến xua tan nghi ngờ, xoá sạch ngộ nhận, kết hiệp thánh cả Giuse với Mẹ Maria, trở thành Thánh Gia Thất ấm áp, yên vui, hạnh phúc, gương mẫu, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia. “Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non.” (Is 11, 1)
Trời đất giao hoà. Đấng Emmanuel nhập thể, bày tỏ Tình Yêu vĩ đại, gánh lấy tội lỗi nhân loại, san phẳng, lấp hố sâu tội lỗi ngăn cách, hầu giao hoà Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau, vốn thường mâu thuẫn, mê muội, đắm chìm trong bùn nhơ dục vọng. Người tìm kiếm từng con chiên lạc trở về với đàn.
Bình an
“Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình.” Đấng Emmanuel an ủi, khích lệ Giuse an tâm, vâng theo Thánh Ý, tích cực dấn thân, cộng tác và phục vụ công trình cứu độ, cũng như làm rạng danh Thiên Chúa Tình Yêu.
Liên tiếp bốn lần, sứ thần đều trấn an mọi người “đừng sợ.” Với Thầy Tư Tế: “Giacaria, đừng sợ! Vì Thiên Chúa đã nhậm lời ông cầu xin.” (Lc 1, 13) Với Mẹ: “Maria, đừng sợ! Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.” (Lc 1, 30). Với mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại.” (Lc 2, 10) Và hôm nay với Giuse: "Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng sợ nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần.” (Mt 1, 20)
Đấng Thiên Chúa Ở Cùng đã giao hoà trời đất, và con người, đem bình an đến nhân loại, như thiên thần hân hoan đàn hát vang lừng bên hang đá Bê lem: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2, 14) Còn niềm vui nào cao sang, tuyệt vời, vĩ đại, hơn mầu nhiệm Đấng Chúa Ở Cùng giáng trần.
“Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Chúa là Cha, ở bên con, với tất cả quyền năng và tình yêu. Cha năn nỉ, Cha khuyên bảo, mời gọi, trách móc, tha thứ và luôn luôn yêu thương.” (Đường Hy Vọng, số 234)
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Chúa Ở Cùng, xin giải thoát chúng con khỏi chốn ngục tù tăm tối tội lỗi, khỏi cám dỗ thế gian phù vân, để chúng con được sống trong Tình Yêu viên mãn, hiệp nhất và bình an.
Kính xin Mẹ dẫn dắt chúng con theo Mẹ, cầu bầu chúng con năng ăn năn, sám hối, đổi mới, trở về Gia Đình Thánh, tràn đầy hạnh phúc cùng Chúa, với Chúa và trong Chúa. Amen.
46.Tiếng gọi tình yêu
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Câu chuyện kỳ lạ của sĩ quan Onoda tại các rừng rậm Philippines bắt đầu ngày 17.12.1944, khi mà chỉ huy của anh ta là thiếu tá Taniguchi, hạ lệnh cho người thuộc cấp 22 tuổi Onoda, cùng một số chiến binh khác, tiến hành chiến tranh du kích chống lại quân Mỹ tại Lubang. Taniguchi nói: “Chúng ta chỉ tạm thời rút lui. Các anh hãy vào rừng, làm lều, chuẩn bị kho vũ khí… Tôi cấm các anh tự tử hoặc đầu hàng. Có thể phải ẩn náu 3 năm, 4 năm hay 5 năm, nhưng tôi sẽ quay lại với các anh. Lệnh này chỉ có tôi mới được quyền thay đổi”.
Năm này nối tiếp năm khác. Onoda chiến đấu trong rừng rậm. Onoda lấy nước suối đun sôi để dùng, ăn hoa qủa và trong suốt ngần ấy năm trời chiến binh“Samurai cuối cùng” chỉ một lần duy nhất bị viêm họng. Ngay cả sau này, có những lúc Onoda hoang mang khi nghĩ rằng quân đội Nhật đã bỏ rơi họ, thì anh ta cũng không có ý định đầu hàng. Có một lần Onoda định tự tử, nhưng ngay lập tức từ bỏ ý nghĩ này vì thiếu tá Taniguchi đã ra lệnh không được làm như thế.
Vào tháng 10.1972, Onoda và người đồng đội đặt trái mìn cuối cùng trên đường gần làng Imora để phục kích quân Philippines. Trái mìn không nổ, nên họ giao tranh với quân Philippines. Người bạn bị bắn chết, còn Onoda thì bỏ chạy vào rừng sâu. Cái chết của một lính Nhật sau 27 năm khi nước này đầu hàng, đã gây chấn động cả xứ sở Phù Tang. Gần 30 năm các đội biệt động thiện chiến không phát hiện ra Hiro Onoda. Thế nhưng cuối cùng một khách du lịch Nhật tên là Suzuki, khi đi sưu tập bướm trong rừng, đã tình cờ “đụng” Onoda. Người này khẳng định với “samurai cuối cùng” là nước Nhật đã đầu hàng, chiến tranh đã kết thúc từ lâu. Onoda ngẫm nghĩ, trả lời: “Tôi không tin. Thiếu tá Taniguchi chưa thay đổi mệnh lệnh thì tôi vẫn tiếp tục chiến đấu”.
Quay trở về Nhật Bản, Suzuki tìm mọi cách để tìm thiếu tá Taniguchi, và rất khó khăn mới tìm được ông ta. Người lãnh đạo của “Samurai cuối cùng” thay tên đổi họ và trở thành nhà kinh doanh điện ảnh. Họ cùng nhau đến khu rừng Lubang, tìm đến nơi Onoda ẩn náu. Khi ấy Taniguchi mặc quân phục và ra mệnh lệnh Onoda phải ra đầu hàng. “Samurai cuối cùng” vác súng trường trên vai và đến đồn cảnh sát đầu hàng vào buổi sáng ngày 10.3.1974.
Tương tự như chuyện Onanda, Samurai cuối cùng, trung kiên, một lòng một dạ, chấp hành duy nhất mệnh lệnh của thiếu tá Taniguchi mà thôi, trích thuật Tin Mừng hôm nay giới thiệu Thánh Giuse, vị cha nuôi đáng kính của Đức Giêsu. Ngài đã toàn tâm vâng phục Thánh Ý Chúa chấp nhận vai trò nghĩa phụ của Chúa Cứu Thế, vâng theo Tiếng Gọi Tình Yêu.
Tiếng gọi
Thánh Giuse thật thầm lặng trong Tin Mừng, cũng như sống trong đời thực. Ngài thật hào hiệp, khoan dung quảng đại, và vô cùng khiêm nhường. Hơn nữa, Thánh sử Mat thêu còn vinh danh ngài “là người công chính.” Ngàiđã thực sự tỏ ra bối rối trước việc Đức Mẹ thụ thai. Nhưng vì chân thật tin yêu Mẹ Maria, rất đoan trang và đạo hạnh, ngài không mảy may nghi ngờ, chẳng phản ứng bộp chộp, nông cạn, cũng không một lời than thở, trách móc. Ngài chọn phương án thầm kín bỏ đi, để êm thắm cho cả hai.
Nhưng sứ thần Thiên Chúa đã đến báo cho ngài trong giấc ngủ: “Này ông Giuse, con cháu Đa vít, đừng ngại đón bà Maria, vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”(Mt 1, 20-21)
Thánh nhân dạt dào lòng tin, cậy, mến, đã nhận được Thánh Ý Chúa tỏ tường, chính xác, minh bạch. Bây giờ, tôi cũng mong được sứ thần trực tiếp loan báo sứ vụ, nhưng tôi lại chểnh mảng, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và tha nhân, lại kiêu căng, tự cao tự đại, nhất là non kém, thờ ơ, thiếu sót các nhân đức. Thì làm sao tôi lắng nghe được tiếng Chúa, hiểu được Thánh ý Chúa? May mắn thay, ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã khẳng định:“Bổn phận là ý Chúa trong giây phút hiện tại.” (Đường Hy Vọng, số 17)
Xin Vâng
“Khi tỉnh giấc, ông Giuse đã làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà.” (Mt 1, 24) Lắng nghe được Lời Chúa phán bảo, Thánh Giuse liền vui vẻ “Xin Vâng”, quyết tâm thực hành Thánh Ý, tương tự như Mẹ Maria, ngay sau khi được sứ thần truyền tin. Không chần chừ, chậm trễ, suy tính, cân nhắc hơn thiệt, ngài dấn thân ngay vào sứ vụ nghĩa phụ của Đấng Cứu Thế.
Chẳng ngần ngại vất vả, gian khó, ngài hồi hương cùng Mẹ Maria từ Nazaret về Bêlem, sinh hạ Hài Nhi Giêsu trong cảnh bần cùng. Cấp tốc đem Hài Nhi và Mẹ Maria chạy trốn, lánh nạn sang Ai Cập, khỏi bàn tay khát máu của Hêrôđê. Rồi lại khăn gói quả mướp tái định cư về Nazaret, khi nhà vua đã băng hà. Ngài luôn lắng nghe và vâng theo hướng dẫn của sứ thần đường đi nẻo bước, để tận tụy, nâng niu chăm sóc và bảo vệ Thánh Gia.
Ngoài bổn phận hằng ngày, tôi còn nhận được bao dấu chỉ Thánh Ý Chúa qua sự kiện, tin tức, xã hội, nhất là qua Lời Chúa. Nhưng tôi lại hay bịt tai, nhắm mắt, đóng kín cả tâm hồn, hoặc u mê, mải miết bươn chải mưu sinh, hay hưởng lạc bê tha, làm sao tôi nghe thấy, nhìn thấy, tìm và hiểu được Thánh Ý Chúa trong cuộc sống?
Hơn nữa, tôi có can đảm “Xin Vâng,“ hay lặng lẽ, âm thầm từ chối sứ vụ khó khăn, vất vả, cay cực, đau khổ như Thánh Gia đã trung kiên đón nhận.
“Vâng lời trọng hơn của lễ,” vì của lễ là hoa quả, hương trầm, súc vật, tiền bạc,…Khi vâng lời, con lấy chính mình con làm của lễ, giết chết ý riêng con, tự ái của con làm của lễ toàn thiêu. (Đường Hy Vọng, số 406)
Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con Niềm Tin vững vàng, dạy chúng con cầu nguyện sốt sắng, luôn sống mật thiết với Chúa, để có thể lắng nghe tiếng gọi tình yêu của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin luôn giúp đỡ, nhắc nhủ, khuyến khích chúng con thưa lời “Xin Vâng” trước tất cả biến cố Chúa gửi đến trong đời, để lãnh nhận hồng phước ngay đời này lẫn đời sau. Amen.
47.Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Giáo hội mời chúng ta nhìn vai trò của Đức Mẹ và thánh Giuse trong giai đoạn đầu của việc Thiên Chúa đến trong trần gian. Chúng ta nhìn thấy những sự kiện sau đây:
Thứ nhất: Maria thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần.
Thứ hai: Giuse không hiểu, định tâm bỏ Maria, không rước Maria về nhà.
Thứ ba: sự can thiệp của thiên thần Chúa.
Thứ bốn: Giuse vâng phục.
Thánh Giuse và Mẹ Maria đã gặp những hoàn cảnh như nhau: họ đã chạm trán với mầu nhiệm của Thiên Chúa, chạm trán với những biến cố bất ngờ mà không thể giải thích theo sự khôn ngoan của loài người.
Maria đã được thiên thần báo cho biết nàng sẽ thụ thai và sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Thoạt đầu Maria không hiểu và không biết phải làm thế nào, nhưng sau khi đã hiểu, nàng vâng phục. Mặc dù đã nói tiếng “xin vâng”, nhưng Maria không thể nào hiểu được tương lai sẽ như thế nào. Nàng chỉ tin vào Chúa và phó thác.
Giuse cũng thế. Chàng cưới Maria đúng theo thủ tục thời bấy giờ. Chàng yêu Maria thành thật. Nhưng đau khổ cho Giuse biết bao khi gần đến ngày cưới, chàng đã khám phá ra rằng người con gái chàng quí yêu và kính phục đã mang thai mà không do chàng. Đau khổ và tức tối. Làm gì bây giờ? Tố cáo nàng để nàng bị đem ra ném đá? Chàng không thể làm như thế. Thánh Matthêu ghi lại: “Giuse là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”.
Người công chính theo nghĩa Do Thái là một người đạo đức chân chính. Chàng âm thầm đau khổ và âm thầm bỏ xứ. Nhưng trong một giấc mơ, thiên thần Chúa đã đến giải thích cho chàng biết, Maria thụ thai không do con người mà do quyền phép Chúa Thánh Thần. Thiên thần cũng giao sứ mệnh cho ông: “Hãy rước Maria về nhà và sau này đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì đó là Con Đấng Tối Cao”. Giuse vâng phục. Trong giây phút ấy, Maria đã trở thành thần tượng trước mắt chàng.
Cả hai đấng Maria và Giuse đã chạm trán với mầu nhiệm, với Đấng Quyền Năng. Họ phải vượt qua những khó khăn đau khổ, và sau cùng tìm thấy bình an trong vâng phục. Cả hai đấng đã trở nên dụng cụ tuyệt hảo của ơn cứu chuộc. Nhờ sự vâng phục tuyệt hảo và khiêm tốn của hai đấng, Chúa đã làm “những điều kỳ diệu” cho nhân loại.
Trong cuộc sống, bao nhiêu lần chúng ta cũng chạm trán với mầu nhiệm, mầu nhiệm đau khổ, mầu nhiệm của sự ác, những thất bại, những oan ức mà không thể hiểu, chúng ta như thế nào? Chúng ta lồng lộn, đổ lỗi cho Chúa và dẫy dụa trong những câu hỏi “tại sao”. Đôi khi lại thất vọng. Chúng ta quên rằng, chúng ta đã chạm vào bàn tay của Đấng Vô Hình. Ngài cho chúng ta đi ngang qua những thử thách cam go như thế để hướng chúng ta về những gì cao cả hơn là những chuyện vặt vãnh của cuộc sống này. Chúng ta đủ nhẫn nại và thành tâm tìm hiểu ý Chúa không? Nếu chúng ta không có câu trả lời, hãy đến với Chúa Giêsu. Một vài phút im lặng với Chúa sẽ giúp chúng ta bình yên. Đừng sợ, đừng nóng lòng. Chúa có thì giờ để giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, Ngài đến để cứu vớt chứ không để sát phạt. Nhiều lúc Chúa để chúng ta chờ đợi lâu ngày mới cho chúng ta hiểu Chúa muốn gì. Chúng ta cần hiểu rằng mỗi biến cố xảy ra trong đời sống chúng ta là một tiếng nói của Chúa. Chúng ta hãy vững tin và phó thác như Mẹ Maria và thánh Giuse. Các ngài cũng như chúng ta thôi, nhưng các ngài đã vâng phục trọn hảo. Vâng phục và tin tưởng chính là lối đi chúng ta phải theo, và chính Chúa sẽ nâng đỡ.
Khi chúng ta không hiểu, hãy cứ tin vì chúng ta biết chắc rằng Chúa luôn có mặt trong cuộc sống và “một sợi tóc trên đầu chúng ta, Ngài đã đếm rồi”.
Chúa xem như vẫn cần đến chúng ta. Đó là điều mà chúng ta không thể hiểu hay không bao giờ nghĩ đến: “Chúa cần đến tôi sao? Chúa phép tắc vô cùng, Ngài cần gì đến tôi? Tôi chỉ là một người nhỏ bé hèn mọn…” Bao nhiêu lý do để từ chối, để thối thoát. Chúng ta cần biết rằng, Chúa cần đến mỗi người chúng ta như đã cần đến Maria và Giuse. Trước mặt Chúa, chúng ta, linh mục hay giáo dân, mọi người đều có giá trị. Đối với xã hội văn minh vật chất hôm nay, con người chỉ là con số, nhưng trước mặt Chúa, chúng ta là con với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Chúng ta vẫn là những người nhỏ bé, tội lỗi, nhưng càng nhỏ bé, càng dốt nát, chúng ta càng hữu hiệu trong tay Chúa. Maria đã sống nhỏ hèn và khiêm tốn. Giuse đã im lặng trong sự hèn hạ của mình. Chúa đã dùng hai đấng mang ơn cứu chuộc cho con người.
Trong lịch sử dân Chúa, Chúa đã chọn những người hèn kém nhất. Môsê chỉ là một người chăn chiên và ngọng nghịu. Đavít là một chàng chăn chiên và quê mùa. Các tông đồ là những người chài lưới dốt nát… Với những người như thế, Chúa đã làm những công việc vĩ đại, vì chính Ngài dùng họ chứ không chỉ do tài sức của bọ đâu! Chính Ngài đã nói: “Lạy Cha, con chúc tụng Cha vì đã không mạc khải (Nước Trời) cho những người khôn ngoan, mà chỉ cho những người hèn mọn”.
Mỗi người chúng ta đều chịu trách nhiệm về Nước Trời trong trần gian này. Mỗi người chúng ta phải mang Chúa trong lòng như Đức Mẹ, nuôi dưỡng Ngài như thánh Giuse và nhờ đó Chúa Giêsu sẽ lớn lên trong thế giới và Nước Cha sẽ đến và ở giữa chúng ta như Chúa Giêsu là Emmanuen nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Chúng ta nại lý do hèn kém nhỏ nhoi để khoanh tay ngồi chờ, không làm gì cho Nước Chúa, như thế Nước Cha trị đến thế nào được?
Nếu mỗi người Công giáo đều trở nên một bàn tay xây dựng Nước Chúa thì thế gian đã không đến nỗi tệ như hôm nay. Chúng ta không có quyền ngồi yên nhìn các linh hồn hư mất, nhìn ma quỉ toàn thắng trong khắp các lãnh vực, nhìn Thiên Chúa bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người…
Phải làm gì?
Nếu chúng ta chú tâm và nhiệt thành, Chúa sẽ chỉ cho chúng ta biết phải làm gì.
Chúng ta hèn kém chăng? Hãy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ đến nơi bàn thờ này như đã đến trong máng cỏ Bêlem xưa. Ngài đang kêu mời chúng ta vào cuộc hiến tế với Ngài, dâng hiến tất cả cuộc đời lao nhọc vui buồn của chúng ta cho Ngài, cùng với Ngài cứu vớt các linh hồn. Ngài muốn chúng ta ăn lấy Ngài là để sống với chúng ta, yêu thương chúng ta, và cùng với chúng ta cứu vớt anh em chúng ta. Hãy chấp nhận vâng phục như Mẹ Maria và thánh Giuse, cuộc sống chúng ta sẽ trở thành nguồn phúc cho chúng ta và mọi người. Chúng ta nhỏ bé thật nhưng không phải chúng ta làm được gì mà chính Chúa sẽ hoạt động qua sự nhỏ hèn của chúng ta. Chỉ cần thiện chí và tin cậy.
48.Ý Chúa
Tiên tri Isaia, thánh Gioan tẩy giả, Mẹ Maria và thánh Giuse là những người có một vai trò quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nhưng nếu ông Isaia là vị tiên tri hùng hồn nhất của mùa vọng, nếu ông Gioan là vị tiền hô anh dũng nhất của mùa vọng, nếu Đức Maria là một thiếu nữ có lòng tin vững chắc và mạo hiểm nhất của mùa vọng thì thánh Giuse lại là một thanh niên thầm lặng nhất của mùa vọng. Người bạn gái của thánh Giuse đã quả cảm thưa lên lời Xin Vâng khi nhận ra thánh ý của Thiên Chúa. Thánh Giuse, dù không thưa lời nào, nhưng đã thi hành triệt để và tức khắc những điều Chúa truyền, dù những lệnh truyền ấy chỉ được ban trong giấc mơ, dù những lệnh truyền ấy trái ngược với những tính toán của người. Người đã cúi đầu vâng phục, không một lời căn vặn, không thắc mắc, không đặt điều kiện. Người hoàn toàn chấp nhận ý Chúa, chấp nhận cả những hệ lụy đắng cay mà ý Chúa đem lại.
. Người chấp nhận đón cô bạn Maria về nhà làm bạn mình, dù người đang định tâm lìa bỏ cô bạn ấy một cách kín đáo.
. Người đã chấp nhận rời bỏ quê hương ra đi lánh nạn để bảo vệ Hài nhi con của cô bạn Maria.
. Rồi cũng vì Hài nhi ấy, người lại lặn lội đường xa vạn dặm để đưa cô bạn và Hài nhi trở về quê hương…
Biết bao là nhọc nhằn. Biết bao nhiêu truân chuyên mà anh gia trưởng trẻ này phải chịu đựng để thánh ý Chúa được nên tròn và để kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện như lời Tin mừng đã viết:”Tất cả những sự việc này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ”.
Thiên Chúa vẫn luôn bày tỏ thánh ý Người qua những biến cố trong đời sống của chúng ta. Và thánh ý đó nhiều khi cũng phá vỡ những dự tính, những chương trình của chúng ta để đưa chúng ta vào kế hoạch của Người, kế hoạch mà chẳng ai hiểu được nó sẽ dẫn mình đi đến đâu. Muốn đón nhận thánh ý và kế hoạch của Thiên Chúa, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ ý riêng mình, phải vượt qua những tính toán nhân loại của mình để bước vào một tương lai mà chúng ta chẳng biết sẽ ra sao. Cũng có những lúc chúng ta nghĩ rằng mình sẵn sàng đón nhận ý Chúa, nhưng khi Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta qua những biến cố mang hình thức của một tai ương thì chúng ta lại tìm cách né tránh.
Thánh Giuse không khi nào phản ứng như chúng ta. Người đã chấp nhận để cho Thiên Chúa đảo lộn kế hoạch của người và người sẵn sàng buông mình theo sự dẫn dắt của Thiên Chúa. Chính như thế đó mà người trở thành một gương sáng cho chúng ta. Thái độ tín thác và vâng phục của người cũng giúp chúng ta chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng sinh một cách có ý nghĩa hơn. Chúng ta không chỉ vui mừng vì con Thiên Chúa giáng sinh làm người và ở giữa chúng ta. Nhưng chúng ta cũng cần phải vui mừng vì chính con Thiên Chúa đã và đang can thiệp vào cuộc đời của từng người. Người ngỏ lời và mời gọi mỗi người qua từng biến cố của đời sống dù đó là biến cố vui mừng hay đó là một tai họa đè bẹp cuộc đời ta.
Quả thực, chúng ta rất dễ dàng thưa xin vâng trước thánh ý Thiên Chúa, nếu như thánh ý đó mang lại lợi lộc và niềm vui cho chúng ta. Trái lại, quả là điều khó khi phải chấp nhận thánh ý Thiên Chúa, nếu thánh ý đó gây ra những phiền lụy và thua thiệt cho cuộc đời. Nhưng nếu vâng phục ý Chúa mà đòi phải được vinh quang và lợi lộc thì đó không phải là sự vâng phục chân thành.
49.Công chính
Qua phần chia sẻ hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thánh cả Giuse.
Trước hết thánh cả là người tin tưởng nơi cha mẹ và truyền thống. Tin mừng giúp chúng ta hiểu sự liên hệ giữa thánh Giuse và Đức Maria trước khi Chúa Giêsu sinh ra. Theo phong tục Do Thái, đám cưới gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là sự cam kết. Sự cam kết được thực hiện bởi cha mẹ hai bên hay bởi ông bà mai mối. Thường thường cả hai người bạn trẻ đã không biết nhau trước khi cam kết. Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Thời gian này kéo dài cả năm để cho đôi trai gái có cơ hội quen biết nhau. Sau khi hứa hôn họ được coi như vợ chồng, mặc dù không được sống chung với nhau. Nhưng nếu không muốn tiến tới hôn nhân nữa, họ phải xin ly dị. Giai đoạn thứ ba là đám cưới: xảy ra vào cuối năm của giai đoạn hứa hôn. Chính trong giai đoạn thứ hai của đám cưới Do Thái, Giuse biết Maria đã có thai như bài Phúc âm hôm nay tường thuật.
Tiếp đến, thánh cả Giuse là người tin tưởng bạn mình, Maria. Trong thời gian hứa hôn, nếu người vợ ngoại tình và bị tố cáo, sẽ bị xử tội “ném đá”. Sự kiện Maria đã có thai làm Giuse phải đau khổ, bối rối, nghi ngờ và khó xử lắm! Nhưng với tình yêu, sự khoan dung và lòng nhân từ Giuse “không muốn tố giác bà”, nhưng chỉ “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Trong hoàn cảnh khó khăn này, chính tình yêu đã hòa giải sự đối nghịch giữa luật lệ và con người để khám phá ra sự quan phòng của Thiên Chúa. Tình yêu đã dẫn tới niềm tin.
Maria đã xác tín rằng, mặc dù nàng đồng trinh, nàng “đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần” như lời thiên thần đã loan báo. Khi được sứ thần báo trong giấc mơ phù hợp với điều bạn mình đã nói, Giuse liền tin tưởng vào tấm lòng thành thật của Maria và “nhận Maria về nhà làm vợ mình”. Họ đã thành thật tin tưởng nhau.
Một trong những điều sợ hãi và kinh khủng nhất của con người là phải sống trong nghi ngờ và đố kỵ. Đó là hỏa ngục trần gian. Và một trong những khó khăn nhất của cuộc sống ở mọi thời đại là sự tin tưởng lẫn nhau.
Sau cùng, thánh cả Giuse là người tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người Do Thái quan niệm Chúa Thánh Thần là người mang sự thật đến cho con người. Chúa Thánh Thần đã dạy cho các tiên tri trong Cựu Ước phải nói gì và làm gì. Và cũng chính Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn con người nhìn nhận ra sự thật khi gặp thấy. Bởi Giuse là người công chính, nên đã được Chúa Thánh Thần mang sự thật đến. Ông đã nhận ra sự thật và tin tưởng vào sự thật được mạc khải đó, cho dù cách thức mạc khải chỉ là trong giấc mơ.
Một câu ngạn ngữ của người Nigeria nói rằng, “Hãy lắng nghe, và bạn sẽ nghe được những bước chân của các con kiến”. Chúng ta cũng được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa đến trong cuộc đời qua những cách thức không ngờ tới. Chính ở nơi Chúa Thánh Thần, chúng ta đón nhận được sự thật: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu”.
Chúng ta ca tụng thánh Giuse là “Đấng công chính” đã nêu cao tấm gương nhân từ, thánh thiện và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, Giuse là tôi tớ trung tín. Vì thế trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên Chúa, ngài được chọn làm bạn của Đức Trinh Nữ Maria, và dưới dòng họ của ngài, Con Thiên Chúa đã làm người thuộc dòng tộc Đavid, đã âu yếm gọi ngài là “Cha”.
Với lòng nhân hậu, thánh Giuse luôn phù trợ cho các con cái của ngài như thánh Têrêsa Avila đã nói với chúng ta: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý. Dường như Thiên Chúa ban ơn cho các thánh giúp ta việc này việc nọ, nhưng kinh nghiệm cho tôi biết thánh Giuse giúp chúng ta trong mọi trường hợp. Tôi lấy danh Chúa mà xin những ai không tin lời tôi hãy thử mà xem”.
50.Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emanuel
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta quả là một niềm mơ ước bất tận của con người có niềm tin vào Thiên Chúa. Trong cuộc sống, nhất là trong cử hành Phụng Vụ Thánh Thể, không biết bao lần ta chúc nhau đuợc Thiên Chúa ở cùng: "Chúa ở cùng anh chị em - Và ở cùng cha". Xin được chia sẻ đôi nét về sự biểu hiện của tình trạng được có Thiên Chúa ở cùng và một vài điều kiện để được Thiên Chúa ở cùng.
I. Sự biểu hiện của tình trạng có Chúa ở cùng: "Kính chào bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà" (Lc 1,28).
Dựa trên lời chào chúc của sứ thần Gabriel với mẹ Maria ta có thể chắc chắn rằng Mẹ chính là người được Chúa ở cùng. Tình trạng được Chúa ở cùng này được trình bày như là tình trạng "đầy ân sủng". Một tâm hồn đầy ân sủng Chúa là tâm hồn được "rợp bóng" Thánh Thần, là Tình Yêu bản vị giữa Chúa Cha và Chúa Con, một Tình yêu hoàn toàn "hướng tha". Chính vì thế người đầy ân sủng luôn lấy lợi ích của tha nhân làm mục đích của lẽ sống, của mọi hành vi của mình.
Tương tự một số nam nhân thời bấy giờ, chẳng hạn nhóm "tu trì" ở Qumrân, khi tự nguyện sống đời trinh khiết, Mẹ Maria đã tự nguyện hiến dâng đời mình, tự nguyện hy sinh hạnh phúc cá nhân để góp phần cầu mong Đấng Thiên Sai mau đến. Sự cao cả của tấm lòng vị tha của Mẹ hiện rõ qua việc Mẹ tự nguyện chọn lấy tình cảnh như bị Thiên Chúa chúc dữ trước mặt người đời. Người Do Thái xưa và thời bấy giờ vẫn xem những phụ nữ không sinh con là đồ bị chúc dữ. Đã đính hôn với thánh Giuse, nghĩa là vẫn lập gia đình, thế mà Mẹ tự nguyện sẽ không có con thì quả là một quyết định anh dũng trong tình yêu vị tha. Không sinh con trong đời độc thân tự hiến đã là một hành vi cao cả, còn lập gia đình mà quyết định sẽ không có con thì có thể nói rằng đó là trường hợp ngoại thường. Căn cứ vào quy định của Giáo Luật về hôn nhân Công giáo thì đây là trường hợp kết hôn không thành sự vì loại bỏ một trong hai mục đích của hôn nhân.
Khi Sứ Thần truyền tin cho Mẹ rằng Mẹ sẽ thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh một con trai thì tiếng thưa "xin vâng" của Mẹ bày tỏ rõ nét tâm hồn tràn đầy tình yêu vị tha cách hoàn hảo. Các nhà chú giải Thánh kinh cho ta hay nội hàm của hai từ xin vâng không phải là thái độ thụ động mà ngược lại đó chính là tâm tình tích cực trong hân hoan. Vì tha nhân, vì hạnh phúc của nhân loại, Mẹ Maria đã chọn con đường Thiên Chúa vạch ra. Rất có thể bị Giuse hiểu lầm, rất có thể chuốc lấy nhuốc nhơ cho danh giá giá của mình và số phận Mẹ có thể bị kết liễu dưới những viên đá vô tâm vô tình theo luật pháp thời bấy giờ. Mẹ hân hoan đón nhận tất cả chỉ vì hạnh phúc của đồng loại. Đúng là một trái tim tràn đầy ân sủng Chúa.
II. Một vài điều kiện để có Chúa ở cùng:
1. "Đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình... người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel (Mt 1,20-23).
Đón nhận nhau là một trong những nghĩa cử yêu thương. Đã yêu thì không chỉ đón nhận những gì dễ yêu, những gì đáng thương hay thích hợp với mình mà còn đón nhận cả những gì khó yêu, những điều mình chẳng muốn. "Thương cả đuờng đi" thì mới là thương yêu thật sự. Đón nhận cả những gì mà lòng mình không mong và nhiều khi chưa hiểu rõ thì mới là tình yêu không tính toán, không tham vọng cách ích kỷ.
Dù chỉ được Sứ Thần tỏ bày qua một giấc mơ thế mà Giuse đã mau mắn "tiếp nhận bạn mình". Động thái tiếp nhận nhau như là bạn hữu đòi hỏi ta từ bỏ mình và tự hủy mình một cách nào đó. Khi đón nhận các môn đồ thành bạn hữu của mình Đức Kitô đã từ bỏ tước vị là Thầy, đã tự hủy thân phận là Chúa của mình (x.Ga 13). Khi đón nhận Maria và Con trẻ trong dạ về nhà, Giuse đã tự nguyện từ bỏ vị thế làm cha của Ngài. Nét cao cả của Giuse còn thể hiện qua việc Ngài đón nhận cả sự hiểu lầm của họ hàng, dòng tộc, xóm giềng khi họ nghĩ rằng Ngài chính cha ruột của con trẻ.
Việc thánh Giuse đón nhận Maria về nhà làm bạn cũng chính là việc Ngài đón nhận chương trình của Thiên Chúa. Dĩ nhiên đây là chương trình ngoài dự kiến, ngoài ý định của Ngài. Tin mừng tường thuật "khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Sứ Thần truyền" (Mt 1,24). Sự mau mắn, không đắn đo này nói lên thái độ tin tưởng trong an bình của chính Ngài. Đón nhận tha nhân với toàn bộ hiện trạng tha nhân đang có, đang là trong sự tin tưởng và an bình đó là một trong những điều kiện tuyệt hảo để được Thiên Chúa ở cùng.
2. "Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu"(Mt 1,21).
Theo Thánh kinh, việc đặt tên có ý nghĩa rất quan trọng. Tên là người và tên cũng là sứ mạng. Vì thế người đặt tên là người có trách vụ hướng dẫn, đào tạo. Khi dẫn các con vật đến với Ađam để Ađam đặt tên cho chúng, Thiên Chúa đã trao phó trách nhiệm cai quản, huớng dẫn muôn loài cho con người (x.St 2,19). Khi đặt tên cho Abram thành Abraham, Thiên Chúa đã huấn luyện một người bán du mục cao niên, son sẻ đang chăn nuôi súc vật trong tư thế tìm sự bảo đảm, an toàn thành một người cha của đoàn lũ con cái đông đúc trong niềm tin phó thác (x.St 17,5). Khi đặt tên cho Giacop thành Israel, Thiên Chúa cũng đã huấn luyện một người láu cá "hất cẳng anh" thành một người đã "gặp gỡ, chiến đấu với Thiên Chúa" và dĩ nhiên sau đó tuân phục Thiên Chúa (x.St 32,23-30)
Thánh Giuse đã dùng gương sáng, lời nói, hành vi của mình để dạy dỗ, hướng dẫn con trẻ thành một Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Quả thật các áng văn Tin Mừng minh chứng cho ta thấy nhân cách và lối hành xử của Chúa Giêsu mang đượm dấu ấn của thánh Giuse. "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng vậy" (x.Ga 5,17). "Lương thực của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta trên trời" (x.Ga 4,34). "Ta không làm điều gì mà không nhìn việc Cha Ta làm" (x.Ga 5,19). Các thái độ, hành vi, cung cách ứng xử của Đấng Cứu Thế chắc hẳn có sự góp phần không nhỏ của thánh Giuse, đặc biệt trong thời thơ ấu và ẩn dật của Người.
Có Emmanuel, có Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là hạnh phúc đích thật. Dù rằng ở trần gian này hạnh phúc ấy chưa vĩnh viễn nhưng nó có thể là hoàn toàn một đôi lúc nào đó. Và những thời điểm có được hạnh phúc này chính là bảo chứng cho hạnh phúc đích thực cách hoàn hảo vĩnh viễn mai sau. Hạnh phúc ấy chính là tình trạng khi ta hết lòng vì lợi ích của tha nhân trong sự quên mình. Để có được điều này tiên vàn hãy biết tiếp nhận nhau với toàn vẹn con người của nhau, cả nhưng ưu điểm lẫn những hạn chế, cả những sự tốt lành lẫn những điều tồi tệ. Và đồng thời cần nỗ lực giáo dục dệt xây cho đời những Giêsu. Trước tòa án phong thánh cho Cha Gioan Maria Vianey, một cụ già đã thề trên Thánh Kinh rằng: "Con đã nhìn thấy Thiên Chúa nơi một con người". Mong sao không phải đợi đến những dịp phong thánh mà ngay trong cuộc sống thường nhật người ta, bà con tín hữu lẫn anh em lương dân hay khác đạo có thể thốt lên rằng: "Thiên Chúa đang ở cùng chúng ta".
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam