Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 73
Tổng truy cập: 1361481
HÃY ĐẾN CÙNG TA
Phụng Vu Chúa Nhật XIV Thường Niên năm A này trổi lên cung giọng hân hoan. Bài Đọc I và Tin Mừng ca ngợi giá trị cao cả của con người. Bài Đọc II ca mừng cuộc chiến thắng của Thần Khí trên xác thịt, sự sống trên sự chết.
Dcr 9: 9-10
Bài Đọc I, được trích từ sách Da-ca-ri-a, là một lời mời gọi hãy vui lên, được gởi đến dân thành Giê-ru-sa-lem, vì Vua của họ sẽ trở lại viếng thăm họ, cỡi trên một con lừa con: Vua Mê-si-a là một vị vua khiêm tốn và hòa bình.
Rm 8: 9, 11-13
Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô công bố rằng người Ki-tô hữu sống theo Thần Khí thì chiến thắng tính xác thịt và tội lỗi, vì Thần Khí là sự sống và là sự sống lại.
Mt 11: 25-30
Đoạn Tin Mừng Mát-thêu là bài “thánh thi ngợi ca”. Đức Giê-su vui mừng vì Cha Ngài mặc khải những điều bí nhiệm của mình cho những người bé mọn và khiêm hạ.
BÀI ĐỌC I (Dcr 9: 9-10)
Bản văn này được trích dẫn từ phần thứ hai của sách Da-ca-ri-a, nhưng tác giả không phải là ngôn sứ Da-ca-ri-a. Ngôn sứ Da-ca-ri-a thật sự sống vào thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên vào thời kỳ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết (521-515 trước Công Nguyên) sau thời lưu đày Ba-by-lon. Trong khi phần thứ hai của sách mang tên của vị ngôn sứ thì khoảng hai thế kỷ sau đó. Phần này bao gồm từ chương 9 đến chương 14 được gán đúng hơn cho nhiều tác giả dưới danh xưng là Da-ca-ri-a đệ nhị. Tác phẩm hỗn hợp này quy tụ nhiều mảnh văn khác nhau, vô danh và không có niên biểu. Nó được định vị vào thời kỳ giữa truyền thống ngôn sứ biến mất và sự khai sinh các sách khải huyền. Vào lúc đó, người ta đọc lại những tác giả thời quá khứ, giải thích và làm mới lại sứ điệp của họ. Bản văn mà chúng ta đọc thì đầy những hồi ức của I-sai-a, Xô-phô-ni-a, Mi-kha, hai sách Các Vua, vân vân.
Đề tài về Đấng Thiên Sai nối kết những yếu tố rời rạc giữa chúng. Đấng Thiên Sai được tuyên sấm qua ba dung mạo, cả ba dung mạo này đều có âm vang lớn lao mà các tác giả Tin Mừng: 1- dung mạo vị vua thiên sai, khiêm hạ và hòa bình; 2- dung mạo người mục tử nhân lành bị các lãnh tụ của dân Ngài loại bỏ; 3- sau cùng dung mạo của một Đấng Bị Đâm Thâu mầu nhiệm.
Trong phần thứ nhất này, bản văn gợi lên cho chúng ta dung mạo của Vua Thiên Sai:
*1.Vua Thiên Sai tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem:
“Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng rao hò!
Vì kìa Đức Vua đến với ngươi” (Dcr 9: 9)
“Thiếu nữ Xi-on” và “thiếu nữ Giê-ru-sa-lem” là hai diễn ngữ Do thái được dùng để chỉ dân cư thành thánh Giê-ru-sa-lem và ngọn đồi Xi-on.
Bài hoan ca, loan báo Vua Thiên Sai ngự đến, được gợi hứng bởi những tiếng hoan hô phụng vụ tán dương vương quyền của Đức Chúa. Các Thánh Vịnh cung cấp nhiều ví dụ như Tv 47: 2:
“Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!
Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy,
là Vua Cả thống trị địa cầu”.
Hay Tv 95: 1-3:
“Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa,
tung hô Người là Núi Đá độ trì ta,
vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ,
cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.
Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả,
là Đại Vương trổi vượt chư thần”.
Ngôn sứ Xô-phô-ni-a cũng đã tán dương các thánh thi phụng vụ này như vậy rồi:
“Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on,
hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi.
….
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa” (Xp 3: 14-15).
*2.Ngài là Vua khiêm tốn:
Vị vua tương lai này sẽ là “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Năng”. Tác giả lấy lại những phẩm chất quen thuộc trong truyền thống thuần túy về trào lưu Vua Thiên Sai (x. I s 9: 6; 11: 4; 16: 5; Gr 23: 5; vân vân). Tuy nhiên, danh xưng “Đấng Chính Trực” gợi lên sự thánh thiện của Ngài hơn là phẩm chất của Đấng Thiên Sai Thẩm Phán; còn về danh xưng được dịch “Đấng Toàn Năng”, theo nguyên ngữ có nghĩa “được giải thoát khỏi những thù địch của Ngài”. Tác giả ghi nhận sự toàn năng, vì ông muốn nhấn mạnh một phẩm chất cốt yếu khác của Vua Thiên Sai: đức khiêm tốn.
“Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa hãy còn theo mẹ” (Dcr 9: 9)
Con lừa là con vật mà các vị lãnh tụ thời xưa của dân Ít-ra-en cỡi, sau đó được thay thế bởi con ngựa vì cần thiết cho chiến binh xung trận. Thường dân vẫn cỡi lừa.
Bản văn của Da-ca-ri-a đệ nhị này là bản văn Cựu Ước duy nhất – không kể đến những gợi ý của Người Tôi Trung – trình bày Đấng Thiên Sai ngự đến dưới những đường nét của một nhân vật rất mực khiêm tốn. Sấm ngôn này sẽ được thực hiện bởi Đức Giê-su, Ngài tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên một con lừa con trong tiếng reo mừng hân hoan của đám đông.
*3.Ngài là Vua bình an:
“Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ép-ra-im,
và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem;
cung nỏ chiến tranh sẽ bị bẻ gãy” (Dcr 9: 10).
Tác giả muốn nói rằng kỷ nguyên Mê-si-a sẽ là kỷ nguyên của sự thống nhất hai vương quốc. Ngài là Vua đem lại bình an, vì thế, tất cả bộ máy chiến tranh sẽ bị hủy bỏ. Nhiều ngôn từ nhắc nhớ nhiều bản văn Kinh Thánh: ngôn sứ Hô-sê đã loan báo:
“Trong ngày đó, vì dân Ta,
….
Ta sẽ bẻ gãy cung nỏ gươm đao,
chấm dứt chiến tranh trên toàn xứ sở,
và Ta sẽ cho chúng được sống yên hàn” (Hs 2: 20).
Chúng ta cũng đọc thấy tại Mi-kha:
“Ta sẽ cho ngựa của ngươi biến khỏi xứ,
sẽ hủy diệt xe trận của ngươi” (Mk 5: 9).
Hòa bình phải là điều thiện hảo tuyệt mức của thời Thiên Sai. Vua Thiên Sai “sẽ công bố hòa bình cho muôn dân” (Dcr 9: 10). Diễn ngữ này hoàn toàn kinh điển như Is 57: 19: “Bình an! Bình an cho khắp xa gần!” (x. Tv 46 và 72), tức là bình an cho cả dân Do thái (dân ở gần) lẫn muôn dân (dân ở xa). Đó cũng là vai trò của Người Tôi Trung là trở nên ánh sáng muôn dân và đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.
Bất chấp cái mâu thuẫn bên ngoài, Đấng Thiên Sai hòa bình sẽ mở rộng vương quyền của Ngài trên một lãnh địa rộng lớn:
“Người thống trị từ biển này qua biển nọ,
và từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Dcr 9: 10).
Được hiểu sát từ, những lời tiên báo này đặt nền tảng trên những niềm hy vọng của dân Chúa chọn vào sự khôi phục nền quân chủ thời Đấng Thiên Sai. Đây là niềm mơ ước bền bỉ mà Chúa Giê-su sẽ còn gặp phải khi các môn đệ hỏi Ngài sau biến cố Phục Sinh: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1: 6). Nhưng đó không là viễn cảnh của vị ngôn sứ, ông đã để cho hiểu rằng “sự thống trị” của vị vua hòa bình sẽ không thuộc lãnh vực trần thế.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 9, 11-13)
Với một lập luận vững chắc, thánh Phao-lô đã cho thấy rằng Thần Khí đang hoạt động ở nơi biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô, bởi vì Thần Khí là nguồn sống, Ngài bảo đảm cùng một sự sống lại cho con người phải chết của chúng ta, ở đó Ngài thiết lập chỗ ở của Ngài.
Sau khi đã gợi lên sự nghèo nàn về phương diện luân lý của nhân loại dưới quyền lực của tội lỗi, khởi đi từ chương 8 của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô phác họa đời sống mới của người Ki-tô hữu: được Chúa Ki-tô công chính hóa, từ nay họ sống dưới quyền lực của Chúa Thánh Thần.
Trong một phản đề mạnh mẽ, thánh Phao-lô đối lập bản tính yếu đuối và tội lỗi của con người mà thánh nhân gọi “tính xác thịt” với bản tính được ân sủng đổi mới thì sống theo tác động của Thần Khí. Ở đây chúng ta nên lưu ý rằng thánh Phao-lô liên tục nói về Thần Khí của Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Ki-tô trong một phương trình hoàn hảo.
Dưới sức mạnh của Thần Khí này, từ nay chúng ta có thể chiến thắng những sức mạnh của sự dữ, “diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta”. Thần Khí ở trong con người phải chết của chúng ta, chính Ngài thanh tẩy, thánh hóa và thần hóa chúng ta; chính Ngài bảo đảm sự phục sinh của chúng ta.
TIN MỪNG (Mt 11: 25-30)
Lời cầu nguyện tạ ơn này Chúa Giê-su ngỏ lời với Chúa Cha đều được thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca ghi lại. Thánh Lu-ca đặt lời cầu nguyện này vào lúc bảy mươi hai môn đệ hoan hỷ trở về từ sứ mạng của mình, vào lúc đó Chúa Giê-su cùng vui với họ và tạ ơn Cha Ngài về sứ mạng thành công. Lời cầu nguyện này xem ra được đặt vào trong bối cảnh này (Lc 10: 21-22).
Khi trình bày lời cầu nguyện này trong một bối cảnh khác, thánh Mát-thêu cho nó một chiều kích thần học có lẽ sâu xa hơn. Đức Giê-su vừa chịu những thất bại: sự chống đối của những người Pha-ri-sêu càng tăng lên, nhất là trong ba thành phố miền Ga-li-lê: Ca-phác-na-um, Bết-sai-đa và Khơ-ra-din. Chúa Giê-su báo trước án phạt đối với các thành này: chúng sẽ bị triệt hạ.
*1.Thánh thi chúc tụng:
Ấy vậy, thay vì cảm thấy sự cay đắng, Chúa Giê-su lại chúc tụng Cha Ngài. Lời cầu nguyện của Ngài theo thể văn xuôi Hy-lạp có vần có điệu, cũng được gọi là “thánh thi chuc tụng”. Nên nghĩ rằng những lời nói của Đức Giê-su, được thốt lên bằng tiếng A-ram, bao gồm một sự cấu trúc tương tự, theo văn phong nói thông thường của người Do thái, ở đó vần điệu giúp cho việc ghi nhớ được dễ dàng.
*2.Tán dương “những người bé mọn”:
Chúa Giê-su ngợi khen Cha Ngài vì đã khai lòng mở trí cho “những người bé mọn” hiểu, trong khi lại giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời. Chúa Giê-su chủ yếu nhắm đến những giới kinh sư và nhóm Pha-ri-sêu, họ tự phụ về sự hiểu biết của mình và giam hãm mình vào trong sự khôn ngoan nhân loại. Các ngôn sứ đã loan báo điều này, như I-sai-a:
“Vì thế, Ta sẽ tiếp tục làm cho dân này phải sững sờ kinh ngạc
vì bao nhiêu dấu lạ điềm thiêng.
Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy thất bại,
và trí thông minh của người thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14)
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã ngỏ lời với các kinh sư Giê-ru-sa-lem:
“Những hạng khôn ngoan ấy
sẽ thẹn thùng, run sợ, và sa vào cạm bẫy.
Này, lời Đức Chúa thì chúng khinh miệt,
chúng khôn ngoan nỗi gì?” (Gr 8: 9).
“Những người bé mọn” trước tiên chỉ ra các môn đệ của Chúa Giê-su – sau này Ngài sẽ gọi họ như vậy nhiều lần – nhưng cũng những người khiêm hạ trong đám đông lắng nghe lời Ngài, vì họ không bị bối rối bởi tính tự hào tự phụ về sự hiểu biết của mình.
Chúa Giê-su còn nhiều lần khác sẽ ca ngợi tinh thần trẻ thơ. Chính xác thánh Mát-thêu thuật lại một sự cố có ý nghĩa. Trong khi lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: “Hoan hô con vua Đa-vít”, thì các thượng tế và kinh sư tức tối. Đức Giê-su trích dẫn Tv 8: 2 nói với họ: “Lời này các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21: 14-16).
*3.Chúa Cha và Chúa Con:
Qua lời thân thưa này: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất”, Chúa Giê-su không còn có thể khẳng định địa vị Con Thiên Chúa của Ngài rõ ràng hơn nữa.
“Không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha: cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con, và người mà Chúa Con muốn mặc khải cho”. Cung giọng của đoạn văn rất gần với cung giọng của Tin Mừng Gioan, ở đó, thánh Gioan nhắc đi nhắc lại nhiều lần những mối liên hệ mật thiết hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trong sự hiểu biết và tình yêu.
Khi khẳng định: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi”, Chúa Giê-su xem ra nói trước lời khẳng định mà Ngài sẽ công bố sau khi Ngài sống lại: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28: 18). Trong bối cảnh định vị những lời này, chắc hẳn Chúa Giê-su gợi lên công trình cứu độ mà Ngài có sứ mạng thực hiện và nay các môn đệ được mặc khải cho biết. Chúa Giê-su là Đấng Trung Gian duy nhất. Về vấn đề này Tin Mừng Gioan cung cấp sự bổ túc tốt nhất, như “Thật vậy, Chúa Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17: 2).
*4. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi”:
Trong Tin Mừng Mát-thêu chứ không Tin Mừng Lu-ca, lời cầu nguyện của Chúa Giê-su được theo với một bản văn được liệt vào trong số những hạt ngọc Tin Mừng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
Gánh nặng và cái ách là hai hình ảnh rất nổi tiếng của đạo Do Thái để chỉ Lề Luật. Thánh Vịnh 19 công bố rằng:
“Luật Pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19: 8-9).
Nhưng vì phó mặc cho các nhà lãnh đạo Do thái quá chi ly, Lề Luật đã bị chất quá tải với những tuân giữ nặng nề. Luật của Đức Giê-su, Luật yêu thương, mang sức mạnh giải thoát:
“Quả thật, yêu mến Thiên Chúa
là tuân giữ các điều răn của Người.
Mà các điều răn của Người
có nặng nề gì đâu” (1Ga 5: 3).
Khi tuyên bố: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học gương tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”, Chúa Giê-su mượn cách nói của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
“Hãy dừng lại trên các nẻo đường mà coi,
hãy tìm hiểu những đường xưa lối cũ
cho biết đâu là đường ngay nẻo chính, rồi cứ đó mà đi:
tâm hồn các ngươi sẽ bình an thư thái” (Gr 6: 16).
Đức Giê-su, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, kêu gọi chúng ta trở nên môn đệ Ngài. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất ghi nhận tấm lòng dịu dàng này của Đức Giê-su, cũng như thánh nhân là thánh ký duy nhất trích dẫn bức chân dung Người Tôi Trung của I-sai-a: “Người không lên tiếng giữa phố phường, không đành bẻ gảy cây lau bị giập, chẳng nở tắt đi tim đèn leo lét”, và áp dụng vào Đức Ki-tô (Mt 12: 18).
HỌC CÙNG CHÚA GIÊSU SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM TỐN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Sợi chỉ đỏ :
Trong bài đọc I (Dcr 9,9-10), ngôn sứ Dacaria mô tả Đấng Messia như một vị vua hiền lành và khiêm tốn cởi trên lưng lừa ; Tv 144 (đáp ca) cũng trình bày Thiên Chúa bằng những nét từ bi và nhân ái. Trong bài Tin Mừng (Mt 11,25-30), Đức Giêsu tự mô tả mình bằng hai đức tính Hiền lành và Khiêm tốn. Ngài mời chúng ta học nơi Ngài.
– Bài đọc II (Rm 8,9.11-13) (Chủ đề phụ) : Đừng sống theo xác thịt, hãy sống theo Thánh Thần.
Anh chị em thân mến
Đức Giêsu không những dạy chúng ta về đời sống đức tin, về những nhân đức siêu nhiên, mà còn dạy chúng ta cách sống nhân bản. Làm theo giáo huấn của Ngài, chúng ta sẽ trở thành những con người rất dễ thương dễ mến và do đó sẽ dễ thành công trong cuộc đời. Hôm nay Đức Giêsu dạy ta học gương của Ngài sống Hiền lành và khiêm tốn. Chúng ta hãy lắng nghe giáo huấn của Ngài và xin Ngài giúp ta thực hành được giáo huấn ấy.
– Rất nhiều lần chúng ta nóng nảy, hung dữ với kẻ khác.
– Rất nhiều lần chúng ta kiêu căng : coi trọng mình và coi khinh kẻ khác.
– Rất ít khi chúng ta để ý xem Chúa đã sống như thế nào để tập sống theo gương Chúa.
Năm 333, Alexandre Đại đế chiến thắng đế quốc Babylon và đưa đế quốc Hy lạp lên ngôi bá chủ. Nhiều người do thái tự hỏi “Phải chăng đó là Vua Messia mà Thiên Chúa gởi đến ?”, “Nếu không phải như thế thì phải chăng Vua Messia sẽ đến cũng giống như Alexandre hùng mạnh này ?”
Ngôn sứ Dacaria trả lời : Đấng Messia sẽ đến cũng là một vì Vua nhưng với nhiều khác biệt rất cơ bản :
– Ngài không phải là một vị vua chiến tranh, mà là vua hòa bình.
– Ngài không kiêu kỳ, mà rất khiêm tốn
– Ngài rất hiền lành : không thích giết chết mà chỉ muốn cứu độ.
Hình ảnh tiêu biểu về Vua Messia là Ngài không cởi trên lưng ngựa mà trên lưng lừa.
Những đức tính của Vua Messia cũng chính là những đức tính của Thiên Chúa : “Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa”.
Văn mạch : Sau một thời gian rao giảng, Đức Giêsu đã gặt hái được những thành công nhưng cũng gặp phải nhiều thất bại. Thất bại là nơi những người tự nghĩ mình là thông thái, như biệt phái, luật sĩ và gần đoạn Tin Mừng này nhất là dân ở các thành ven bờ Biển Hồ (Mt 11,20-24) ; còn thành công là nơi những người nghèo nàn, ít học, thu thuế, tội lỗi… Ngài gọi chung họ là “những kẻ bé mọn”.
Phần đầu của đoạn Tin Mừng này ghi lại lời Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Trước hết, Ngài nhìn nhận tất cả những thành công và thất bại ấy đều theo đúng kế hoạch của Chúa Cha. Kế đến, khi nhìn lại những thành công và thất bại ấy, Đức Giêsu khám phá ra rằng chính Chúa Cha đã đặc biệt yêu thương những kẻ bé mọn nên đã cho họ đón nhận Tin Mừng của Ngài. Việc Chúa Cha yêu thương mặc khải cho những kẻ bé mọn khiến Đức Giêsu cảm động và vui mừng, vì thế Ngài lớn tiếng cảm tạ và ca tụng Chúa Cha.
Sang phần thứ hai của đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài. Theo ách nói do thái, “mang ách của ai” là học với người đó ; còn “gánh” thì ám chỉ lề luật. Nói tóm lại, Đức Giêsu kêu mời mọi người hãy học với Ngài và đón nhận luật của Ngài :
– Học với ngài : học gương hiền lành và khiêm tốn
– Đón nhận luật Ngài là luật yêu thương
Đây là lập luận thứ ba cho luận đề “được công chính hóa nhờ đức tin”.
Cốt tuỷ của lập luận : trong con người có hai khuynh hướng đối nghịch nhau, một muốn làm lành và một muốn làm ác. Con người chỉ có thể tìm được sự thống nhất nội tâm nhờ ơn của Thánh Thần.
Áp dụng : Kitô hữu đã được Chúa Thánh Thần đến ở trong mình cho nên đã có một cuộc sống mới, cho nên họ đừng sống theo cuộc sống cũ nữa :
– Cuộc sống cũ là sống theo xác thịt. Cuộc sống đó sẽ dẫn đến cái chết.
– Cuộc sống mới là sống theo Thánh Thần. Nó sẽ dẫn đến sự sống vĩnh cửu.
Thánh Augustinô đã tự thuật rằng chính đoạn thư này của Thánh Phaolô đã giúp Ngài hoán cải.
Trong nguyên bản hy lạp, thánh Matthêu dùng chữ praus. Chữ này có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo cứng cỏi. Như thế, “hiền lành” bao gồm một tâm thế bên trong và một cách phản ứng bên ngoài.
– Tâm thế bên trong là luôn êm ái hoà nhã : nghĩ về người khác thì nghĩ tốt, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Đón nhận những lời nói và cách cư xử của người khác đối với mình thì không thành kiến, biết phải quấy, sẵn sàng đối thoại, chấp nhận sửa đổi.
– Phản ứng bên ngoài : nhẹ nhàng, tôn trọng, không thô bạo.
Chúa Giêsu hiền lành : trong lòng Ngài luôn yêu thương người khác (đặc biệt là những người khốn khổ hèn mọn), luôn muốn điều tốt cho người khác (nhất là muốn cứu độ người ta), không thành kiến đối với những người mà xã hội quen coi là xấu xa tội lỗi ; lời nói và hành động của Ngài luôn tỏa ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Ngài không nặng lời, không lên án. Ngài chủ trương sống bằng tình thương, Ngài không bạo động.
Trong nguyên bản hy lạp, thánh Matthêu dùng chữ tapeinos. Chữ này có nghĩa là chấp nhận “đứng thấp”, “ở dưới”, “bị hạ xuống”, hoặc tự ý xuống thấp, ở dưới.
Căn bản của khiêm tốn là biết mình “là” thế nào : từ đó không muốn tỏ ra hơn cái “là” ấy và giả như người khác có coi mình kém hơn cái “là” ấy thì mình cũng không màng tới. Điều quan trọng là sống thanh thản và thành thật đúng với cái “là” của mình.
Dụ ngôn của Đức Giêsu về những chỗ ngồi (Lc 14,7-11) giúp ta hiểu rõ hơn về thái độ khiêm tốn đối với danh dự :
– Danh dự của ta không phải do ta tranh dành mà có : Khi được mời đi ăn cưới thì đừng tự ý dành chỗ nhất.
– Danh dự của ta là do chính cái “là” của ta tạo cho ta : chủ tiệc thấy ta xứng đáng chỗ nào thì sẽ đặt ta vào chỗ đó.
– Nhất là danh dự của ta là do Thiên Chúa sắp xếp cho ta : chủ tiệc cưới trong dụ ngôn này là chính Thiên Chúa. Ngài sẽ mời ta vào chỗ Ngài xếp đặt.
Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manichéisme. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông theo theo những đòi hỏi của xác thịt. Kết quả là một cuộc sống tội lỗi.
Một hôm, trong lúc tâm hồn trống rỗng vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng từ đâu đó vang lên “Tolle et lege” (Hãy cầm lấy và đọc). Augustinô thấy trước mặt một quyển Thánh Kinh. Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư này của Thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma : đừng sống theo xác thịt nữa mà hãy sống theo Thánh Thần.
Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và ăn chay hãm mình của mẹ ngài là bà Mônica. Nhưng chính câu Thánh Kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Augustinô.
Hãy đến với Ta. Chúa bảo tôi như thế. Nhưng tôi đáp lại : Con không dám, vì con bất xứng.
Hãy đến với Ta. Chúa lặp lại. Tôi lại đáp : Con sợ.
Hãy đến với Ta – Nhưng con đâu có hẹn trước với Chúa.
Hãy đến với Ta – Hiện giờ con không rảnh.
Hãy đến với Ta – Tôi không còn lý do gì từ chối nữa.
Chúa nói tiếp :
Con hãy đến… hãy ngồi xuống… hãy trút bỏ gánh nặng trên vai… Hãy ngồi dưới bóng cây im mát của Cha… Hãy giải khát bằng dòng nước trong lành của Cha… Ở bên Cha, con sẽ được nghỉ ngơi, sẽ thấy an bình.
Tôi thưa : “Ách của Cha thật là êm ái. Gánh của Cha thật là nhẹ nhàng”. (Flot McCarthy)
CT : Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta : “Anh em hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Với ước muốn nên giống Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1- Hội Thánh là một bà mẹ hiền / luôn hết lòng yêu thương và tận tình chăm sóc con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / cảm nghiệm được một cách rõ rệt tình thương bao la của Hội Thánh.
2- Chúa Giêsu nói / “Phúc thay ai xây dựng hòa bình / vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết sống tinh thần tám mối phúc thật / nhờ đó / họ có thể trở thành những người kiến tạo hòa bình.
3- Trong đời sống thường ngày / khi gặp buồn phiền hay đau khổ / nhiều người đã đặt niềm tin không đúng chỗ / do đó bị lừa bịp và bị thiệt hại hết sức nặng nề / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp thử thách / chỉ chạy đến cùng Chúa để được Người nâng đỡ ủi an.
4- Chúa ghét kẻ kiêu căng / nhưng thương người khiêm tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết noi gương Chúa Giêsu / sống hiền hậu và khiêm nhường.
CT : Lạy Chúa Giêsu, để nên hoàn thiện như Chúa Cha trên trời theo lời mời gọi của Chúa, chúng con phải lắng nghe Lời Chúa dạy và thực thi mệnh lệnh Chúa truyền. Xin Chúa thương ban ơn trợ giúp, để chúng con làm trọn những gì Chúa đòi hỏi nơi chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
– Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu thường xuyên cầu nguyện với Chúa Cha và Ngài cầu nguyện rất sốt sắng. Chúng ta hãy kết hợp tâm tình với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh sau đây.
– Trước rước lễ : Đức Giêsu đã mời gọi : “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
Trong Thánh lễ hôm nay, Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta học gương hiền lành và khiêm tốn của Ngài. Trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng sống hiền lành và khiêm tốn theo gương Chúa.Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam