Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1360490

HAI ĐIỀU RĂN

HAI ĐIỀU RĂN

 

(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Chúng ta thường ngại xét mình trước khi xưng tội. Nếu xét mình sơ sài dựa trên Mười Điều Răn, có khi ta thấy mình chẳng có tội gì nghiêm trọng: không trộm cắp, không tham lam, không giết người... Thật ra xét mình không phải là làm bản tự kiểm trước một danh sách những luật cấm và luật buộc, cho bằng là đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.

Tôi phải thành thật tự hỏi: Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Tôi có thực sự yêu mến anh chị em tôi không? Tất cả điều răn được tóm trong một động từ: yêu.

Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Yêu là bước vào một đại dương mênh mông, là dấn thân trên một con đường dài hun hút. Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình yêu đủ. Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước, và mở ra những cánh cửa không ngờ. Giới hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.

Chẳng có động từ nào bị hiểu sai cho bằng động từ yêu. Báo chí phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu. Hành vi chiếm đoạt theo bản năng lại được gọi là yêu. Chúng ta cần trả lại ý nghĩa cao đẹp cho động từ này. Yêu mến Thiên Chúa là điều răn số một. Không phải chỉ dành cho Ngài phần lớn trái tim, Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất cả con người của tôi. Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Ai trong chúng ta dám tự hào mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất?

Càng lúc tôi càng thấy Chúa bị mất chỗ trong tim tôi. Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh tâm. Chúa Nhật là ngày tranh thủ làm thêm. Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật chất làm đời sống thiêng liêng bị sa sút. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém: yêu người thân cận như chính mình. Chúng ta yêu bản thân mình biết chừng nào! Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình đến nỗi lắm khi làm điều xấu cho người khác. Cần coi tha nhân như một cái tôi khác của mình. Họ cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến. Có biết bao thiệt hại tôi đã gây cho anh em tôi. Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.

Hai điều răn trên không thể tách rời nhau. Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân. Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa. Người Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ. Ngoài chợ, họ gặp Chúa nơi anh em. Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.

Gợi Ý Chia Sẻ

* Hai từ "Tình Yêu" đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải có những nét gì?

* Trong kinh nghiệm sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra sao?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,

Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hoá.

Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết nắm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.

 

2.Chúa Nhật 30 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn. 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu: “Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36). Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema, kinh mà người Do thái phải đọc mỗi ngày. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5). Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39). “Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18). Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó. Hai điều răn được gói trong một động từ yêu. Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.

Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ. Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực, nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ. Đối với người Do thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần. Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm. Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.

Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó. Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm. Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ. Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình. Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán, đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân. Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình, trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.

Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến. Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng. Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình, mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác, trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống. Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu, “Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20), đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.” Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình. Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35). Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù, một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng. Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu. Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa. Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.

Cầu nguyện:

Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng! Bấy giờ Chúa ở trong con mà con thì ở ngoài, con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài. Con thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp. Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với Chúa. Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa, trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa. Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con. Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức, và giờ đây hối hả quay về với Chúa. Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người. Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây con nóng lòng chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Thánh Âu-Tinh)

 

3.Một tình yêu duy nhất

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

“Mến Chúa và yêu tha nhân như chính mình – đó là tóm lược tất cả Lề Luật và Ngôn sứ” – Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta như vậy. Như thế, đức ái – vừa quy hướng về Chúa, vừa quy hướng về tha nhân – là một giới răn duy nhất và là nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Đó cũng là bản chất và là nền móng cho đời sống Đức tin. Đời sống Kitô hữu là sự tham dự vào chính bản tính của Thiên Chúa, Hữu thể siêu việt. “Thiên Chúa là Tình yêu” như thánh Gioan tác giả Tin Mừng lặp đi lặp lại nhiều lần để giúp chúng ta nhận ra bản tính của Thiên Chúa. Tình yêu bao trùm đời sống Kitô hữu. Đó là một tình yêu duy nhất, nhưng được diễn tả ở hai chiều kích: Thiên Chúa và tha nhân. Hai chiều kích này như hai mặt của một tấm huân chương, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia. Mến Chúa mà không yêu tha nhân sẽ là ảo tưởng lý thuyết; yêu tha nhân mà không mến Chúa sẽ mất đi chiều kích siêu nhiên và có thể chỉ dừng lại ở tình yêu vụ lợi.

Lời Chúa trong sách Xuất Hành đưa ra những vụ việc cụ thể, liên quan đến người ngoại kiều, người nghèo và người mắc nợ. Trong mọi trường hợp, phải đặt tình yêu tha nhân lên trên hết. Phải đối xử với tha nhân như những nhân vị, những con người chứ không phải đồ vật. Thiên Chúa khẳng định: Ngài đứng về phía những người đau khổ để bênh vực họ. Ai xúc phạm người nghèo, người ngoại kiều hay người mắc nợ là xúc phạm chính Chúa, vì Ngài là Đấng nhân từ.

Bất cứ người Do Thái nào khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đều dễ dàng nhận ra đó là giáo huấn của Cựu ước. Quả vậy, lệnh truyền “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” đã được Thiên Chúa phán qua ông Môisen và được ghi trong sách Đệ nhị Luật (x. Đnl 6,4-5). Đây cũng là lời kinh mà những người Do Thái đạo đức lặp lại mỗi lúc khởi đầu một ngày mới, được gọi là lời kinh “Shema Israel – Hãy nghe đây, Israel”. Lời kinh này giúp họ hướng lòng lên Chúa và chuyên tâm thực thi giáo huấn của Ngài. Theo quan niệm thời bấy giờ, con người được cấu thành bởi ba yếu tố: trái tim, linh hồn và tâm trí. Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn tức là dành cho Chúa một tình yêu trọn vẹn, không san sẻ và không tính toán, nhưng hoàn toàn quy thuận về Chúa.

Lệnh truyền “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” cũng đã được ghi trong sách Lêvi (x. Lv 19,18). Đối với Chúa Giêsu, giới răn này cũng giống giới răn trước và không thể tách rời. Đây chính là một trong những điểm ưu việt trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Thông thường, khi so sánh giá trị giữa hai thực tại, người ta xếp hạng thứ nhất và thứ nhì. Ở đây, Chúa Giêsu không xếp hạng như thế. Nếu Người gọi giới răn mến Chúa là giới răn trọng nhất và là giới răn thứ nhất, thì yêu người là giới răn cũng giống như giới răn trước, tức là có giá trị ngang nhau. Mến Chúa yêu người là một giới răn duy nhất hướng tới hai đối tượng, hai chiều kích. Hai chiều kích này bổ túc cho nhau và làm nên lòng mến hoàn hảo. Tình yêu dành cho Chúa là tình yêu không biên giới (hết lòng); tình mến dành cho tha nhân được đo lường bằng tình yêu mà người ta muốn người khác làm cho mình, “yêu người như mình ta vậy”. Mến Chúa yêu người cũng là chu toàn Lề Luật và truyền thống Ngôn sứ. Đây là mối bận tâm lớn nhất của những người Do Thái mộ đạo. Họ lo làm sao để thực hành những quy định của Lề Luật và giáo huấn của các ngôn sứ. Đó chính là con đường nên hoàn thiện trước mặt Chúa. Đối với Chúa Giêsu, con đường nên hoàn thiện trở thành đơn giản hơn và ai cũng có thể thực hiện được, đó chỉ là mến Chúa yêu người.

Lòng mến làm nên sức sống của một cộng đoàn Kitô hữu. Thánh Phaolô diễn giải điều này khi ngài có những nhận định rất tích cực đối với tình bác ái của cộng đoàn tín hữu Thessalonica (Bài đọc II). Vị Tông đồ xác nhận rất nhiều việc tốt lành mà cộng đoàn này đã thực hiện, và như thế, họ đón tiếp chính Chúa Kitô. Thánh nhân cũng ca ngợi cách thức cộng đoàn này đã sống trong tình yêu Chúa. Khi làm như thế, “anh em trở nên những mẫu mực cho mọi tín hữu… đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần phải nói gì nữa”. Hai mươi thế kỷ đã qua, chứng từ đức tin và tình mến thể hiện trong cuộc sống của các Kitô hữu Thessalonica là gợi hứng cho những cộng đoàn tín hữu hôm nay.

Trong tháng Mười, chúng ta cùng nhìn lên Đức Trinh nữ Maria. Mẹ là mẫu mực của các tín hữu. Cuộc sống trần gian của Đức Trinh nữ hoà quyện niềm vui và đau khổ, nhưng Mẹ vẫn luôn luôn trung thành và tín thác vào Chúa. Mẹ là người thực sự “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Những lúc gian khổ của đời Mẹ như khi gian nan cơ cực tại Be Lem, khi trốn sang Ai Cập, và nhất là vào giờ phút đứng dưới chân thập giá. Trong mọi hoàn cảnh Đức Trinh nữ thành Nagiarét vẫn kiên trung, can đảm, cậy trông và một lòng mến Chúa. Xin Mẹ dạy chúng ta mến Chúa yêu người, như một tình yêu duy nhất, toả hương thơm ngát trong cuộc đời.

 

4.Suy niệm của Lm. Joshepus Quang

TRỌN TÌNH VỚI CHÚA VÀ VẸN NGHĨA VỚI NHAU

Là người lương dân hay Công giáo, ai cũng thuộc nhạc phẩm này: “Tình người ngoại đạo” của tác giả Phượng Linh, tác giả là một người ngoại đạo yêu một cô gái Công giáo mà không dám tỏ tình, một hôm ông đến Nhà thờ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa con thương nàng đã lâu rồi. Thương thì nhiều nhưng con chưa dám nói. Con thương nàng đã lâu rồi mà chưa dám hé môi. Ngại ngùng không cùng tôn giáo thôi. Lạy Chúa con thuơng nàng rất ngoan đạo. Thương nàng thường hay luôn di xem lễ. Con thuơng nàng rất đơn sơ. Màu áo trắng đơn sơ, với nét môi cười nắng nghiêng nghiêng. Con yêu nàng, tình yêu rất chân thành. Tình yêu không lừa dối. Nhưng Chúa ơi, nàng đâu hay biết đâu một người ngoại đạo tha thiết yêu nàng. Tình yêu trái ngang. Lạy Chúa con xin nguyện Chúa trên trời. Cho trọn niềm tin ơn trên Thiên Chúa. Con xin đuợc sống bên nàng, nguời con nhớ con thương. Kính mến tôn thờ Chúa. Amen”.

Anh chàng ngoại Đạo yêu cô gái Công giáo cốt ở điểm nào? Thưa thứ nhất, cô thường đi dâng lễ, có nghĩa rằng giữ trọn tình mến Chúa. Thứ hai, cô này ngoan Đạo, yêu chàng một tình yêu chân tình, tình yêu không lừa dối, có nghĩa rằng cô yêu người như chính mình vậy. Vâng, tại sao, Cô này trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với người yêu bởi vì cô này đã sống Đạo tốt qua việc giữ điều răn lớn nhất và quan trọng rất của Đạo Công giáo là Mến Chúa, yêu người. Đó là điều răn mà Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.

Trong văn hoá Á Đông, người Việt nam luôn để cao cuộc sống hôn nhân gia đình luôn có tình và có nghĩa với nhau. Cho nên, là vợ chồng sống với nhau phải có tình có nghĩa. Khi bình thường, an vui cũng như sầu khổ, vợ chồng sống với nhau bằng “tình”. Khi một trong hai người bệnh hoạn tai ương, hoặc gây nên lầm lỗi, nếu tình yêu phôi pha hoặc không còn nữa, vợ chồng vẫn sống bên nhau bằng “nghĩa”. Nói cách khác, tình là phần việc của con tim (cảm xúc), nghĩa là phần việc của lý trí (trách nhiệm). Con tim và lý trí đi chung với nhau để cuộc sống vợ chồng bền chặt. Vì vậy, theo văn hoá Việt Nam, vợ chồng lấy nhau vì “tình”, chung sống vì “nghĩa”. Vì thế, chất keo gắn bó cuộc sống vợ chồng chung thuỷ với nhau suốt đời: “tình” và “nghĩa”. “Tình” để yêu thương nhau và “nghĩa” để chịu đựng nhau nâng đỡ, chăm sóc và phục vụ nhau. Mất đi một hợp chất, keo không còn dính nữa, khác gì xi măng không có nước.

Cũng vậy, người Kitô hữu luôn mang trên mình Thánh giá Chúa. Thanh dọc của cây Thánh giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêu mến Người với tất cả trái tim, hết linh hồn và hết trí khôn. Thanh ngang của thánh giá là phải vươn đến với tất cả mọi người để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là Thánh giá. Nếu có mến Chúa mà không có yêu người, thì chưa phải là Kitô hữu. Cho nên chỉ khi sống trọn vẹn giới răn mến Chúa và yêu người, thì chúng ta mới đích danh là Kitô hữu, mới thật sự là trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau trong cuộc sống này. Vì vậy, Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,15-21.23). Và ngược lại, “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).

Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng theo Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến việc thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Ngày nay, có nhiều người nghĩ rằng Mến Chúa thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hàng ngày, năng tham dự các bí tích. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ hết, chúng ta đã yêu được mấy chữ hết đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa. Vì vậy, chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết lòng khi chúng ta dám hy sinh thời giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết linh hồn khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết trí khôn khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương tâm, trước nguy cơ bách hại.

Bên cạnh mến Chúa, chúng ta còn phải yêu thân cận ngươi như chính mình. Nhưng ở đời đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương hết vì “chín người mười ý”, thượng vàng hạ cám, vàng thao lỗn lộn mà. Thế nhưng, chúng ta sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, mến Chúa mà không yêu người thì là người đạo đức giả. Cho nên, nhà văn học Công giáo Mỹ Thomas Merton nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Còn Lời Chúa nói: “Anh em hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa.

Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-8).

Đời sống Kitô hữu là cuộc tình của mình với Thiên Chúa. Cuộc sống con người chan chứa tình yêu và hiệp thông với Thiên Chúa đời đời. Vì thế, cuộc sống đức tin của chúng ta phải nỗ lực thực hiện cuộc cách mạng yêu thương để làm sao mình không phải là tâm điểm mà chính Chúa và tha nhân là tâm điểm, và mình phải xoay quanh chứ đừng bắt Chúa và tha nhân phải xoay quanh mình. Nhưng Chúa ở đâu bây giờ và lúc này? Ai là người thân cận của tôi? Đó chính là những người còn sống với tôi hay đã qua đời, vì vậy chỉ yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp và yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta biết cầu nguyện cho những người thân yêu hay mọi người đã qua đời vì chưng sống chết đều có nhau như niềm tin chúng ta thường tuyên xưng: “Tôi tin các thánh thông công”.

Vì thế, ước gì qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta yêu mến Chúa hết lòng hết sức không phải vì Chúa ban cho chúng ta lợi lộc này, lợi lộc nọ mà vì Thiên Chúa là Tình Yêu và Lẽ Sống, là Hơi Thở của chúng ta. Yêu mến Chúa cũng mời gọi chúng ta có lòng vị tha với tha nhân để yêu thương, phục vụ, hy sinh và cầu nguyện cho nhau hầu luôn giữ trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau. Amen.

 

5.Mến Chúa và yêu người

Mẹ Têrêxa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình đầy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói: Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không thể nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.

Thực vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai giới răn quan trọng nhất là: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi... và điều thứ hai giống điều răn ấy: ngươi phải yêu người đồng loại như chính mình”

Lời tuyên bố đó, chấm dứt sự tranh luận của các phe phái Do thái về luật nào quan trọng nhất, giống như lời của bậc thầy chấm dứt cuộc tranh cãi của các học trò.

Tuy nhiên Chúa Giêsu không nói rõ lý do tại sao phải mến Chúa trên hết và thương người như chính mình. Thực ra lý do đã nằm sẵn trong lời tuyên bố của Chúa rồi.

Trước nhất tại sao phải mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, thánh Marcô còn thêm: hết sức, vì tất cả sức lực thể xác, lòng muốn, trí khôn, linh hồn đều là của Thiên Chúa ban. Tất cả những khả năng ấy được có, được sinh hoạt, được phát triển và thăng tiến đều do bàn tay Chúa. Nếu chúng biết nhận ra Thiên Chúa là chủ của chúng, để nương tựa vào chủ, hướng về chủ, hoạt động theo chủ, thì chúng sẽ được chủ quý chuộng, tô điểm xinh đẹp và cho chúng sống muôn đời. Khi hoàn thành bức điêu khắc tượng Môisê, một kiệt tác thể hiện được hết tinh thần sống động của mình đến nỗi thiên tài Michel-Ange đã hét lớn vào tai tượng: Hãy nói đi. Thiên Chúa cũng đang hét lớn vào lòng trí, linh hồn của mỗi người chúng ta: Hãy yêu mến đi để ngươi nên giống Ta! Vì Ngài đã dựng nên ta, kiệt tác hơn muôn loài trong vũ trụ. Nhận biết mình được Thiên Chúa dựng nên lạ lùng như thế, Salomon đã cầu nguyện thế này: “Lạy Chúa, con sinh ra cốt cách tinh anh, được một hồn lương hảo, tốt lành, được vào một thân xác không tì ố, nhưng Thiên Chúa không ban, con không thể có được khôn ngoan... nên con thưa với Chúa và cầu xin Người hết lòng con” (Kn. 8, 19-21). “Như vậy, lạy Chúa, những đứa con mà Ngài yêu mến sẽ học biết rằng không phải các thứ hoa quả nuôi sống con người. Nhưng là lời Người bảo tồn những ai tin cậy vào Người” (Kn. 16, 26).

Thứ đến, tại sao phải yêu đồng loại như chính mình? Thưa vì đồng loại là những người có ruột thịt, máu mủ giống mình, là những người gần gũi mình, sống chung với mình, cùng loại với mình, cùng bản chất tinh thần và thân xác như mình. Cho nên, đã cùng loại với mình thì dù đó là người Samari hay Israel, Hy Lạp hay Do Thái, nô lệ hay tự do, chủ hay thợ, người sang hay hèn, mình phải yêu họ như chính mình. Tại sao khi thấy họ bị đánh nhừ tử nửa sống nửa chết lại bỏ tránh đi? Tại sao không biết lấy dầu, lấy rượu xoa bóp băng bó vết thương cho họ như người Samari nhân hậu. Chỉ những ai như người Samari biết thương xót người, thấy người khổ như mình khổ, cứu người đau như mình đau, mới được Chúa Giêsu đánh giá là yêu người như chính mình. Từ trên núi Sinai, Chúa đã truyền cho dân Israel phải thương mến giúp đỡ những người bị khinh bỉ, như mẹ góa con côi, những người nghèo đói, ngoại kiều, thì mới thật sự xứng đáng là dân riêng của Chúa (Bài đọc I – Xh. 22, 21-22)

Biết được những lý do tại sao phải mến Chúa và yêu người, ta còn phải biết mến Chúa và yêu người đến mức độ nào, mới thật là mến Chúa yêu người.

Mức độ Chúa Giêsu kêu gọi là: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Đó là mức độ mến Chúa, còn yêu người đến mức độ như yêu chính mình. Nói khác đi, mến Chúa và yêu người phải tới độ tuyệt đối. Sau đây chúng ta thử xét xem lòng mến Chúa và yêu người của chúng ta đến mức độ nào?

Phần đông mến Chúa bằng làm những việc đạo như giữ mười điều răn, đi lễ Chủ nhật, xưng tội, rước lễ v.v… ở mức độ sợ tội, sợ mất linh hồn, sa hỏa ngục, nên chỉ cố gắng tránh những tội nặng, còn chửi tục, chửi nhau, bỏ học lời Chúa, bỏ lễ thường, lỗi bổn phận hàng ngày, phạm tội nhẹ như uống nước. Họ giống như đứa con sợ bố đánh mới nghe lời. Khi khuất mặt bố, nó không sợ nữa, nó đánh nhau, phá phách nghịch quấy, trộm vụng bất kể. Người mến Chúa chỉ lo sợ phạt chết đời đời cũng vậy. Họ chỉ yêu ai thân mình, chào kẻ chào mình, làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình “thì anh em còn được công chi?” (Mt. 5, 46).

Đó là hạng người mến Chúa yêu người vì lợi cho mình. Họ là những kẻ ích kỷ.

Một số mến Chúa vì thấy Chúa tốt lành, nhận ra những công ơn vô cùng của Chúa ban, nên họ cố gắng đền đáp; nhận ra lời Chúa là lời hằng sống, chân thật, thánh thiện, nên họ cố gắng thực thi. Họ như đứa con hiếu thảo thấy công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra vô tận, nên lo sống xứng đáng đẹp lòng cha mẹ. Vì thế họ cũng cố gắng noi gương nhân hậu của Chúa phần nào đó. Họ là những người tốt lành, cũng biết làm ơn giúp đỡ người khác, hy sinh chịu đựng tha thứ kẻ làm khổ mình. Lúc bình thường họ giống như các môn đệ Chúa, rất chịu khó đi công tác, làm việc tông đồ. Khi gặp thử thách nguy khốn như lúc Thầy bị bắt... thì bỏ trốn. Họ trốn tránh những việc khó khăn, gian lao, nguy hiểm. Họ mến Chúa và yêu người ở mức bình thường.

Một số rất ít họ là những người lành mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn nghĩa là mến Chúa trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống mình vì mến Chúa. Ở mức độ mến Chúa tuyệt vời này, họ thương yêu hết mọi người dù xa lạ, dù hèn mọn, dù là kẻ thù, họ thấy tất cả là chi thể của Đức Kitô, lúc sáng láng trên núi Tabo cũng như lúc ô nhục khốn cùng trên núi Sọ. Chỉ có các thánh đã mến Chúa và thương người được thế thôi, như thánh Phaolô nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo? như có lời chép: chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm. 8, 35-37).

Lạy Chúa Giêsu, xin thêm lòng mến cho con. Xin đốt lửa kính mến Chúa và yêu người trong trái tim con.

 

6.Chúa Nhật 30 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

Chủ đề: Yêu thương là điều răn quan trọng nhất (Mt 22,36)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Thiên Chúa là tình yêu. Trong Thánh lễ này chúng ta hãy đến với Ngài để được Ngài châm thêm tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ đó từ nay chúng ta sẽ mến Chúa và yêu người hơn.

II. Gợi ý sám hối

Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa mến Chúa đủ.

Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa yêu người đủ.

Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con hành động không theo sự hướng dẫn của tình yêu mà lại theo sự thúc đẩy của lòng giận ghét.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Xh 22,21-27)

Cựu Ước có nhiều khoản luật dạy người Do Thái phải yêu thương đồng bào mình. Tình yêu đó có tính cách cục bộ.

Ðoạn sách Xuất hành này cũng theo chiều hướng đó, nhấn mạnh đến việc phải yêu thương những người nghèo khó và góa bụa. Ngoài ra, điểm đặc biệt của đoạn sách này là dạy yêu thương cả những ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Biên giới Tình yêu đã được nới rộng hơn.

2. Ðáp ca (Tv 17)

Ðây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Tác giả cũng coi Chúa là Ðá Tảng che chở mình, vì thế tác giả tin rằng khi mình bị áp bức mà biết kêu cầu Chúa thì sẽ được Ngài cứu giúp.

Một cách gián tiếp, Tv này tuyên xưng rằng Thiên Chúa đặc biệt yêu thương những người lâm cảnh khổ sở.

3. Tin Mừng (Mt 22,34-40)

Trong bài Tin Mừng tuần trước, những người thuộc hai nhóm Pharisêu và Hêrôđê liên minh nhau để gài bẫy Ðức Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Xêda. Họ đã thất bại. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, nhóm Pharisêu chưa chịu thua, họ chọn trong nhóm ra một người thông luật để tranh luận với Ngài.

Câu hỏi là: "Trong lề luật, giới răn nào trọng nhất". Ðây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do Thái có rất nhiều khoản luật (365 luật buộc và 248 luật cấm), mà luật nào cũng đều quan trọng cả.

Câu trả lời của Ðức Giêsu rất xuất sắc: một là Ngài đã lọc ra được hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người; hai là Ngài liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, và yêu người thì phải mến Chúa; ba là Ngài chỉ cho thấy hai điều ấy - mà thực ra còn có thể tóm lại thành một điều duy nhất là Yêu Thương - là cốt lỏi của tất cả mọi khoản luật khác.

4. Bài đọc II (1 Tx 1,5c-10) (Chủ đề phụ)

Giáo đoàn Thêxalônikê đã được Thánh Phaolô hết lời khen ngợi. Ðoạn thư này cho chúng ta thấy lý do họ được khen ngợi là vì họ đã nhận lãnh lời rao giảng Tin Mừng giữa bao gian truân khốn khó, và họ đã sống Tin Mừng ấy đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.

IV. Gợi ý giảng

1. Một lời để ghi nhớ: ngươi phải yêu mến

Ðúng là hai điều răn: điều răn thứ nhất là điều răn lớn. Ðiều răn thứ hai cũng quan trọng không kém. Có nghĩa là hai giới răn ấy không cho phép ta tuỳ thích. Tình yêu mà những giới răn ấy nói tới, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân, không phải là một thứ tình cảm trôi nổi tuỳ theo tính khí của ta. Tình yêu là một sự cam kết lớn lao, một sự dâng hiến chính mình, hiến mạng sống mình. Tình yêu không dừng lại ở nửa đường, mà đi cho tới cùng giống như đám lửa cháy. Giới răn ấy khơi dậy tình yêu khi mà thường tình và một cách tự nhiên lãnh đạm hay chối từ có nguy cơ thống trị. Giới răn ấy là như tia lửa làm bùng lên đám cháy. Giới răn ấy nâng đỡ tình yêu khi nỗi chán chường hay thói quen sẽ làm cho tình yêu ra nguội lạnh hoặc tàn lụi. Giới răn ấy làm bùng lên nhuệ khí khi tình yêu chân thực đòi hỏi nhiều hy sinh, quên mình... Nhờ tương phản và hỗ trợ giữa tình yêu và giới răn này mà đời sống ta được thăng tiến.

Giới răn yêu thương có hai mặt, hai mặt mà không tách biệt nhau như mu và lòng bàn tay. Ðiều răn thứ hai cũng giống, cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, là "ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Chỉ có một mình Chúa là Ðấng ta phải yêu mến cách tuyệt đối, hơn cả chính mình ta, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ta. Khi yêu mến Chúa hết mình, vượt khỏi chính mình, ta được vào trong tình yêu Chúa ban tặng, được sống trong tình yêu của Người, lòng ta mở ra hướng về vô biên, bởi lẽ Thiên Chúa muốn thông phần sự sống của Người cho con người, muốn thần hóa con người! Còn về người thân cận, Ðức Giêsu truyền phải yêu người thân cận như chính mình. Ðây không phải là một sự so sánh bình thường, mà còn hơn thế nữa. Không phải chỉ đơn giản là muốn và làm cho người thân cận điều ta muốn cho ta. Ðức Giêsu đã đưa ra một điểm son, một khuôn vàng thước ngọc: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó" (Mt 7,12).

Giới răn thứ hai thật minh bạch và đi xa hơn. Giới răn ấy đòi ta yêu mến người thân cận như người ấy là chính ta, là ta đồng hóa với người ấy. Nó diễn tả một sự hiệp thông giữa hai hữu thể, giữa hai cuộc sống, giữa anh em trong một nhà, trong một gia đình Thiên Chúa. Nếu tôi không yêu mến người thân cận của tôi, Nếu tôi khinh chê người ấy, chính là tôi gây thiệt hại cho bản thân tôi. Yêu người thân cận như chính mình, chính là tôi dành cho tôi một tình yêu tuyệt vời... Thế nên, và nhất là có điều răn ấy, thật là điều hạnh phúc! Bởi lẽ khi tôi yêu mến người giống như tôi, người mà tôi nhận ra tôi nơi con người ấy, thì tôi cũng được người ấy đáp lại bằng lòng yêu mến tự nhiên, bằng mối thịnh tình theo nghĩa mạnh nhất; còn nếu theo bản năng tôi ngờ vực một người, thì người ấy có thể trở thành một đối thủ, một người cạnh tranh, một kẻ thù của tôi. Lịch sử từng minh chứng những biến cố thật lớn lao đượm tình huynh đệ, cũng như những cuộc bùng nổ dữ đội nhất từng châm ngòi cho thù hận giữa con người... Ðiều răn thứ hai quả là cần thiết, và rất cần thiết nên Ðức Giêsu mới dùng tất cả những lời lẽ trang trọng mà tuyên bố là điều răn ấy cũng giống như điều răn kia, cũng quan trọng không kém. Người đã đặt con người vào đúng tước vị của nó là hình ảnh và là con Thiên Chúa.

Quả thực đây cũng là điều đơn giản và chắc chắn Chúa muốn ta tham khảo.

Yêu mến thế nào, thường là điều phức tạp; bạn phải tìm kiếm, nhận thức rõ, kiểm soát những tình cảm tốt xấu của bạn, chứ không được miễn trừ. Bạn hãy luôn luôn phải tìm xem để yêu mến thế nào cho đúng sự thật; cần được học hỏi về điều này. Nhưng nếu bạn có một ý chí muốn yêu thương, nếu để cho ngọn lửa của Thánh Thần điều động cuộc đời bạn, thì bạn sẽ thấy con đường phải đi và phương cách để làm. Bạn hãy tìm kiếm hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn bạn. Bạn hãy tìm kiếm như cho chính mình. Thì bạn sẽ gặp…! (Giám mục L. Daloz. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 332-334)

2. Một từ tóm tắt tất cả Phúc âm: Yêu mến

Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ tình yêu, một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.

Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến? Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Ðấng yêu mến chúng ta?

Như vậy thì có nhiều cách yêu mến không? Chắc hẳn là có rồi. Nên trong vấn đề này, tôi vẫn theo gót nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustinô. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến:

Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất: thích được yêu (aimer être aimé). Bạn hãy nói cho tôi biết có ai mà không thích điều đó không? Phải là con người hư hỏng mới dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi... Nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).

Trình độ thứ hai: thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là: lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại, có vị tha.

Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thiện, khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bồ nông tự để cho con rỉa thịt mình.

Ngay ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chứ? Bạn hãy nói cho tôi biết bạn có đủ can đảm để đi thăm một bệnh nhân nào đó, đi uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng? Nhưng bạn hãy coi chừng! Tất cả thái quá trong lãnh vực này - quảng đại thái quá - có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi.

Còn trình độ thứ ba: Yêu (aimer), có thế thôi! Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì Ta yêu là yêu thôi. Ðó mới là đỉnh cao của "tình cho không biếu không".

Hãy nhìn nhận điều này: ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một Vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Ðức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Ðức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần linh tình yêu khi Người tắt thở, một Ðức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritanô nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về.

Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là: Yêu mến.

(H. Denis. trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 334-336)

3. Những chữ đi sau chữ "yêu"

Xem kỹ bản văn Tin Mừng, theo sau động từ yêu mến Chúa là những chữ "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn"; đi sau động từ yêu thương kẻ khác là những chữ "như chính mình ngươi".

"Hết" là tất cả. Ngoài ra, trong ngôn ngữ Do Thái, người ta thường dùng một từ chỉ một phần để nói đến toàn thể: "lòng" cũng có nghĩa là cả con người, "linh hồn" và "trí khôn" cũng thế. Do đó câu nói trên có nghĩa là: "Hãy yêu mến Chúa với tất cả con người của mình, tất cả con người của mình, tất cả con người của mình." Một kiểu nói mạnh lặp lại tới ba lần. Cũng có thể hiểu là: "Hãy yêu mến Chúa với tất cả mọi chiều kích, mọi lãnh vực, mọi khả năng của mình".

"Như chính mình" nghĩa là không còn phân biệt chủ thể và đối tượng gì nữa. Hay nói cách khác cho dễ hiểu, không phân biệt tôi và anh, tôi và chị hoặc tôi và nó gì nữa. Chỉ còn là một thôi.

Tóm lại, những chữ đi sau động từ "yêu" nhằm diễn tả một tình yêu không biên giới, cả biên giới với Chúa lẫn biên giới với người khác. Tất cả đều yêu nhau. Cuộc sống chỉ là yêu.

4. Bắt đầu yêu mình trước

Trong bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu bảo "Ngươi hãy yêu kẻ khác như chính mình ngươi". Có thể hiểu là: hãy biết yêu mình trước rồi mới có thể yêu kẻ khác.

Một cụ già đang ngồi trước cổng thành. Một người khách lạ đến hỏi:

- Dân trong thành này là người thế nào?

- Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?

- Họ rất tử tế và sẵn sàng giúp đỡ khi mình nhờ tới.

- Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.

Một lúc sau, một người khách khác tới và cũng hỏi:

- Dân trong thành này là người thế nào?

- Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?

- Họ rất khó ưa, ích kỷ và chẳng chịu giúp mình gì cả khi mình nhờ tới.

- Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.

Ý nghĩa câu chuyện này là tôi thường đánh giá người khác không theo lòng họ mà theo lòng mình. Nếu ta thấy người ta khó chịu, đó là dấu trong lòng ta đang khó chịu. Người nào bình an trong lòng thì lan tỏa bình an ấy ra ngoài và cảm thấy mọi người đều hiền hòa.

Bởi thế, ta phải học yêu bản thân mình trước rồi mới có thể yêu người khác. Nhưng thế nào là yêu mình? Là hãy ban cho lòng mình những tình cảm cao thượng, bình an, độ lượng.

Tuy nhiên cũng cần lưu ý: Yêu mình một cách sai lạc thì không thể yêu người khác. Yêu mình sai lạc là thế nào? Là ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chỉ lo cho mình và dành hết mọi sự tốt cho mình. (Flor McCarthy, Love your neighbor as yourself)

5. Chuyện minh họa: Tin Mừng trọn vẹn

Vào thời có nhiều người thích ẩn tu trong sa mạc, có một Tu Sĩ nổi tiếng đạo đức tên là Môsê. Sắp đến lễ Phục sinh, tất cả các tu sĩ đều nhất trí sẽ không ăn gì cả suốt Tuần Thánh, mỗi người ở luôn trong phòng mình và chuyên chăm cầu nguyện.

Ðến giữa tuần, có hai khách lữ hành ghé thăm Thầy Môsê. Thấy họ đói quá, Thầy nấu cho họ một nồi súp. Và để họ không ngại, Thầy cũng ăn một ít trước mặt họ. Ðang lúc đó, các thầy khác thấy khói và mùi thức ăn từ phòng Thầy Môsê bay ra thì bực tức tới bắt lỗi:

- Thầy đã phạm luật!

Thầy Môsê khiêm tốn trả lời:

- Ðúng là tôi đã phạm luật của loài người. Nhưng đó là vì tôi giữ luật Chúa dạy phải yêu thương người khác.

Nghe thế, những thầy kia xấu hổ bỏ đi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu được yêu cầu nêu ra hai điều luật quan trọng nhất. Ngài đã nêu ra luật mến Chúa và luật yêu người. Ngài đã nối kết cả hai lại với nhau và xem chúng đều trọng như nhau. Thế nhưng loài người chúng ta thường tách hai điều đó khỏi nhau.

6. Mảnh suy tư

Tách rời hai khoản luật lớn của Chúa là một thảm kịch và rõ ràng đi ngược ý Chúa.

Thế nhưng việc này lại thường xảy ra.

Những kẻ lo mến Chúa thì thường không yêu người, và những kẻ lo yêu người lại không mến Chúa. Thế là Tin Mừng bị xé ra làm hai. (Flor McCarthy)

V. Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một điều răn mới: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Với quyết tâm sống bác ái như Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.

1. Hội Thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người trong đại gia đình Hội Thánh / luôn sống hòa thuận thương yêu nhau / và cư xử bác ái với những ai chưa nhận biết Chúa.

2. Lòng bác ái yêu thương không hề có biên giới / chủng tộc /; ngôn ngữ / địa vị xã hội / giầu nghèo / thông thái hay dốt nát / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết cố gắng sống tinh thần quảng đại ấy.

3. Ngày nay / hận thù / bạo lực / khủng bố vẫn còn đang hoành hành dữ dội tại nhiều nơi trên thế giới / gây kinh hoàng cho biết bao người / đem tang tóc và đau khổ cho biết bao gia đình lương thiện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương / ngự trị trong mọi sinh hoạt trên khắp hoàn cầu.

4. Chân thành yêu thương nhau / hết lòng tôn trọng nhau / và quảng đại giúp đỡ những ai thực sự đói nghèo / là bổn phận của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng yêu thương nhau như Chúa đã dạy.

CT: Lạy Chúa, thánh Phaolô quả quyết "Sống bác ái yêu thương là chu toàn lề luật của Chúa". Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể hết lòng mến Chúa và tha thiết yêu người như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin...

VI. Trong Thánh Lễ

Trước kinh Lạy Cha: Trong kinh Lạy Cha, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Chúa là Cha chúng ta "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn" ta, cũng như yêu thương tha nhân là anh em chúng ta "như chính mình" ta vậy.

Sau kinh Lạy Cha: "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con luôn cố gắng thực thi điều răn quan trọng nhất là Yêu thương. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."

VII. Giải tán

Chúc anh em ra về và sống yêu thương trọn vẹn đối với Chúa cũng như đối với tất cả mọi người.

 

7.Mến Chúa yêu người

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy sự chống đối dai dẳng của bọn biệt phái đối với Chúa Giêsu. Họ không ngừng tìm cách giăng những cái bẫy để hại Ngài. Họ đã bắt lỗi Ngài trong các việc Ngài làm. Đồng thời họ còn muốn bắt lỗi Ngài trong các lời Ngài nói. Vì giáo huấn của Ngài luôn đi ngược lại với những điều họ giảng dạy, nên họ đã cố gắng tìm cách đưa Ngài trở về với con đường mòn họ đã vạch ra và muốn mọi người noi theo. Họ muốn Chúa Giêsu lặp lại chính những điều họ thường giảng dạy. Họ hỏi Ngài về điều răn trọng nhất. Làm sao có thể nói khác điều luật dạy: Yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Nếu như Ngài dừng lại ở đây thì có lẽ họ đã toại nguyện, bởi vì Ngài dạy như họ đã dạy.

Thế nhưng, Chúa Giêsu không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói thêm: Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất. Giống ở đây không có nghĩa là hai giới răn là một và có thể hoán đổi cho nhau, mà muốn nói đến tầm quan trọng ngang nhau của hai giới răn. Giới răn thứ hai đó là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi, nghĩa là yêu thương kẻ khác một cách trọn vẹn, một cách hết lòng. Đây chính là nét độc đáo của Chúa Giêsu. Điều Ngài muốn khẳng định ở đây không phải là việc mến Chúa và yêu người, bởi vì những tư tưởng này cũng khá quen thuộc trong Cựu Ước, nhưng chính là việc Ngài đặt hai giới răn này gắn chặt với nhau, cũng có một tầm quan trọng ngang nhau, và hơn thế nữa, theo Ngài thì toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn này.

Giáo huấn của Chúa Giêsu hẳn đã làm cho kẻ thù của Ngài phải sửng sốt. Nhưng sự sửng sốt này, thay vì lay tỉnh họ, đặt họ trong tư thế sẵn sàng tìm hiểu cái mới trong giáo huấn của Chúa, thì đã làm cho họ thêm chai cứng và thêm quyết tâm trong ý định triệt hạ Ngài. Một cách nào đó có thể nói rằng tình yêu giữa con người với con người là công việc của con người, thế nhưng đây lại là một nỗi bận tâm lớn của Thiên Chúa, bởi vì chính Ngài đã đặt tình yêu này thành mệnh lệnh, thành giới răn và Ngài không ngần ngại tự đặt mình làm trọng tài lo việc thực thi giới răn này: Nếu các ngươi hà hiếp cô nhi quả phụ, làm phiền lòng khách ngoại kiều, bắt người nghèo khó vay tiền phải chịu lãi nặng, họ sẽ kêu thấu đến ta và chính ta sẽ nghe tiếng họ kêu van, sẽ nổi cơn thịnh nộ và sẽ dùng gươm giết chết các ngươi.

Người Kitô hữu vào mọi thời đã đón nhận giới luật yêu thương đồng loại như là một trong hai giới răn quan trọng nhất của Kitô giáo. Mến Chúa yêu người đó là tất cả chương trình sống của người tín hữu. Những công việc chúng ta quen gọi là bác ái từ thiện như giúp đỡ người tàn tật, bệnh hoạn hay gặp phải tai ương đã từng là những hình thức quen thuộc để thực thi giới luật yêu thương.

home Mục lục Lưu trữ