Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 60

Tổng truy cập: 1359578

HÃY ĐẾN HỠI NHỮNG KẺ CHA TA CHÚC PHÚC

HÃY ĐẾN HỠI NHỮNG KẺ CHA TA CHÚC PHÚC- Lm. Phêrô Lê Văn Chính

 

“Khi Con người đến trong vinh quang cùng với các thiên thần hầu cận”. Vào lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta lại nghe nhắc đến khung cảnh phán xét theo Phúc âm Matthêu chương 25. Và chúng ta thường hình dung những mô tả này như là Đức Giêsu Kitô đến phán xét vào cuối thời gian khi người sẽ thực thi vương quyền. Thế nhưng chúng ta thường nghĩ điều này như một điều gì đó còn xa xôi trong tương lai, điều mà chúng ta không cần phải lo sợ hay phải quan tâm lúc này. Tuy nhiên, lắng nghe câu chuyện dụ ngôn này, Chúa Giêsu hẳn phải làm chúng ta ngạc nhiên với mạc khải này: “Khi con người đến trong vinh quang để phán xét mọi dân nước”  thì những phán quyết của Vua Giêsu sẽ căn cứ  vào những công việc chúng ta làm  lúc này, dù dưới hình thức hay điều kiện nào: đơn sơ chân thành giúp đỡ cho những người nghèo khổ túng thiếu hay không màng chi đến những tiếng kêu cầu của những người nghèo khổ mà chúng ta gặp hằng ngày.  Đây chính là lúc khẩn trương : chúng ta đáp lại như thế nào trước những hoàn cảnh của những người nghèo khổ sẽ có những hệ quả đời đời. Chúng ta sống như thế nào lúc này đã là sự phán xét  đối với chính mình và đã đưa chúng ta theo chiều hướng nghe lời phán quyết của Đức Giêsu Kitô Vua :hãy đến, hỡi những người được chúc phúc, hay người sẽ nói với chúng ta: hãy đi xa khỏi ta hỡi phường bị chúc dữ.

Bài Tin mừng và ngày lễ long trọng này nhắc nhở chúng ta là trong Đức Kitô, mỗi người anh em gần với chúng ta mà chúng ta gặp trong cuộc đời thực là quí giá. Mỗi khi chúng ta làm điều gì tốt cho người khác là chúng ta làm cho chính Chúa Kitô và như thế chúng ta làm cho chiến thắng cuối cùng mau đến khi mà mọi sự sẽ được thu họp lại và tôn vinh Cha trên trời. Mỗi khi chúng ta làm điều gì tốt cho người khác, cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, tiếp người khách lạ, thăm viếng người bị yếu đau tù tội là chúng ta làm cho chính Chúa Kitô. Và ngược lại khi chúng ta không làm những điều này là chúng ta đã không làm cho chính Chúa Kitô. Chúa Kitô đã đồng hóa hoàn toàn với người anh em bé mọn nghèo hèn nhất  mà chúng ta đã muốn quay lưng bỏ rơi. Quang cảnh của việc thực thi vương quyền của Đức Giêsu  không giống như vương quyền của những vị vua trần thế bởi vì khi đó mọi bậc vua chúa trần gian, mọi quan quyền, mọi người có thế lực địa vị không trừ một ai đều phải tập họp trước tòa phán quyết của người. Hơn nữa, khác với những vua chúa trần gian đòi hỏi các thần dân của mình những việc phục vụ thuế má, còn Vua Giêsu chỉ đòi hỏi mọi người quan tâm chăm sóc cho những người nghèo khổ túng thiếu.

Căn bản cho phán quyết của người là chúng ta có chăm sóc cho người hèn mọn nhất giữa các anh em chúng ta không. Cách cư xử của chúng ta trong cuộc đời hiện tại đã là chọn lựa những lời ban thưởng hay là những lời kết án nặng nề mà chúng ta sẽ nghe Chúa Giêsu nói với chúng ta trong ngày phán xét chung. Chọn lựa của chúng ta bây giờ đã là chọn lựa cho đời vĩnh cửu. Đức Kitô thi hành vương quyền của người để phán xét. Thực là ngạc nhiên về sự phán xét này là cả người tốt lẫn người xấu không ai ngờ rằng những gì họ đã làm hay không làm cho những người hèn mọn túng thiếu đói khát tù tội lại là làm cho chính Chúa Giêsu. Cũng thực là ngạc nhiên về sự phán xét này là Chúa Giêsu không căn cứ vào những việc đạo đức mà lại nói đến những việc chia sẻ cụ thể đối với những người túng thiếu. Cũng thực là ngạc nhiên hơn nữa là Chúa Giêsu không căn cứ vào chức quyền địa vị. Phán xét của người làm cho những người được chúc phúc cũng như những người bị chúc dữ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, vượt mọi dự đoán thế nhưng lại hết sức giản đơn. Chúa Kitô không phải là nhà vua hay vị thẩm phán trả thù hay khắt khe đòi hỏi điều gì đó xa vời, chúng ta bị xét xử dựa trên những chọn lựa và hành động của mình. Hơn nữa vẻ đẹp của Đức Kitô, Con người đến trong vinh quang của người cùng với các thiên thần, không phải là vẻ đẹp kiểu cách với những sức mạnh phô trương, và sự long trọng cao cả của vương quyền của người không chỉ là chiến thắng hay vinh quang của người mà còn là sự chiến thắng và vinh quang của những ai biết  ngay từ cuộc đời trần thế này tham dự vào sự chiến thắng và vinh quang này khi cố gắng giúp đỡ những người nghèo khổ và túng thiếu để đẩy lùi sự thống trị của tội lỗi và sự chết cùng với Chúa Kitô.

Tiên tri Êzêkien đã tiên cảm tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người nghèo khổ túng thiếu  khi trình bày Thiên Chúa như người mục tử chăm sóc đoàn chiên của mình. Sự chăm sóc này không chỉ như những người mục tử khác làm cho xong việc mà là sự chăm sóc cẩn thận đầy tình yêu cho từng con chiên với mục đích làm cho con chiên được lớn lên mạnh mẽ. Thiên Chúa lo lắng và để ý từng điều kiện của con chiên như lo lắng tìm kiếm con chiên lạc, băng bó con chiên bị thương tích, và chữa con chiên đau ốm . Sự chăm sóc này muốn nói đến sự chăm sóc trực tiếp ân cần của Thiên Chúa và cảnh giác mạnh mẽ những người cậy dựa quyền thế trong xã hội để chà đạp ức hiếp những người khác, những người đó sẽ bị Thiên Chúa xét xử vì đã chà đạp quyền lợi những người mà Thiên Chúa yêu thương chăm sóc.

Vào cuối năm phụng vụ cũng là lúc chúng ta bắt đầu đối diện với mầu nhiệm phán xét khi chúng ta sẽ gặp Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, là Đấng chiến thắng mọi quyền lực ác thần. Chúng ta đối diện với sự phán xét này không phải với tâm tình hốt hoảng mà với sự sáng suốt tĩnh táo và sẵn sàng lắng nghe lời cảnh giác của người từ bây giờ. Nhiều khi chúng ta dễ dàng quên đi những công việc bình thường của đòi hỏi của vị Vua phán xét này để rồi bị lạc lỏng vào những cám dỗ chạy theo những tìm kiếm hay dự định nào khác không phù hợp với tiêu chuẩn phán xét của Thiên Chúa. Điều này làm chúng ta nhớ lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho câu hỏi của người luật sĩ: yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức và yêu thương người khác như chính mình. Đòi hỏi của Chúa Giêsu vẫn luôn thống nhất, không hề có điều gì là xa lạ, chẳng qua là khai triển cụ thể thôi.  Đây cũng là đòi hỏi hợp lý và cũng là điều chúng ta có thể thi hành nếu chúng ta tập trung vào tình yêu Thiên Chúa. Trong cái nhìn tổng thể để hiểu tầm quan trọng của đòi hỏi Chúa Giêsu đưa ra, chúng ta có thể thấy rằng trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu mà  mọi người chúng ta đều được chôn vùi trong sự chết của Đức Kitô và trong mầu nhiệm phục sinh của người trong phép rửa. Lúc này khi chúng ta đón nhận sự sống của Thiên Chúa, chúng ta được đón nhận làm nghĩa tử và trở nên thân mình của Chúa Kitô. Mỗi người đều được cùng chia sẻ trong đời sống Thiên Chúa bằng chia sẻ vào cùng một thân mình của Chúa Giêsu. Chúng ta đều được tác sinh trong Đức Kitô. Nếu chúng ta nhìn người khác như cùng chia sẻ một căn tính và phẩm giá, nếu chúng ta nhìn người khác như là chính Chúa Kitô, là điều mà Tin mừng nhắc nhở , chúng ta sẽ dể dàng để hy sinh giúp đỡ cho người khác. Đây chính là động lực giúp chúng ta nhìn những người túng thiếu nghèo hèn như là Chúa Kitô và yêu thương giúp đỡ họ. Đây là cách thế chúng ta đi đến niềm vui cánh chung. Đây là cách thế chúng ta chia sẻ “niềm vui nước trời được dọn sẵn cho chúng ta từ khi tạo thành vũ trụ”. Hãy nghĩ tới điều này: đó là từ khi tạo dựng, Thiên Chúa đã dự định cho chúng ta được chia sẽ sự sống và niềm vui vĩnh cửu. Những gì chúng ta cần làm là đến với những người nghèo khó túng thiếu tù tội và đối xử với họ xứng phẩm giá . Đây là cố gắng nhỏ cần làm trong đời sống hằng ngày, khi chúng ta nhìn những gì mà Thiên Chúa đã ân cần ban cho mình, đó là được chia sẽ vào vinh quang vĩnh cửu của vương quyền Chúa Kitô vua vũ trụ.

CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN- NĂM A- LỄ CHÚA KITÔ VŨ VŨ TRỤ

NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHÚC PHÚC- Lm. Luy Gonzaga Đặng Quang Tiến

Đây là dụ ngôn cuối cùng trong loạt các dụ ngôn nói về việc Chúa đến bất ngờ; và do đó phải luôn luôn sẵn sàng (24,36-25,46). Đây cũng là giáo huấn cuối cùng của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi tin mừng Matthêô bước sang trình thuật Thương Khó. Về bố cục của đoạn 25,31-46, có thể phân chia như sau: – Bối cảnh buổi phán xét cuối cùng (25,31-33); – Đối thoại trong ngày phán xét chia làm hai phần: – Giữa thẩm phán với người bên phải (25,43-40) và – với những người bên trái (25,41-45); – Kết luận về số phận đối nghịch của hai nhóm (25,46).

Hai cuộc đối thoại có cấu trúc tương tự nhau, gồm: – Tuyên bố của vị vua về ân thưởng và hình phạt của mỗi nhóm dựa trên những gì họ đã làm hoặc không làm (cc. 34-36 và 41-43); – Đáp lời của mỗi nhóm (cc. 37-39 và 44); – Kết luận của vị vua, kèm theo cụm từ “Quả thật Ta bảo các ngươi” (cc. 40 và 45). Các lời đối đáp giữa vị vua và mỗi nhóm mở đầu bằng, tote, “bấy giờ” (cc. 34.37.41.44.45).

Mỗi cuộc đối thoại có cấu trúc lập lại: mỗi nhóm lập lại gần như từng chữ lời tuyên bố của vị vua: “đói/cho ăn”, “khát/cho uống”, “khách lạ/ tiếp đón”, “trần truồng/ chommặc”… (c. 35-36) – “đói/nuôi dưỡng”…. (c. 37-39). (x. W.D.Davies – D.C.Allison, The Gospel According to Saint Matthew. A Critical and Exegetical Commentary (ICC; Edinburgh: Clark, 1988, 1991, 1997) III, p. 416). Như thế các việc làm hay không làm cho Chúa được lập lại đến bốn lần. Và càng về sau, chi tiết càng được rút ngắn lại.

Bối cảnh buổi phán xét cuối cùng (cc. 31-33)

Trong ba câu dẫn nhập, Matthêô trình bày quang cảnh Con Người đến. Quang cảnh nầy gồm những yếu tố đã gợi lên trong tin mừng Matthêô trước đây (10,23; 13,41.49-50; 16,27-28; 19,28; 24,30-34; x. Đan 7,13-14). Đặc điểm của phần dẫn nhập nầy là các động từ ở thì tương lai. Chỉ những sự việc sẽ xảy ra trong ngày phán xét sẽ đến. Trong dẫn nhập nầy Matthêô không nói gì đến “lúc nào” Chúa đến (x. 24,36), mà chỉ trình bày ý nghĩa của việc Người đến. Quang cảnh nầy nhấn mạnh vinh quang của Con Người. Người “ngồi trên ngai”, “trong vinh quang của Người”, và “các thiên thần bao quanh Người”. Người thi hành quyền phán xét trên các dân tộc như một mục tử tách chiên ra khỏi dê. “Vinh quang của Người” (19,28) hay “trong vinh quang của Người” (c. 31[2x]) thật ra không phải vinh quang của riêng Người, mà là “vinh quang của Cha Người” (x. 16,27). Tính từ sở hữu autou, “của Người”, được dùng để nhấn mạnh tính cách Kitô trong cuộc hiển lâm nầy. Vị trí “ngồi trên ngai” là vị trí của một vị vua, và từ “ngai vinh quang của Người” Người thực hiện việc phán xét các dân tộc.

Ethnos, “dân tộc”, và cũng có nghĩa là “người-không Do thái”, rồi sau nầy “người-không Kitô hữu”. Khó có thể tưởng tượng có hai cuộc phán xét, một cho mười hai chi tộc Israel (19,28) và một cho muôn dân (25,31-32). Con Người chỉ đến một lần và trong lần ấy Người phán xét mọi dân tộc, trong đó có cả dân Israel. Vậy panta ta ethnè (c. 33) chỉ cách chung mọi dân trên mặt đất; hay nói cách khác là mỗi người, hekatos, như trong một lời tiên báo khác về việc ngự đến và phán xét của Con Người (16,27). Điều nầy có lẽ phù hợp hơn cho việc giải thích đoạn kế tiếp khi nói đến việc đối xử bác ái với “từng người anh em hèn mọn” (c. 40). Việc phán xét mang tính cách cá nhân. Việc nầy được hình tượng hoá qua hình ảnh phân tách chiên ra khỏi dê. Trong Do thái giáo “bên hữu” được quan niệm là bên tốt lành mang lại phúc lành; còn “bên tả” là bên xấu và bị chúc dữ.

Đối thoại trong ngày phán xét (cc. 34-45)

Con Người đang ngồi trên ngai được gọi là “Vua”, basileus. Những đoạn trước đã nói đến vai trò phán xét của Con Người (x. 13,41-43; 16,27). Chúa Giêsu với tư cách là vua khi Người phán xét. Nhiều lần trong Matthêô nói đến Người với tước hiệu là “Vua” (2,2; 21,5; 22,11; 27,11.29.37 và 42), và cũng nói về vương quốc của Người (13,41; 16,28; 20,21). Deute, “Hãy đến”, nhắc nhớ lời mời của một vị vua sai các đầy tớ đi nói với những người đã được mời đến dự tiệc cưới đã sẵn sàng (22,4). Và giữa những “người được chúc phúc, eulogèmenos, của Chúa Cha”, Chúa Giêsu là người đầu tiên được gọi bằng tên nầy (x. 21,9; 23,39). Người được hưởng vinh quang Nước của Cha Người trước tiên. Động từ khèronomeò, “thừa hưởng” xuất hiện 3 lần trong Matthêô (5,5; 19,29; 25,34), và đều có Nước Trời hay sự sống đời đời làm đối tượng. Về việc thừa hưởng Nước Trời xem 5,19-20; 7,21; 8,11… Nước Trời nầy hoặc chỗ trong Nước Trời đã được do chính Chúa Cha chuẩn bị (thành ngữ tương tự trong 20,23), “từ lúc tạo thành vũ trụ” (25,34; thành ngữ tương tự trong 13,35). Như thế, trong việc ân thưởng cho những người được chúc phúc, mục đích cứu độ của Thiên Chúa được viên thành.

Tiếp theo là cuộc đối thoại với những người bên hữu (cc. 34-40). Chúa Giêsu kể ra những việc họ đã làm. Các động từ ở thì bất định (aorist) chỉ các hành động tốt họ đã được thực hiện rồi trong đời của họ (cc. 35-39). Chính Chúa Giêsu đồng hoá với những người có thiếu thốn nầy; bởi đó những ai làm những việc nầy được kể là “những người được chúc phúc”. Các việc bác ái nầy được nói nhiều đến trong Cựu Ước (Is 58,7; Ezk 18,7.16; Gióp 22,6-7; 31,17.19.21.31-32; Tob 1,16-17; 4,16; Sir 7,34-35). Những điều được nêu ra là những nhu cầu căn bản của sự sống.

Những người đứng bên hữu được gọi bằng một tên khác nữa là “những người công chính”(c. 37.46). Họ đã không biết là họ đã làm cho chính Chúa Giêsu khi họ giúp đỡ những người thiếu thốn. Do đó họ đã đặt ra một lần ba câu hỏi: “Có bao giờ chúng tôi thấy…” (cc. 37-39). Những câu hỏi nầy cũng sẽ được lập lại, ngắn gọn hơn, nơi những người đã không giúp đỡ những người thiếu thốn (c. 44). Cả hai nhóm người đã làm điều tốt hay đã không làm điều tốt, đều không biết Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những người thiếu thốn. Điều nầy muốn nói việc nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Người là yếu tố thiết yếu và không thể thiếu để được vào Nước Trời.

Chúa Giêsu đưa ra nguyên tắc, trung tâm của trình thuật, bắt đầu bằng công thức trang trọng “Quả thật, Tôi nói cho anh em”, “những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Tôi, là các ngươi đã làm cho chính mình Tôi” (c. 40). Ai là “người anh em hèn mọn nhất của Tôi?” Trong tin mừng Matthêô “Anh em của Tôi” chỉ các môn đệ của Người (12,48-49; 28,10). Đàng khác, những người “hèn mọn”, oi mikroi, thường chỉ các môn đệ (18,6.10.14). Và chính câu 10,42 xác nhận “những người bé mọn nhất” là các môn đệ của Chúa Giêsu khi Người quả quyết một chén nước cho các môn đệ của Người sẽ không mất phần thưởng sau nầy. Hơn nữa trong mạch văn ấy, Chúa Giêsu đã đồng hoá trọn vẹn giữa Người và các môn đệ của Người (10,40tt).

Đối thoại với những người bên tả (cc. 41-45). Ý tưởng của những lời Chúa Giêsu nói trong phần nầy tương tự như trong cc. 34-40, và dưới dạng phủ định (7 mệnh đề). Đồng thời, có những từ ngữ và cụm từ đối nghĩa so với đoạn trước: “Các ngươi hãy đi khỏi mặt Ta” (“hãy đến” trong c. 34), “những kẻ bị chúc dữ, katèramenoi, (“những người được chúc phúc” trong c. 34). Trong câu 41 có những bất đối xứng so với câu 34: Matthêô tránh không nói “những kẻ bị Cha Ta chúc dữ” (so sánh “những người được Cha Ta chúc phúc”), và không nói “lửa đời đời được chuẩn bị sẵn từ tạo thiên lập địa” (so sánh “Nước Trời đã được chuẩn bị từ tạo thiên lập địa”), bởi vì Thiên Chúa không tạo dựng con người để hủy diệt nó.

Danh sách các việc tốt như trong các câu 35-36 được nhắc lại, nhưng được rút ngắn lại. Những người thuộc nhóm bên tả nầy đã không làm cho Chúa Giêsu đúng những điều mà những người công chính đã làm. Lần nữa Chúa Giêsu khẳng định qua những việc làm cụ thể tương quan mật thiết giữa Người với những người thiếu thốn. Trong câu 41, nhóm người bên tả nầy tóm lại những việc đáng lý họ phải làm cho Chúa Giêsu trong động từ diakoneò, “phục vụ”. Họ đã không phục vụ, nghĩa là đã không giống như Người (20,28), và không được chúc phúc như Người và nhóm người bên hữu.

Lời của vị vua kết thúc ở câu 45, và sau cùng là lời của thánh sử (c. 46). Lời kết nầy lập lại lời của Chúa Giêsu trong hai câu 34 và 41 về việc thưởng/phạt cho hai nhóm người. Việc thưởng/phạt nầy mang tính cách đời đời, aiònios, “cực hình đời đời”, “sự sống đời đời”. Vậy trong ngày phán xét, người công chính và người bị chúc dữ sẽ được tách ra cách dứt khoát và đời đời.

Khi ngày phán xét cùng tận đến, mỗi người sẽ được phán xét theo việc họ đã làm mà trong tương quan với Chúa Giêsu. Khi đã ra trước mặt vị Vua thẩm phán số phận mỗi người, hoặc được chúc phúc hoặc bị chúc dữ, sẽ không bao giờ có thể thay đổi nữa.

home Mục lục Lưu trữ