Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 36
Tổng truy cập: 1362628
HÀNH TRÌNH BA VUA
HÀNH TRÌNH BA VUA Bình An
Sao chổi Halley, tên được đặt chính thức là 1P/Halley một sao chổi được đặt tên theo nhà vật lý thiên văn học người Anh Edmund Halley, là một sao chổi có thể nhìn thấy cứ mỗi 75 đến 76 năm. Nó là sao chổi nổi tiếng nhất trong các sao chổi theo chu kỳ. Dù trong mỗi thế kỷ đều có nhiều sao chổi có chu kỳ dài xuất hiện với độ sáng và ngoạn mục hơn nhưng sao chổi Halley là một ngôi sao chổi chu kỳ ngắn có thể thấy rõ bằng mắt thường và do đó, là sao chổi có thể nhìn thấy bằng mắt thường chắc chắn có thể trở lại trong một đời người. Sao chổi Halley xuất hiện lần cuối bên trong Hệ Mặt Trời vào ngày 9 tháng 2 năm 1986, và sẽ xuất hiện trở lại vào ngày 28 tháng 7 năm 2061.
Theo thuyết Newton, một số sao chổi quay chung quanh Mặt trời trên những quỹ đạo hình ellip. Nhà thiên văn học Edmund Halley, người Anh (thế kỷ thứ 17-18) áp dụng định luật Newton để tính quỹ đạo cho biết là các sao chổi hiện ra những năm 1531, 1607 và 1682, có quỹ đạo giống nhau và chỉ là một thiên thể. Cứ khoảng 74 - 76 năm thì sao chổi lại quay trở lại gần Mặt trời và được nhìn thấy từ Trái Đất. Ông tiên đoán là sao chổi này sẽ trở lại năm 1758.
Đúng hôm lễ Giáng sinh năm đó, sao chổi hiện lên bầu trời, nhưng tiếc thay ông đã mất trước và không được biết là tiên đoán của ông được xác minh. Sao chổi này được đặt tên là sao chổi Halley để ghi nhớ thành tích khoa học của ông. (Wikipedia)
Chưa có tài liệu nào xác nhận sao chổi Halley đã dẫn dắt ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Nhưng điều quan trọng là các nhà chiêm tinh đã tìm được Đấng Cứu Thế, sau cuộc ra đi gian nan, đầy thách đố. Đó cũng là cuộc hành trình đức tin của từng Kitô hữu thiện tâm.
Tỉnh thức
Chẳng lẽ không có ai, ngoài ba nhà chiêm tinh dân ngoại, nhìn thấy một ngôi sao bỗng dưng rực sáng trên bầu trời? Hẳn nhiên có nhiều người Do Thái cùng nhìn thấy, nhưng chắc chắn chẳng thể nào hiểu được dấu chỉ Đấng Messia nhập thế. Như thế, để có thể giải mã được dấu chỉ của Thiên Chúa, tiên quyết cần thành tâm, ao ước, khao khát Đấng Cứu Thế với tinh thần nhạy bén, sẵn sàng và tỉnh thức. Đức Chúa Thánh Thần luôn rộng ban ơn Thông minh, ơn Hiểu biết cho những người thiện tâm. “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2, 2)
“Một hồi chuông, một ngọn tháp nhắc nhở con: Chúa đang ở trong Nhà Tạm gần con, lòng con nóng nảy, hướng đến thờ lạy, yêu mến Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 233)
Dấn thân
Các vị chiêm tinh không phái người hầu, kẻ hạ đi tìm Đức Giêsu, mà đích thân họ cất bước ra đi. Chẳng hề quản ngại lời dèm, tiếng chê, hay do dự vì cách trở, xa xăm, hiểm nguy, khó nhọc, họ dám lấy chính mạng sống đánh cược, can đảm, xông pha lên đường, liều lĩnh viễn du tìm Đấng Thiên Sai.
“Đã ra đi phải bất chấp lưỡi thiên hạ đàm tiếu. Ba Đạo sĩ ra đi, hy vọng gặp Chúa Cứu Thế, họ đã gặp; Phanxicô Xaviê ra đi, hy vọng cứu các linh hồn, ông đã gặp; Goretti ra đi, thoát cơn cám dỗ, hy vọng gặp Chúa, Chị đã gặp.” (Đường Hy Vọng, số 7)
Thử thách
Rồi bỗng dưng ngôi sao lạ biến mất, biết đâu mà lần? Biết đâu mà đi? Thách đố đã không hề thiếu trên con đường thiên lý tìm Chúa. Cạm bẫy, cám dỗ, lạc lối, trộm cướp, đạo tặc, ma quỷ, không thiếu. Bệnh hoạn, đuối sức, đói khát chẳng thiếu trong suốt hành trình. Nếu không vững niềm Tin, Cậy, Mến, làm sao các nhà chiêm tinh vượt qua nổi?
“Mất để được, chết để sống, từ để gặp. Ba Đạo sĩ liều hiểm nguy, chế nhạo. Phanxicô liều xa cha mẹ, mất của cải, thú vui. Goretti liều mạng sống.” (Đường Hy Vọng, số 8)
Tín thác
Dù mất dấu vết ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh vẫn không hề nao núng, lung lạc, ê chề thất vọng, bỏ cuộc, dang dở hành trình. Họ chủ động dò hỏi khắp nơi. Thậm chí vào cả hoàng cung, trực tiếp hỏi thẳng Vua Hêrôđê. Gián tiếp qua các thượng tế và kinh sĩ, họ tìm đến Kinh Thánh, Lời Hằng Sống, để được hướng dẫn đi đúng đường. Đây chính là chánh đạo để gặp được Đấng Cứu Thế. Họ đã hoàn toàn tín thác vào Lời Chúa. “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại.” (Mt 2, 9)
“Thành tín trên con đường con đi, Phêrô không nộp Chúa, không cáo Chúa, nhưng Phêrô không được một lời bênh Chúa, “Tôi không biết người ấy,” Phêrô muốn yên thân, khỏi liên lụy: Phêrô bỏ Chúa dọc đường và tháo lui.” (Đường Hy Vọng, số 46)
Vâng phục
“Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.” (Mt 2, 10) Hành động theo Lời Chúa đương nhiên gặp Chúa mọi nơi, mọi lúc. Khi các vị chiêm tinh nghe theo chỉ dẫn của Kinh Thánh qua lời các thượng tế và kinh sư, thì họ lại trông thấy ngay ngôi sao dẫn đường, thoát khỏi sự mù lòa, lầm lạc bi đát. Vâng phục luôn là đức tính quan trọng và cần thiết để tìm Chúa và theo Chúa.“Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.” (Mt 2, 12)Ba vị Chiêm tinh lần nữa tiếp tục vâng theo sứ thần, để được sống, thoát khỏi bàn tay nhuốm máu của vua Hêrôđê.
“Có người phục mà không vâng, có người vâng mà không phục, có người vâng và phục, vì thượng cấp”đúng điệu” với mình, có người vâng và phục vì Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 397)
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, khấn xin Người ban cho chúng con Đức Chúa Thánh Thần, để lửa Tin, Cậy Mến bùng cháy trong lòng chúng con, để Tình Yêu Chúa chiếm hữu hoàn toàn tâm can chúng con. Hầu chúng con luôn cố gắng, quyết tâm ra đi tìm Chúa, gặp Chúa và theo Chúa, vượt qua bao gian nan, thử thách cam go, như ba vị chiêm tinh ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đoái thương cứu giúp chúng con đang trầm luân trong thung lũng đầy nước mắt, đang lặn lội, mê muội, mù lòa, trong những cám dỗ phù phiếm thế gian. Mẹ là ngôi sao sáng giữa biển khơi mịt mù, xin dẫn dắt chúng con tìm đến Chúa Giêsu, cội nguồn ơn cứu rỗi. Amen.
44.Thừa kế
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lại Người".
Thừa kế là thừa hưởng một điều gì đó, chẳng hạn là gia sản. Thông thường, giữa người để lại gia sản và người được thừa kế gia sản đều có quan hệ thân tộc hoặc một mối ràng buộc nào đó. Tuy nhiên, đôi khi có quan hệ nhưng chẳng được nhận một thứ gì. Điều này không bất thường so với như việc chẳng quen chẳng biết, chẳng có dây mơ rể má gì mà lại được nhận thừa kế mới là chuyện đáng nói. Ấy vậy, chuyện ngược đời đó lại trên lại đúng cho trường hợp của chúng ta. Chúng ta được thừa hưởng một gia sản tuyệt vời từ những người không hề quen biết. Đó là đức tin từ các tông đồ. Thực sự phải nói là từ Đức Kitô.
Chúng ta được thừa kế không do công trạng của mình mà do tình yêu của Thiên Chúa. Nhờ việc thừa kế đó mà chúng ta trở nên có quan hệ huyết thống với các tông đồ và với cả Thiên Chúa nữa. "Trong Đức Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Eph 3, 6). Đây thật là một mầu nhịêm.
Trở lại lịch sử, Do thái là dân riêng của Chúa, là dân được Chúa tuyển chọn và lập giao ước. Có thể nói, mọi vinh quang danh dự Thiên Chúa đã dành hết cho dân tộc này. Nhưng trớ trêu thay, khi con Thiên Chúa làm người thì người Do thái là dân đầu tiên từ chối Thiên Chúa. Nên giờ đây, ơn cứu độ không còn chỉ cho dân Do thái nữa. Chúng ta thừa kế là như thế đó.
Khi ba đạo sĩ đến gặp Hêrôđê để hỏi thăm về nơi hạ sinh của Vua dân Do thái thì từ vua đến dân đều xôn xao, bối rối, cả thành Giêrusalem náo loạn lên. Hêrôđê bối rối không phải vì chợt tỉnh ra, thấy mình sao vô tâm để rồi tìm cách để đến bài thờ Vua cả trời đất. Một người độc ác như Hêrôđê nếu có bối rối thì tại vì hắn sợ ngai vàng của mình bị lung lai. Hắn sợ, bởi nếu đây là sự thật thì thời cuộc sẽ thay đổi, điều này đồng nghĩa hắn mất vương quyền. Còn chuyện dân chúng xôn xao thì cũng đáng để luận bàn lắm. Vì thật ra điều này đã được tiên tri Malakhia nói rồi: "Và người, Bêlem, đất thuộc Giuđa, hẳn ngươi không nhỏ bé trong hàng tướng lãnh Giuđa, vì bởi nơi ngươi sẽ xuất hiện vị thủ lãnh, Đấng chăn dắt Israel dân ta" (Mk 5,1-3). Nhưng tiếc thay khi điều đó xảy ra thì không có ai tỏ vẻ mừng vui. Cũng chẳng ai tha thiết đi tìm, đi kiếm mà thờ lạy chúc tụng vị thủ lãnh Israel đó. Ngoại trừ những mục đồng nghèo nàn, khốn khó.
Thế nên, cũng sẽ chẳng có dấu chỉ nào cho dân Israel mà điều này đựơc tỏ ra cho người ngoại giáo mãi bên Phương Đông. Căn cứ theo các lễ phẩm dâng Chúa Hài Đồng thì ba đạo sĩ này đến từ Babilon. Họ được gọi là những Magi - nhà hiền triết thông thạo thiên văn và nhiều sự khôn ngoan khác. Họ là dân ngoại nhưng với sự khao khát tìm chân lý, với lòng thành kính trước sự ra đời của một vị vương tử, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho họ.
Chúa Nhật Chúa Hiển Linh giúp ta tra vấn lại lòng tin của mình với Thiên Chúa. Chúng ta là dân thánh của Chúa nhờ phép rửa. Chúng ta giờ đây không là dân ngoại, nô lệ mà chúng ta con Cha trên trời, là "bạn hữu" của Đức Kitô. Thêm một lần mừng sinh nhật của Đức Giêsu là thêm một lần để ta vui mừng và hy vọng. Chúa giáng sinh không là lý do để chúng ta lo sợ. Đó là tâm trạng của người nô lệ. Họ sợ thời cuộc thay đổi sẽ ảnh hưởng đến sự bình yên của cuộc sống, họ sợ bị bấp bên, sợ liên luỵ trong cuộc đời.
Hãy lên đường theo sự hướng dẫn của Ánh Sao.
45.Hãy tỏa sáng - Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, đang khi vị linh mục giảng tĩnh tâm cho gần 500 tín hữu trong một hội trường rộng lớn về đề tài “Hãy làm gương sáng”, thì điện bị cúp trong toàn khu vực (cúp điện theo chiến thuật!). Cả hội trường chìm trong bóng tối.
Bấy giờ ngài bật lên một que diêm, giơ cao lên và cất tiếng hỏi: “Anh chị em có thấy ánh sáng từ que diêm nầy không?”
Mọi người trong hội trường đáp lại: “Thưa có”
Vị linh mục tiếp: “Dù bóng tối phủ dày nhưng chỉ cần ánh sáng của một que diêm thôi cũng đủ cho nhiều người chung quanh nhìn thấy. Như thế, ánh sáng của việc tốt, dù nhỏ bé thôi, cũng có thể tỏa ra trước mắt nhiều người trong một xã hội dẫy đầy bóng tối.”
Sau đó, ngài mời gọi những ai mang theo hộp quẹt trong túi, hãy bật cho lửa sáng lên. Nhiều người hưởng ứng. Thế là bóng tối bị đẩy lùi, cả hội trường sáng lên bởi rất nhiều ánh lửa nhỏ từ các hộp quẹt của những người hiện diện.
Bấy giờ vị linh mục tiếp: “Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện một việc tốt mỗi ngày thì cuộc đời chúng ta sẽ tỏa sáng như những đốm lửa trên tay chúng ta đây. Nhờ đó bóng tối của thói hư tật xấu và của tệ nạn đang bao trùm thôn xóm sẽ dần dần bị đẩy lùi.” (Phỏng theo một cốt truyện trên internet)
* * *
Hôm xưa, nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ rực sáng lên ở phương đông, các nhà chiêm tinh mới lần theo ánh sao, tìm đến thờ lạy Chúa Hài Nhi. Hôm nay, mỗi người tín hữu theo Chúa Kitô phải trở thành những ánh sao mới để dẫn lối cho bao người tìm về với Chúa.
Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia được trích đọc vào thánh lễ hôm nay vang lên như một lời mời gọi tha thiết, thúc giục chúng ta hãy toả sáng.
“Hãy đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả,
vinh quang Ngài xuất hiện trên ngươi.
Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” (Isaia 60,1)
Ngoài ra, qua thư gửi tín hữu Phi-lip-phê, thánh Phao-lô nhân danh Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tỏa sáng: “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ… anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời.” (Philip 2,15)
Phải tỏa sáng cách nào?
Trước hết là bằng cách phát huy nếp sống đẹp: đẹp trong lời ăn tiếng nói, đẹp trong cách cư xử giao tế với người chung quanh, nhưng đẹp nhất là có lòng bác ái, yêu thương, tôn trọng và sẵn sàng phục vụ những người chung quanh… Ai thực hiện được những điều đó, thì họ là những ánh sao dẫn đường về với Chúa, về với Chân Thiện Mỹ. Thế giới và xã hội rất cần những ngôi sao như thế để soi đường dẫn lối cho bao người.
Như giọt sương mai
Những giọt nước bẩn đọng lại đây đó trên những lá cây bên đường không thể tỏa ra chút ánh sáng nào; tuy nhiên những giọt sương mai còn đọng lại trên các ngọn cỏ lại trở nên long lanh tuyệt đẹp dưới ánh bình minh.
Vậy thì các tín hữu cần loại trừ khỏi cuộc sống mình những tệ nạn và thói hư tật xấu, bấy giờ tâm hồn họ sẽ trở nên trong sáng như những hạt sương mai.
Kế đó họ cần học hỏi và để cho Lời Chúa thấm đẫm tâm hồn. Một khi Tin Mừng Chúa Kitô được chiếu giọi tận đáy sâu tâm hồn thì Ánh Sáng Tin Mừng sẽ làm cho họ trở nên lấp lánh giữa cuộc đời, như ánh sáng mặt trời ngời sáng trên những giọt sương mai.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp chúng con tỏa sáng, dù không như ánh sao giữa bầu trời đêm thì ít nữa cũng như một cây nến sáng trong gia đình, để nhờ gương lành việc tốt của chúng con, gia đình, thôn xóm chúng con được bừng sáng, vì “gần mực thì đen, gần đèn ắt phải sáng”.
46.Hành trình đức tin - Lm Vũ Đình Tường
Có những chuyến đi mang tính lịch sử lâu dài, được trân trọng nhắc đến như chuyến lên mặt trăng đầu tiên vào thập niên sáu mươi của các phi hành gia Hoa Kì. Xa hơn nữa, lần ngược về quá khứ, là những cuộc hải hành của các nhà thám hiểm đi tìm đất mới. Những chuyến đi lừng danh đó nhiều khi được cả quốc tế biết đến nhưng bản chất của nó vẫn mang tính cách quốc gia. Mang tính cách quốc gia vì nó được chính quyền các quốc gia đó ủy thác trọng trách trong việc làm nên lịch sứ cho quốc gia họ. Hầu như lịch sử thế giới không phân biệt chuyến đi mang tính cách cá nhân, tự chi phí cho chuyến đi riêng của mình nhưng trân trọng ghi lại mọi chuyến đi làm lên lịch sử. Sau khi làm lên lịch sử, trang sử đó được gấp lại và chỉ mở ra khi cần tham khảo.
Tôn giáo hoàn toàn khác biệt với ghi nhận của lịch sử của nhân loại. Những chuyến đi xem ra tầm thường, hoàn toàn có tính cá nhân, riêng tư hay tình gia đình lại được để cập đến trong lịch sử ơn cứu độ. Đức trinh nữ Maria đi thăm người bà con thân thuộc là Elizabeth được ghi dấu trong lịch sử ơn cứu độ. Đây là chuyến đi hoàn toàn có tính cách cá nhân, gia đình lại trở thành mẫu mực cho việc thăm viếng, mang tin vui tới cho người mình thăm. Chuyến đi đền thờ cầu nguyện và con trẻ Jesu bị lạc mất ba ngày cũng ghi đậm nét trong lịch sử cứu độ và được công bố hàng năm trong lịch phụng vụ. Chuyến đi này hoàn toàn có tính cách gia đình, một gia đình thời đó vô danh, không mấy ai để í đến. Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông cũng là chuyến đi có tính cách cá nhân, cá biệt cũng được nhắc đến đầy đủ chi tiết. Vì thế những chuyến đi mang tính cách đức tin có chiều dài lịch sử dài hơn, chiều sâu sâu hơn là những chuyến đi mang tính cách khám phá đất mới hay tìm hiểu về khoa học. Chuyến đi vì đức tin có thể không được quảng bá rầm rộ trên báo chí hoặc truyền thông trong đại chúng nhưng những chuyến đi đó thường mang tính cách quốc tế nhiều hơn là tính cách quốc gia vì ở đâu có người chung niềm tin, ở đó những chuyến đi đó được mừng kính hàng năm để ghi nhớ dấu ấn đức tin của con người tin vào Thiên Chúa.
Chuyến đi của ba vị từ Phương Đông còn mang một í nghĩa quan trọng hơn đó là một chuyến đi tìm kiếm sự thật. Lòng họ ao ước bỏ công việc riêng, ra đi tìm hiểu rõ sự thật. Sự thật đó là ngày sinh của Đấng Cứu Thế. Với đại chúng mừng Giáng Sinh là mừng ngày Chúa sinh ra. Với ba vị đạo sĩ Phương Đông mừng Giáng Sinh khởi đẩu từ lúc gặp Chúa trong máng cỏ. Nói rõ hơn mừng Giáng Sinh là mừng ngày nhận biết Chúa tỏ mình ra cho con người. Theo í nghĩa đó thời điểm mừng Giáng Sinh khác nhau và kéo dài nhiều ngày sau ngày Chúa Giáng trần. Chúa tỏ mình ra cho nhiều nhóm khác nhau, đầu tiên là các mục đồng, sau đó là đến các vị đạo sỉ rồi ngày Chúa nhật lễ Thánh Gia thất, lễ Đức Mẹ là mẹ Thiên Chúa, lễ Chúa tỏ mình ra trong đền thờ và chấm dứt vào ngày lễ Chúa nhận phép rửa. Vì sau ngày này không còn đọc kinh Tiền Tụng Giáng Sinh nữa. Với các nhà làm thương mại Giáng Sinh chấm dứt khi không còn người trao đổi hàng hoá, quà cáp Giáng Sinh ế ẩm. Với Giáo Hội Giáng Sinh kéo dài theo í nghĩa
Con Người xuống thế làm người và ở giữa chúng ta.
Bất cứ khi nào Chúa tỏ mình ra thì í nghĩa Chúa Giáng Sinh lại sống lại trong cá nhân đó. Đừng mừng giáng Sinh theo tinh thần xem bắn pháo bông. Cần nhiều tuần tổ chức cho ngày đó nhưng pháo bừng sáng rồi tắt lịm trong năm mười giây. Chúng ta nói là mùa Giáng Sinh vậy mùa thường kéo dài vài ba tuần mới đúng í nghĩa của mùa.
47.Bày Mưu, Hoán Kế - Lm. Vũ Đình Tường
Bày mưu, hoán kế là việc làm của đầu óc. Sống yêu thương và tha thứ là đường lối của con tim. Đôi khi ta có chung kế hoạch nhưng đạt mục đích của kế hoạch chung lại khác nhau, tùy người. Bày mưu hoán kế đến từ trong đầu; ước mong đến từ con tim. Có thể nói Thiên Chúa tạo dựng bộ óc giúp ta nuôi thân nơi trần gian và ban cho con tim để con tim giúp tìm cách vào nước trường sinh. Vì thế đầu óc thường tìm hết kế này, cách khác tìm lợi nhuận cho riêng mình; trong khi con tim giúp chia sẻ tình thương. Vì hai đường hướng khác biệt mà có chiến tranh nội tâm. Một đàng là cách thức của khối óc; đàng khác là đường lối của con tim. Khi hai con đường đi ngược chiều, nội chiến xảy ra. Hai con đường đi cùng chiều, tâm hồn bình an. Khi đường lối đen tối khối óc thắng đường lối trong sáng của con tim thì khối óc biến con tim yêu thương thành con tim sỏi đá; Khi đường lối yêu thương con tim thắng đường lối khối óc thì khối óc đi theo đường chân lí, ánh sáng Phúc Âm. Khi không bên nào nhường bên nào thì đường ai nấy đi; óc theo đường của óc và ctim quyết theo đường riêng mình. Lúc đó chiến tranh lạnh xảy ra, đêm đến nghe tiếng con tim khuyên bảo, kêu gọi trở về con đường yêu thương. Khi khối óc từ chối, lâu ngày con tim mệt mỏi, tạm yên, nhỏ nhẹ hơn. Nó tạm đình chiến trong một thời gian, rồi sẽ trở lại. Đường lối của con tim là thế, kiên trì cho đến khi khối óc phải chào thua, lúc đó nó mới chính thức yên nghỉ. Tiếng nói nhỏ nhẹ trong tâm hồn đó được nhiều người biết đến là tiếng nói của lương tâm.
Đại diện cho đường lối đen tối và con tim sỏi đá là vua Hêrôdê bởi mục đích tối hậu của vua là tìm lợi ích cho riêng vua mà không loại trừ bất cứ âm mưu tàn ác nào, miễm âm mưu đó có lợi cho cá nhân vua. Chính vì thế mà vua không quan tâm đến tiếng than khóc nức nở của những người mẹ có con bị vua ra lệnh giết chết. Cái ngai vàng của vua quan trọng hơn sinh linh trẻ thơ. Nhà vua sống trong lo sợ, sợ mất ngai vàng, sợ mất chức tước, quyền hành nên vua ra lệnh giết tất cả các trẻ trai hy vọng giệt được ấu Chúa. Vua sợ một cách vô lí nhưng vì quá sợ nên vua không quan tâm đế dân. Vua để cho nỗi sợ hoành hành, quyết định. Vua dối trá với các nhà đạo sĩ đến hỏi vua làm sao để tìm ấu Chúa mới sinh. Miệng vua nói sẽ đi thờ ấu Chúa, thực tế lòng vua lo sợ và nghĩ kế tìm cách giết ấu Chúa.
Đại diện cho đường lối trong sáng và con tim yêu thương là ba nhà đạo sĩ bởi mục đích tối hậu của họ là đi tìm ấu Chúa để thờ lậy. Họ không ngại từ bỏ ngai vàng, ra đi, dấn thân tìm ấu Chúa. Dù ra đi tìm kiếm nhưng tâm hồn họ thanh thản, thân xác có mệt mỏi vì đường xa, xứ lạ nhưng an tâm, ấm lòng, đầy hy vọng. Họ mang theo lễ vật dâng tiến ấu Chúa nhưng họ nhận nhiều hơn là cho đi. Nhờ sao lạ dẫn đường họ đã tìm gặp ấu Chúa, thờ lậy xong họ được báo trong giấc mộng hãy theo đường khác mà về. Con đường đó lại được sao lạ đi trước dẫn đường. Chúng ta không biết họ đến từ nước nào, vương quốc họ ở đâu. Họ đến từ nơi xa vì nhận được dấu lạ, sao sáng dẫn đường. Họ đại diện cho tâm hồn trong sáng, tìm kiếm ánh sáng chân lí và tìm được. Hêrôđê cũng tìm kiếm nhưng không gặp ấu Chúa bởi lòng ông chai đá, tâm hồn thiếu ngay thẳng và đầu óc đen tối vì thế không thể nhìn thấy ánh sáng. Vua sống trong thất vọng, triền miên lo sợ. Thiên Chúa bằng cách riêng của Ngài, nhẹ nhàng phá tan mọi âm mưu đen tối mong phá kế hoạch của Ngài. Họ thất bại nhưng mắt vẫn không nhận ra vì thế họ tiếp tục sống trong bóng tối.
48.Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hê-rô-đê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến gặp vua Hê-rô-đê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Ngài xuất hiện bên phương đông, nên chúng tôi đến bái lạy Ngài" thì vua Hê-rô-đê hết sức ngạc nhiên và bối rối vì không hay biết gì về sự việc này (Mt 2, 2).
Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô có thể sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2, 4-6).
Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra nơi quê mùa heo hút, tại Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.
Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh thánh soi chiếu mà vua Hê-rô-đê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Ngài, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Ngài. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Thánh vịnh 119, câu 105).
Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu?
Ở nơi mà không mấy ai ngờ: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ!
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện Hê-rô-đê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Hôm nay cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường... nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: “Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con trong gia đình.”
Qua dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một tấm áo, thì Chúa nói là họ đã cho Ngài mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giê-su tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, Chúa Giê-su khẳng định rằng Ngài là một với mỗi người chung quanh; Ta làm gì cho họ là làm cho chính Ngài. (xem Mt 25, 31-46)
Khi chưa nhận biết Đức Giê-su là Thiên Chúa, Sao-lô ra tay bách hại các môn đệ của Ngài dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đa-mát và có tiếng Chúa Giê-su vang lên giữa thinh không: “Sao-lô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Phao-lô hết sức kinh hoàng: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Có tiếng từ trời đáp: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó, Sao-lô (tức thánh Phao-lô tông đồ) mới giác ngộ rằng các tín hữu cũng chính là Chúa Giê-su, bắt bớ họ là bắt bớ chính Chúa.
Lạy Chúa Giê-su,
Chính những lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng con biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng con, để chúng con đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Chúa.
Lễ vật của chúng con không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc những người đau khổ chung quanh chúng con.
Chúng con hy vọng Chúa sẽ vui nhận những lễ này và chúc lành cho chúng con.
49.Ánh nến toả sáng trong gia đình
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Giữa ban ngày, chỉ cần một tấm bảng nhỏ vẽ mũi tên chỉ đường cũng đủ để giúp bộ hành tìm được hướng đi, nhưng giữa đêm đen, dù có cả một rặng núi sừng sững được sử dụng như tín hiệu chỉ đường, cũng không ai nhận thấy. Trong khi đó, chỉ cần một ánh sáng le lói giữa màn đêm cũng đủ để cho khách bộ hành tìm thấy mục tiêu cần tiến đến. Trong đêm tối, một đốm sáng nhỏ có khả năng dẫn đường chỉ lối hơn cả một ngọn núi cao.
Chính vì thế, khi Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa đã cho xuất hiện một ánh sao đặc biệt giữa bầu trời đêm để soi dẫn cho ba nhà chiêm tinh từ phương Đông đến gặp Chúa Cứu Thế. Nhờ ánh sáng của ngôi sao lạ nầy, ba nhà chiêm tinh mới có thể tìm gặp Hài Nhi Giêsu mới hạ sinh.
Đoạn Tin Mừng Matthêu (2, 1-12) trích đọc trong phụng vụ lễ hiển linh mời gọi chúng ta trở thành những ngôi sao nhỏ để dẫn đưa anh chị em lương dân đến với Chúa. Nói cách khác, Lời Chúa mời gọi chúng ta làm ánh sáng chỉ đường cho lương dân.
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ I-sa-i-a mà phán dạy dân Người: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi mang ơn cứu độ của Ta đến tận cùng trái đất." (Is 49,6)
Chúa Giêsu cũng trao sứ mạng nầy cho các môn đệ: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian... ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ..." (Mt 5, 14):
Và Thánh Phaolô tiếp tục kêu mời chúng ta: "Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời." (Pl 2,15)
Ít ra, xin được là ánh nến toả sáng trong gia đình
Trở nên ánh sáng soi đường là một sứ mạng tuy cao trọng nhưng đầy khó khăn nên không ai muốn đảm nhận. Tuy vậy, là con cái Chúa, không ai được quyền thoái thác chối từ. Mấy câu thơ sau đây của thi sĩ Éliot sẽ khích lệ chúng ta:
"Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng giữa trời,
Thì hãy là ánh lửa non cao.
Nếu bạn không thể là ánh lửa non cao,
Xin hãy làm ánh nến toả sáng trong gia đình."
Có lẽ chúng ta không dám làm ngôi sao sáng giữa trời, vì thấy mình yếu đuối và tội lỗi. Có thể chúng ta cũng chẳng dám mơ ước trở thành một ánh lửa non cao cho nhiều người từ phương xa nhìn tới. Vậy thì ít ra, xin cho mỗi người chúng ta cố sức trở thành một ánh nến toả sáng trong gia đình. Ánh nến nầy rất quan trọng vì 'gần mực thì đen và gần đèn ắt phải sáng.' Ánh sáng của cuộc đời mẫu mực nơi người cha, người mẹ toả chiếu trên con cái chắc chắn sẽ làm cho con cái được nên người. Và ngay cả ánh sáng của con cái cũng có thể làm cho cha mẹ nên sáng.
Sự kiện sau đây minh chứng điều nầy:
Ngày 12 tháng 12 năm 1999, tôi ban bí tích rửa tội cho hai em nhỏ. Người chị là Têrêxa Huỳnh thị Bích Hằng, mười lăm tuổi, còn người em là Maria Huỳnh thị Bích Nga, mười hai tuổi. Vì hai em mồ côi cha mẹ sớm, chẳng được học hành, nên được gia đình người cô ruột thương tình đem về nuôi.
Điều oái oăm là cô dượng của hai em tuy là người có đạo nhưng không mấy khi bước đến nhà thờ. Mỗi tối, gia đình nầy bán phở đến 12 giờ đêm. Hai người cháu cũng lo phục dịch đến giờ ấy.
Thế rồi từ ngày hai cháu được dẫn đến nhà thờ, được các nữ tu dạy cho biết Chúa và giáo lý, hai cháu bỗng nhiên yêu mến Chúa cách nhiệt tình và yêu thích học giáo lý cách đặc biệt. Cứ mỗi ngày chúa nhật, hai cháu cảm thấy mừng vui rộn rã trong lòng vì được đến với Chúa. Lòng nhiệt thành của hai cháu đã làm bừng lên nhúm đức tin như tro tàn nguội lạnh trong lòng cô dượng. Thế rồi cô dượng cũng sốt sắng đi thờ phượng Chúa trong các ngày chúa nhật, sau khi đã vắng bóng ở nhà thờ gần đến mười năm! Người cô nói với tôi: "Thấy hai cháu sốt sắng quá, thét rồi hai vợ chồng con cũng sốt sắng lây."
Hai cháu đúng là hai ánh nến nhỏ trong gia đình đã chiếu soi cho Cô Dượng.
Vậy giờ đây chúng ta cùng cầu nguyện với Chúa Giêsu bằng lời thơ của thi sĩ Éliot:
"Lạy Chúa, nếu con không thể là ngôi sao sáng giữa trời,
Thì xin hãy là ánh lửa non cao.
Và nếu con không thể là ánh lửa non cao,
Xin cho con được làm ánh nến toả sáng trong gia đình."
50.Ánh sao chỉ đường
Ngày xưa, lúc chưa có la bàn, các thủy thủ hay ngắm sao trời để định hướng đi. Vào thời CG, người ta cũng hay dựa vào việc chuyển động của các ngôi sao để dự đoán về chuyện đất trời liên quan đến sự sống của nhân loại. Các nhà chiêm tinh mà chúng ta quen gọi là Ba Vua hôm nay cũng dựa vào điềm sao để tìm đến với Hài Nhi Giêsu.
Thực sự ra, ngôi sao chỉ đường cho Ba Vua đến yết kiến Ấu Chúa Giêsu ra sao? Một nhà khoa học nói rằng: vào khoảng năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng lạ thường xảy ra trên bầu trời. Đó là hai ngôi sao Jupiter và Saturn năm đó sáp lại gần nhau tạo ra sự cộng hưởng ánh sáng, khiến cho vầng trời đông có một luồng sáng khác thường và kéo dài suốt mấy tháng. Chúng ta không sống vào thời điểm đó nên không biết có phải đó là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi hay không. Nhưng có một điều chắc chắn là Chúa Giêsu đã đến trần gian. Ngài là ánh sáng Sự Thật chiếu soi cho nhân loại đang sống trong u tối. Ngài đến để cứu nhân loại khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Và hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Hiển Linh, tỏ mình ra cho Ba Vua đại diện cho muôn dân đến thờ lạy và dâng lễ vật quý giá lên Hài nhi Giêsu. Tuy nhiên, có một điều đáng tiếc là vua Hêrôđê đang coi sóc miền Giuđêa, trong đó có làng Bêlem lẽ ra phải thông báo cho dân chúng về việc Đấng Cứu Thế ra đời để mọi người cùng tháp tùng với Ba Vua đến chiêm bái Chúa. Đàng này, vua âm thầm giữ lấy tin tức này một mình và hơn nữa lại nuôi ý đồ mưu sát Đấng cứu thế.
So sánh việc làm của Hêrôđê và Ba vua cho thấy loài người có hai thái độ khác nhau trước ơn cứu độ. Nhiều người vui mừng vì Chúa đã đến dạy cho mình điều hay lẽ phải để con người sống thanh cao, thánh thiện, xứng đáng trở nên con cái Chúa. Một số khá đông khác lại muốn khước từ chân lý, muốn sống trong bóng tối của sự giả trá, mê lầm. Họ muốn tạo lập một thế giới riêng, và bỏ qua tiếng nói của lương tâm, họ chỉ sống theo sở thích, chiều theo những dục vọng đam mê của bản năng.
Ánh sáng thật đã đến trần gian nhưng người đời chuộng tối tăm hơn sự sáng. Trong thời đại hôm nay, người ta cổ võ cho nền văn minh của bóng tối và họ cho đó là tự do: tự do làm điều xấu mà không ai dèm pha, rầy rà, người ta nhân danh quyền lợi của cha mẹ để tiêu diệt con cái mình từ trong trứng nước, sẵn sàng giết con ruột của mình lúc chưa kịp chào đời; người ta nhân danh tự do để quan hệ ngoài giá thú, trước hôn nhân... Và để lương tâm không cắn rứt khi làm những việc xấu đó họ đã lạm dụng các phương tiện thông tin đại chúng nhất là phim ảnh để làm lương tâm giảm nhạy bén về những tội này và tất cả mọi người cùng lầm lạc như họ. Có những người đang cố ý gieo rắc và cổ võ điều xấu, trong khi đa số loài người thì thờ ơ và không kiên quyết chống lại sự ác nên cũng gián tiếp làm cho sự ác lan tràn cách mau chóng.
Hêrôđê ngày xưa và thế gian ngày nay có xu hướng dập tắt ánh sáng chân lý để mọi người tiếp tục sống trong mù tối và đi vào con đường của sự chết. Đứng trước nền văn minh của bóng tối đó, Kitô hữu chúng ta hãy là những ngôi sao dẫn đường cho những ai thành tâm tìm chân lý được nhận biết Chúa và sống theo lời người để được ơn cứu độ. Mỗi người chúng ta hãy là những ánh sao ở tại nơi mình sống. Mỗi người hãy tỏ lòng kính mến Chúa và yêu thương mọi người, từ thân nhân trong gia đình mình đến những người xung quanh đang cần chúng ta giúp đỡ. Nếu chúng ta biết chân thành yêu thương, hiền hòa, bác ái, thì chúng ta thật sự là những ánh sao dẫn đưa mọi người tìm đến với Chúa để được ơn cứu độ.
51.Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chính những Lời Chúa dạy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm chúng ta.
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2, 2)
Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2, 4-6)
Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.
Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Người, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119, câu 105)
Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? - Ở nơi mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ!
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện Hêrôđê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường... Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia đình."
Qua dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người. (xem Mt 25, 31-46)
Khi chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Phaolô ra tay bách hại các môn đệ của Người dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đamát và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: "Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó, Sao-lô (tức thánh Phaolô tông đồ) mới nhận ra các tín hữu cũng chính là Chúa Giêsu nên người thường nhắc nhở mọi người ghi tâm khắc cốt lời nầy: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).
Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.
Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta. Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Ước gì chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Người.
52.Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lễ Chúa Hiển Linh là cao điểm của mùa Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy niệm Lời Chúa về ý nghĩa của biến cố Ngôi Hai làm người sinh xuống và ở giữa nhân loại. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế giới luôn luôn là một dấu chỉ, một ngôn ngữ để Thiên Chúa nói với loài người. Vậy qua biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa muốn tỏ mình ra, muốn “lộ diện” với nhân loại, để nhân loại thấy được Thiên Chúa vô hình và kế hoạch ân sủng của Người (xem Ga 1,18).
1. Vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is 60,1-6)
Qua cái nhìn của ngôn sứ Isaia, Giêrusalem không còn là thủ đô của dân tộc nhỏ bé Ít-ra-en nữa, nhưng nó đã trở nên “đô thành của Thiên Chúa” và trung tâm cứu độ của toàn thể thế giới rồi. Từ bao lâu nay, thế giới nằm dưới ách thống trị của bóng tối và mây mù tội lỗi. Tình trạng của Giêrusalem cũng không hơn gì thế giới, vì cũng ở trong tối tăm và chẳng dân tộc nào nhận ra nó. Nhưng khi Giêrusalem được mặt trời công chính ngự đến thì chỗ đứng của nó hoàn toàn thay đổi. Giêrusalem đã được chọn làm nơi “vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa”. Vì thế ngôn sứ kêu gọi Giêrusalem hãy đứng cao lên để toàn thế giới nhận được ánh bình minh của Đức Chúa. Giêrusalem sẽ chứng kiến tầm quan trọng của nó vì nó trở nên nguồn sáng lôi cuốn và hướng dẫn toàn nhân loại đến một vương quốc mới.
Ngôn sứ Isaia sử dụng hình ảnh giàu có phong phú của một quốc gia trần thế để diễn tả một thực tại thiêng liêng là vương quốc ân sủng của Thiên Chúa. Theo quan niệm Do-thái, một quốc gia hùng mạnh là quốc gia đông dân cư và giàu sang, với của cải vàng bạc từ các nước thiên hạ đổ về qua đường biển, hoặc qua đường bộ và chở đầy trên lưng đàn lạc đà không sao đếm xuể. Hình ảnh ấy tượng trưng cho sự sung mãn ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại khi Con Một xuống thế làm người tại Giêrusalem mới. Muôn dân nước “đều tập hợp, kéo đến” để nhìn nhận “vinh quang của Thiên Chúa”.
Nhưng vinh quang của Thiên Chúa phải chăng là quyền năng cao cả của Người? Đúng vậy. Tuy nhiên hơn thế nữa, quyền năng cao cả ấy được biểu hiện qua việc làm yêu thương của Thiên Chúa khi Người ban cho ta Con Một. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (l Ga 4,9). Thiên Chúa có cả một kế hoạch để chiếu tỏa vinh quang của Người trên Giêrusalem mới, tức là kế hoạch ân sủng được thực hiện một cách lạ lùng qua Đức Giêsu Kitô và thánh Phaolô Tông đồ gọi đó là Mầu nhiệm Đức Kitô.
2. Mầu nhiệm Đức Kitô được mặc khải cho cả Ít-ra-en lẫn dân ngoại (bài đọc Tân Ước – Ep 3,2-3a.5-6)
Thần học gia Phaolô cho ta một cái nhìn thật rõ ràng về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kế hoạch cứu độ, những từ này nói lên công việc Thiên Chúa làm và sự rỗi của ta là đối tượng của công việc ấy. Những từ này nhấn mạnh về phía Thiên Chúa chủ động. Nhưng đối với thánh Phaolô, việc cứu rỗi không phải là việc làm của mình Thiên Chúa, mà còn phải có sự đáp trả của ta. Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ, nhưng ta là kẻ được lãnh nhận cần phải cộng tác tích cực, sử dụng ân sủng đó để sống như con cái Thiên Chúa hầu đạt tới mức sung mãn trong Đức Kitô. Do đó, thánh Phaolô gọi kế hoạch đó là “kế hoạch ân sủng”, vì Đấng ban ân sủng cũng như những kẻ lãnh nhận ân sủng sẽ cùng cộng tác với nhau mà đến với nhau và làm cho quan hệ đôi bên được vững bền muôn đời. Ta không thể tưởng tượng nổi tại sao Thiên Chúa lại chọn cách thế như vậy để đến với nhân loại và cứu độ con người. Quả thực là một mầu nhiệm! Trong tiếng La-tinh, mầu nhiệm cứu độ thường được gọi là “kế hoạch cứu độ” (economia salutis). Mầu nhiệm này được Thiên Chúa tỏ ra và thực hiện qua Đức Kitô nên thánh Phaolô gọi là “Mầu nhiệm Đức Kitô”.
Thánh Phaolô cho ta một định nghĩa đầy đủ về mầu nhiệm này. “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3,6).
Vậy Thiên Chúa muốn tỏ cho ta biết những gì qua “Mầu nhiệm Đức Kitô”? Có ba điểm cốt yếu trong chân lý mầu nhiệm này. Trước hết Thiên Chúa muốn mọi người không trừ ai, Do-thái cũng như dân ngoại, đều được cùng hưởng phần phúc gia nghiệp của Người, tức là lời hứa được cứu độ. Mầu nhiệm Đức Kitô khẳng định tính cách phổ cập của ơn cứu độ. Dù thuộc bất cứ dân tộc nào, nền văn hóa nào, hoặc giai cấp nào trong xã hội mọi người đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì đây là kế hoạch ân sủng dành cho tất cả nhân loại. Nhờ chia sẻ cùng một bản thể nhân loại với Đức Kitô nên ta được mời gọi lãnh ân sủng Thiên Chúa ban cho ta trong Đức Kitô.
Điểm thứ hai mầu nhiệm Đức Kitô cho ta thấy vai trò quan trọng của Đấng thực hiện kế hoạch ân sủng là Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa không đặt kho tàng ân sủng cứu độ ấy ở trên trời hay một địa điểm đặc biệt nào đó dưới thế gian, vì như thế làm sao con người có thể tìm kiếm được. Nhưng Người đặt nguồn ơn cứu độ ấy “trong Đức Kitô Giêsu”, Đấng được Chúa Cha sai đến “làm người để chuộc tội cho thiên hạ” (Rm 8,3). Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, cho nên khi Đức Kitô thực hiện kế hoạch ân sủng cứu độ qua bản thể nhân loại và bản thể Thiên Chúa của Người, thì tất cả những lời giảng, việc làm, cái chết và sự phục sinh của Người đều có giá trị của Thiên Chúa và có khả năng cứu độ mọi người. Người chịu cuộc Thương Khó, chết và sống lại, để được Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm anh cả của một đoàn em đông đúc, tức là nhân loại mới (Rm 8,29).
Điểm thứ ba nói lên phương thức giúp mọi người nhận biết và tin vào Đấng Cứu Độ. Đó là “nhờ Tin Mừng”. Tin Mừng cứu độ này “những người thuộc các thế hệ trước”, tức là các vị ngôn sứ thời Cựu Ước, không có diễm phúc biết tới. Chỉ có các thánh Tông đồ mới là những người được biết và được Thiên Chúa trao phó cho nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng ấy. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nói về sứ vụ rao giảng Tin Mừng như sau: “Thế nhưng làm sao người ta kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?... Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn sứ Isaia đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng? Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,14-17).
3. “Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Người” (bài Tin Mừng – Mt 2,1-12)
“Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng”, thánh Phaolô đã phải cay đắng nói lên sự thật phũ phàng ấy. Thánh Gio-an Tông đồ cũng đồng quan điểm khi ngài khẳng định ngay trong lời tựa sách Tin Mừng: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Câu truyện các nhà chiêm tinh phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu trong khi vua Hê-rô-đê bối rối và dân thành Giêrusalem xôn xao đã chứng thực điều các thánh Tông đồ khẳng định là một sự thật. Chúa Giêsu Kitô được sai đến để cứu độ mọi người và mọi người được mời gọi đón nhận Người, đó là một tin mừng. Nhưng người ta từ chối không tin nhận Người là Đấng Cứu Độ. Như thế Tin Mừng đã trở thành tin buồn đối với họ rồi.
Rõ ràng có hai lớp người khác nhau theo câu truyện trong bài Tin Mừng. Các nhà chiêm tinh đại diện cho những người tin vào Đức Kitô, còn vua Hê-rô-đê và dân Giêrusalem thay mặt cho những kẻ chối bỏ Đức Kitô. Gặp được Đức Kitô, các nhà chiêm tinh đã thay đổi cuộc đời mình. Hình ảnh các ông “đi lối khác mà về xứ mình” thật có ý nghĩa. “Lối khác” đây chính là con đường Đức Kitô dạy trong Tin Mừng của Người. Còn “xứ mình” không phải là phương Đông nữa, mà là quê hương đích thực của họ, tức nhà Cha trên trời.
Bài Tin Mừng là một kết luận của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặt ta trong tư thế phải trả lời dứt khoát: tin Đức Kitô và đón nhận ân sủng cứu độ, hay là chối bỏ Người và hư mất đời đời.
4. Sống Lời Chúa
Thiên Chúa yêu thương ta và muốn tỏ cho ta biết Người yêu thương ta đến ngần nào. Qua biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Người là ai và muốn làm gì để ta được làm con cái Người và được cứu độ. Điều đáng mừng nhất, đó là ơn cứu độ đã được ban cho mọi người không trừ ai. Dĩ nhiên ta không phải là người Do-thái, nhưng cũng không bị loại bỏ, trái lại được quyền đến chia sẻ cùng một gia nghiệp của Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng là ta có thực lòng và hăng hái đón nhận Đức Kitô như các nhà chiêm tinh phương Đông hay không.
Suy nghĩ: Các nhà chiêm tinh “đã đi lối khác mà về xứ mình”. Các vị ấy đã từ bỏ lối sống cũ để đi theo lối sống của Đức Kitô. Vậy lối sống cũ của tôi là lối sống nào? Ngôi sao tức là Ánh Sáng Tin Mừng đã soi lối cho tôi bước đi. Vậy tôi có đi theo Ánh sao ấy không hay vẫn “đường xưa lối cũ” từ bao năm nay?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Chúa Hiển Linh).
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam