Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 85

Tổng truy cập: 1358214

HÃY ĐẾN MÀ XEM

HÃY ĐẾN MÀ XEM (*)- Chú giải của Noel Quession

 

Mùa Phụng vụ được cấu trúc dựa theo hai lễ lớn: Giáng Sinh và Phục Sinh. Mỗi “thời điểm đặc biệt” trên lại được một thời gian chuẩn bị trước, gọi là Mùa Vọng và Mùa Chay, và được kéo dài theo sau bằng Lễ Hiển Linh và Mùa Phục Sinh.

Ngoài hai giai đoạn lễ quan trọng này, thời gian phụng vụ trong năm trở nên “thông thường” hơn, đó là các Chúa Nhật xem ra ít sắc thái hơn. Tuy nhiên, đó không phải là những Chúa Nhật tẻ nhạt, kém phong phú đâu. Đời sống của ta không chỉ bao gồm những thời gian đặc biệt. Cần phải biết chấp nhận cả những chuỗi ngày bình thường nữa.

Sau những ngày lễ hội Giáng Sinh và Năm mới, hôm nay chúng ta lại bước vào một chuỗi dài các Chúa Nhật, qua đó Giáo hội trình bày cho ta cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu.

Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông”.

Đây là biểu tượng cho “nếp sống thường ngày”, bắt đầu lại mỗi buổi sáng, bề ngoài có vẻ tầm thường, lu mờ, ảm đạm… cứ khởi sự lại hoài hoài, nhưng thực sự có phải chỉ dẫn ta đến buồn chán hay không?

Đâu phải vậy, chính trong bối cảnh tẻ nhạt đó, thông thường xem như “không có cái gì xảy ra”, thì lại sắp phát sinh cái mới mẻ! Không có buổi sáng nào tầm thường cả.

Thiên Chúa đều hiện diện ở đó. Hôm nay, một điều gì đó sẽ xảy đến.

Thánh Gioan đã có ý soạn thảo chương thứ nhất Tin Mừng của ông, như một “Tuần lễ đầu tiên”: chủ yếu là gây chú ý “buổi khởi đầu của Đức Giêsu. (Ga 1,19) đó là ngày thứ nhất. Một phái đoàn Do Thái đến chất vấn Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan.

Ga 1,29: Ngày thứ hai “Hôm sau, Gioan Tẩy Giả xác định Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.

Ga 1,35: Ngày thứ tư, “Hôm sau, Đức Giêsu kêu gọi thêm hai môn đệ khác.

Ga 2,1: Ngày thứ bảy, “Ba ngày sau”, phép lạ đầu tiên đã xảy ra tại tiệc cưới Ca-na, qua đó Đức Giêsu biểu lộ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người.

Qua các dàn dựng như trên, Thánh sử Gioan muốn báo cho chúng ta một “Tin Mừng”: đây là một cuộc sáng thế mới, một cuộc tạo dựng mới được khởi sự, một việc lặp lại trang đầu tiên của Kinh Thánh. Toàn thể “mạc khải” như kêu lên cho chúng ta biết: Không, thời gian không thể tầm thường, tẻ nhạt, buồn chán. Chính thời gian sẽ phát sinh ra điều mới lạ căn bản, thới gian luôn mang chứa năng lực sáng tạo, thời gian sẽ thực hiện công cuộc Tạo dựng.

Đối với tôi mỗi buổi sáng có mang lại một điều gì mới mẻ không?

Lạy Chúa, xin giúp con biết chăm chú đến những gì sắp gây ra đến “biến cố” sắp xảy đến thường gây bất ngờ cho con, Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa đang chờ đợi con.

Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là chiên Thiên Chúa”.

Vâng, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu, và đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: ông sắp chuyển giao các môn đệ của mình. Họ sẽ rời bỏ Gioan Tẩy Giả để theo một ông Thầy khác. Tước hiệu đầu tiên trên đây, được dành cho con người mà cho tới nay, vẫn được coi là chàng thợ mộc Na-da-rét, có ý nghĩa gì? Chàng là “Chiên Thiên Chúa” sao!

Đó là tên gọi mà ta thường hát đi hát lại trong mỗi thánh lễ Dưới tên gọi để chúng ta mặc cho nó một ý nghĩa nào? Gioan Tẩy Giả nhằm nói lên điều gì? Ta chỉ cần gợi lại toàn diện bối cảnh Do Thái lúc đó. Tước hiệu này thực sự là bước “chuyển tiếp” từ Cựu ước sang Tân ước; đó là vị ngôn sứ cuối cùng và là chứng nhân đầu tiên Đức Giêsu Kitô. Vào ngày lễ Vượt qua, mỗi gia đình Do Thái giết một con chiên và lấy máu bôi lên cửa nhà mình trong lúc dùng bữa cơm tối: đó là biểu tượng cho công cuộc “giải phóng” ít-ra-en. Ngoài ra, từ “con chiên” trong tiếng A-ra-mên, ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng, cũng có nghĩa là “tôi tớ”. Mọi người Do Thái sùng đạo đều mang trong đầu lời sấm nổi tiếng của ngôn sứ Isaia (53,7), giới thiệu “người Tôi tớ của Thiên. Chúa” hoàn hảo như “một con” chiên bị người ta dẫn tôi lò sát sinh mà không mở miệng kêu than”. Vậy Đức Giêsu đã được chỉ định như Đấng sắp bị người ta sát tế trong thinh lặng, sắp vì yêu mà hiến mạng sống mình để xóa bỏ tội lỗi trần gian. Theo tập truyền Do Thái thời Đức Giêsu, người ta thường nói tới một “con chiên Chúa”, có thể mọc sừng cừu đực và lãnh trách nhiệm “bảo vệ cả đoàn chiên”. Ngoài ra, đó cũng là hình ảnh mà Gioan sử dụng lại trong sách Khải Huyền, khi ông giới thiệu Con chiên, được chọn từ đoàn chiên, đảm trách việc bảo vệ các anh em mình, tấn công và đánh tan kẻ thù. Chúng ta có đi quá xa bài thánh ca dịu dàng “Đây Con chiên vô cùng hiền lành” không! Thực ra, Chiên Thiên Chúa nơi chúng ta ca ngợi trước khi trước lễ không phải là hình ảnh con vật dịu hiền, trìu mến và vô hại… Đúng ra đó là hình ảnh một kẻ giao chiến hiếu thắng nhưng phải đổ đầm đìa máu huyết để cứu thoát chúng ta khỏi bất hạnh!

Đó là cách thức Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như thể ngay ngày thứ ba khởi sự đời sống công khai của Người.

“Hai môn đệ nghe ông nói đều đi theo Đức Giêsu”.

Tôi có thể hình dung ra cảnh tượng trên. Đức Giêsu đang bước đi trên một con đường mòn dọc theo bờ sông. Hai người theo gót chân Người, thái độ nhút nhát, vẻ hồi hộp… Họ chưa gặp Người bao giờ. Đó là một người lạ mặt. Những gì sắp xảy ra đây?

Thật là quá “liều” khi theo một người lạ như thế. Có lẽ, đây là một cuộc mạo hiểm. Nhưng những cuộc hành trình vĩ đại đều bắt đầu như thế cả, vì nhờ đó mới mở ra một con đường mới.

“Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi…”

Đức Giêsu đã nghe thấy bước chân họ đạp trên sỏi đá, phía sau Người. Người quay lại. Tôi thử quan sát cảnh tượng này. Đây cũng là “cái nhìn đầu tiên” của Đức Giêsu đối với những người lạ mặt…

“Các anh tìm gì thế?”

Đây là lời đầu tiên của Đức Giêsu được ghi nhận trong Tin Mừng thánh Gioan. Câu hỏi này Đức Giêsu muốn đặt ra cho mọi người. Hôm nay, Người cũng đang hỏi tôi như thế. “Bạn tìm gì đó? Bạn đặt cho đời mình ý nghĩa nào? ước muốn của bạn là gì?

Ta cần ghi nhận, sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một “khẳng định”, nhưng là một “câu hỏi’. Vì thực ra, để đến với Đức Giêsu, cần phải có thái độ “cởi mở”, không thể “khép kín” trong một hệ thống đóng khung, như các “tư tế và trợ tế” đã đến gặp Gioan Tẩy Giả. (Ga. 1,19). Đối với những loại người này, cuộc đối thoại đã sớm kết thúc vì thực ra họ ‘không tìm cái gì cả’. Lời đầu tiên của Đức Giêsu muốn lưu ý ta rằng, điều kiện trước hết để làm phát sinh và đào sâu đức tin, phải là thái độ “tìm kiếm, Đức tin trước hết phải là thái độ tìm hiểu đạo: đó là một cuộc kiếm tìm, một câu hỏi. “Lạy Chúa, Chúa là ai?”, kẻ nào cho mình biết tất cả, sẽ bị khựng lại trong những xác tín của mình, sẽ không bao giờ tiến bộ được. “Không có Thiên Chúa! – Bạn có tin chắc như thế không? Thiên Chúa hiện hữu. Người là Đấng này.. Đấng kia – Bạn có xác tín như thế không?”. Một triết gia tầm cỡ như Descartes đã nói: “Muốn cho khoa học tiến bộ, cần phải biết “hồ nghi”. Cũng vậy, cần phải biết “đặt câu hỏi”, như một thứ điều kiện để phát triển đức tin. Còn Péguy đã diễn dịch như sau: “Có những tâm hồn hoàn toàn khép kín, không để một ngõ ngách nào cho ân sủng thâm nhập. Không có chỗ có thể “thấm ướt” được, thì làm sao có thể tiếp thu… “.

Lạy Chúa, xin ban cho tâm hồn chúng con biết mơ mộng, biết kiếm tìm.

Họ đáp: ‘Thưa Rapbi, (nghĩa là thưa Thầy) Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”.

Tìm kiếm… bước theo… cư ngụ… đó là ba thái độ cốt yếu của tình yêu. Tôi có kiếm tìm Thiên Chúa không? Tôi có theo vết chân Người không? Tôi có luôn ở cùng Thiên Chúa không? Đức Giêsu đáp lại lòng mong muốn, thái độ kiếm tìm của họ. Nhưng, cách đáp trả của Người luôn tôn trọng tự do của họ: “Hãy đến mà xem?” Đức Giêsu không bó buộc các ông đi theo. Người không phải là một nhà tuyên truyền, một người quảng cáo, khi cần thiết có thể tìm mọi cách và áp lực người ta hoán cải. Phần tôi, cách tôi sử dụng để trình bày đức tin như thế nào?

“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều”.

Có những từ mà Gioan không những gặp đi lặp lại.

Không phải ông nghèo ngữ vựng, nhưng ông chú ý sử dụng vậy. Nhờ cách lặp đi lặp lại như thế, ông có thể diễn tả bước tiến của “người môn đệ”: “kiếm tìm”(1,38), “đến xem” (1, 39 và 46), “quan sát” (l,39 và 41), “gặp thầy” (1,41 và 45), “bước theo” (l,37.38.40.43) “ở lại” (l,38.39).

Gioan Thánh sử là một trong hai người đã bước theo Đức Giêsu. Kỷ niệm của ông rất chính xác, như kỷ niệm lần đầu gặp gở của hai người yêu nhau. Ong ghi lại cả giờ giấc sự kiện đó đã diễn ra vào lúc “bốn giờ chiều’, (thời đó người ta gọi đó là giờ thứ mười). Hôm đó, họ đã trao đổi với nhau những gì? Hẳn là hai ông đã kể lại đời sống, những khát vọng, những mong ước, thái độ “tìm kiếm” của họ. Còn Đức Giêsu, có thể Người đã nói cho họ biết về những dự tính, những ước muốn riêng của Người.

“Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô”.

Một nét đặc thù đáng ghi nhận, đó là lời mời gọi của Thiên Chúa, hay “ơn gọi”, thực tế được truyền đến tai con người, nhờ các mối tương quan nhân loại. Để nghe được lời mời gọi của Thiên Chúa, cũng cần phải chăm chú tới tiếng gọi của con người. Đó là những trường hợp của Gioan Tẩy Giả, trước hết ông gọi Anrê và Gioan. Rồi đến lướt Anrê và Gioan lại kêu gọi Simon. Sau này, Philipphê cũng sẽ mời gọi Nathanaen như thế.

Tôi có nuôi tư tưởng khi có dịp sẽ hướng dẫn một người nào đó tới gặp gỡ Đức Giêsu không? Khám phá ra Đức Giêsu rồi, tôi có lo truyền đạt cho kẻ khác hay chỉ biết giữ riêng cho mình?

“Ông dẫn em mình đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Si-mon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan. Anh sẽ được gọi là Kêpha”, “tức là Phêrô”.

Trở nên môn đệ, nghĩa là “thay đổi” đời sống… đó là bước vào một, cuộc phiêu lưu mới, trở nên một “con người mới”. Đó là ý nghĩa việc đổi tên cho Simon. Đối với các môn đệ đầu tiên, mỗi khi hồi tưởng lại, các ông đều cảm thấy việc thay đổi đời sống của mình thật là phi thường.

Đó là khởi đầu cho một định hướng hoàn toàn khác lạ trong đời sống của các ông. Trong não trạng của người Sêmít, việc đổi tên cũng có nghĩa là, Thiên Chúa hoàn toàn ảnh hưởng trên Simon Phêrô. Những con người đó đã “tìm kiếm” Đức Giêsu, đúng vậy? nhưng chính Đức Giêsu cũng kiếm tìm họ… Chinh Người khởi xướng trước nhờ “ân sủng” kỳ diệu của Người. Ơn gọi: vừa là tiếng kêu gọi của con người… vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa.

 (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

 CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- B

TỪ LỜI CHỨNG…- Chú giải của Fiches Dominicalaes

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

*1. Từ lời chứng của Gioan đến cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu:

Người đọc có thể nhận ra ngay những điểm dị biệt so với bài tường thuật về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên nơi các Tin Mừng Nhất lãm.

Theo sự trình bày của Gioan, các môn đệ đầu tiên, những con người sẽ tập hợp thành cái nhân ban đầu, của nhóm Mười Hai, quả là dân gốc gác xứ Galilê. Nhưng câu chuyện họ được Chúa gọi ở đây lạt không xảy ra ở ngay tại Galilê, bên bờ hồ nào đó thuộc miền ấy, mà lại ở bờ sông Giođan nơi họ từng theo làm môn dê của Gioan Tẩy Giả.

Cũng vậy, trong lúc nơi các Tin Mừng Nhất lãm, lời kêu gọi của Chúa mặc hình thức một lệnh truyền: “Các anh hãy theo tôi”, thì ở đây, hai môn đệ đầu tiên, là Anrê và chắc là Gioan, con ông Giêbêđê, lại được khỏi động bởi lời chứng của Gioan Tẩy Giả: “Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, tác giả Tin Mừng viết, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Lời chứng xác nhận các điều đã hứa xưa, nay đã được thực hiện nơi Đức Giêsu. Rồi thánh sử Gioan tiếp ngay: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (“đi theo”, trong ngôn ngữ Kinh Thánh có nghĩa là: làm môn đệ).

Tuy nhấn mạnh tới vai trò quan trọng của lời chứng ông Gioan trong quá trình gặp gỡ Đức Giêsu, tác giả Tin Mừng thứ tư cũng quan tâm không kém đến tư cách chủ động của Chúa trong suốt bài tường thuật.

Chính việc Đức Giêsu “đi ngang qua” đó là cơ hội để Gioan Tẩy Giả làm chứng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Chính Người đã “quay lại”, thấy hai môn đệ của Gioan đi theo mình, mới hỏi: “Các anh tìm gì thế? Câu hỏi này là lời nói đầu tiên của Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan. Cũng một câu hỏi tương tự như thế sẽ là lời đầu tiên Đấng Phục Sinh sau này nói với Maria Mácđala: “Bà tìm ai?”. Câu hỏi đó đã gợi lên cho hai người môn đệ ý thức rõ điều thực sự họ đang tìm kiếm, và đồng thời mời gọi chính chúng ta là những độc giả Tin Mừng hôm nay, biết đặt mình trước mặt Chúa, để làm sáng tỏ ý nghĩa sau cùng của cuộc hành trình nội tâm của chúng ta.

Anrê và người bạn kia đáp lại bằng cách hỏi Chúa: “Thầy ở đâu?”. Câu hỏi vượt xa chuyện đơn giản chỉ liên can đến nơi ăn chốn ở của Chúa, nó đã hướng tới đời sống thân mật của Đức Giêsu với Chúa Cha.

Và chính Đức Giêsu mời gọi các ông: “Đến mà xem”. Lời mời không chỉ là đến tham quan cho biết chỗ Người chọn làm nhà ở, mà là đi vào một cuộc gặp gỡ thiết thân với Người, là biết người một cách thâm câu hơn, là “kiểm nghiệm bằng một thấy tai nghe, bằng con người xương thịt, cái thực tại lịch sử sẽ làm nền tảng cho đúc tin” (x: P.E Jacquemin, “Assemblées du Seigneur”, số 33, trang 57). Chúng ta đọc thấy nơi Ga 1,1-3: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã, chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến… Chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi”.

*2. Từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu đến lời chứng của các môn đệ:

– Thế là có một cuộc gặp gỡ: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, thánh sử viết tiếp, và ở lại với Người ngày hôm ấy”.

Marchadour ghi nhận: “Cuộc gặp gỡ được bao trùm trong một bức màn kín đáo, đem đến cho bài tường thuật một chiều kích vừa mầu nhiệm vừa sáng tỏ: từng người tín hữu chúng ta, đầu được mời gọi thực hiện cùng một bước đi ấy” (L’evangile de Jean, Centurion, trang 48).

Việc láy đi láy lại động từ “ở (lại)” (“demeurer”) lôi kéo chú ý của người đọc đến một yếu tố cốt thiết. A. Marchadour nhận xét thêm: “ở (lại)” trong Tin Mừng của Gioan, vẫn theo tác giả trên, là một thuật ngữ thần học chỉ sự hoàn tất trong Đức Tin, sự gán bó trọn vẹn vào Đức Giêsu… Đó là những bước đi đúc kết nên Đức Tin: đi theo Đức Giêsu, đến xem chỗ ngồi ở, ở lại với người: (Sđd, trang 47).

Đàng khác, tác giả Tin Mừng dừng lại lâu để mô tả cái phản ứng dây chuyền phát sinh từ cuộc gặp gỡ ấy với Đức Giêsu. Anrê gặp em mình là Simon, và dẫn ông này đến gặp Đức Giêsu, người mà ông xưng là “Đấng Mêsia’? Và rồi Đức Giêsu đặt cho ông em này một tên mới, mang ý nghĩa tượng trưng, cái tên công bố và biểu lộ ơn gọi rất riêng của ông ta, giữa hàng ngũ các môn đệ: “Anh là Sirnon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Képha (tức là Phêrô) ”.

Theo truyền thống Nhất Lãm, Anrê và Simon cả hai được Đức Giêsu kêu gọi cùng một lần. Theo Gioan, Simon đến gặp Đức Giêsu qua trung gian giới thiệu của anh mình; một cách nào đó ông là “kẻ đến sau”? Tuy nhiên điều đó không phủ nhận chút nào vị thế hàng đầu của Simon trong nhóm các môn đệ, bởi chính ông này, theo tường thuật của Tin Mừng thứ tư, là người được vinh dự Đức Giêsu ngỏ lời riêng đầu tiên.

Sau đó, Đức Giêsu gặp Philípphê và nói: “Anh hãy theo tôi (Philípphê là người Bétxaiđa, đồng hương với Anrê và Phêrô). Và Philípphê lại tiết lộ với Nathanaen: Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth” (c.45).

Cứ như thế, theo lối diễn tả của X. Léon-dufour, “ngọn lửa loan tin được chuyền đi, từ người này sang người khác” (Lecture de l’evangile selon Jean, tập 1, Seuil, trang 185). Phải chăng cũng chính nhờ lời chứng của các môn đệ đầu tiên đó mà biết bao tín hữu khác, đến lượt mình, cũng đã gặp gỡ được Đức Giêsu, là Đức Kitô? Làm sao Anrê và người bạn kia của ông đã phát hiện được Đấng Mêsia, nếu không nhờ Gioan Tẩy Giả? Simon Phêrô cũng thế, nếu không có anh mình là Anrê? Và cả Nathanaen, nếu không có Philípphê? Đến lượt chúng ta cũng vậy chúng ta sẽ chẳng bao giờ lãnh nhận được đức Tin nếu không nhờ sợi dây chuyền vĩ đại móc nối chúng ta với những môn đệ đầu tiên ấy.

BÀI ĐỌC THÊM

*1. Những cuộc gặp gỡ đầu tiên”. (Mgr. L.Daloz, Nous avons vu sa gloire, Desclée de Brouwer, trang 2830).

“Tin Mừng thứ tư không hề mô tả cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Gioan Tẩy Giả. Không một lời trao đổi nào giữa hai vị được thuật lại. Gioan nhìn thấy Đức Giêsu, giới thiệu Đức Giêsu, nói về Đức Giêsu. Ông là nhân chứng, là bạn, là tiếng nói. Điều ông phải nói, ông đã học được từ Đấng sai ông. Ông không phải là môn đệ của Đức Giêsu. Ông là vị tiền hô. Sau ông, sau Đức Giêsu, là một thời mới đã khởi đầu. Sau phép rửa trong nước là phép rửa trong Thánh Thần. Gioan vừa là kẻ được chiêm ngưỡng cái thực tại mới mẻ, như ông Môsê được từ xa nhìn thấy đất Hứa, vừa đồng thời là người hướng mọi người về đó, bằng cách giới thiệu Đức Giêsu: “thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: Đây là Chiên Thiên Chúa. Lời nói của Gioan tác động ngay trên các môn đệ: Các ông đi theo Đức Giêsu. Gioan phải có được một sức mạnh từ bỏ lớn như thế nào để có thể sẵn sàng gởi chính những môn đệ của mình đến với Đức Giêsu. Ong không chỉ đã dọn đường cho Chúa, mà còn đã dọn lòng những con người, để họ biết Chúa và theo Chúa. Ngay khi vừa tiếp nhận những môn đệ của Gioan, Đức Giêsu khai trương sứ mạng của Người. Mẩu đối thoại thật ngắn gọn, dứt khoát: “Các anh tìm gì thế? Thưa Rápbi, Thầy ở đâu? Đến mà xem? Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Tác giả xác định giờ giấc của cuộc gặp gỡ ban đầu ấy: Lúc đó là khoảng giờ thứ mười. Như vậy, bước thứ nhất của những kẻ sau này sẽ là tông đồ và nhân chứng của Đức Giêsu là nhận biết Người, đi theo Người, ở lại với Người. Vấn đề trước hết không phải là đi đâu và làm gì. Điều này vẫn luôn luôn đúng cho chúng ta. Đức Giêsu là: Đấng đến để hoàn tất công việc mà Chúa Chúa đã giao phó cho: Người loan báo Nước Trời, Người chết cho mọng người, người cứu chuộc qua mầu nhiệm Vượt Qua của người. Trước tiên, chúng ta cần phải bước vào Nước ấy, phải nhận biết Đức Giêsu, phải làm môn đệ của Người. rồi sau đó chúng ta mới sẽ là nhân chứng của Người. Nếu chúng ta tưởng rằng chính chúng ta sẽ ra đi cứu độ thế gian thì coi chừng lầm to. Chỉ có một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu. Không ai có thể làm chứng nhân nếu trước hết không là môn đệ.

Dù sao, cuộc gặp gỡ ban đầu này đã mau chóng dẫn đến hành động làm chứng đầu tiên: Anrê đi gặp em mình trước hết: Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia. Câu nói nghe thấy đơn giản làm sao! Chúng ta không còn được nghe thấy âm thanh cảm xúc có thể đã dâng trào trong cõi lòng người thanh niên Do Thái dám thốt lên lời đó. Đấng Mêsia, niềm khát vọng của Israel… Thánh sử Gioan cho phép chúng ta cảm thấy điều lạ lùng trong việc Đấng Messia đọc được điều thầm kín trong lòng con người, và ngay từ giây phút đầu đã ghi dấu đậm đà trên cuộc đời những kẻ người gọi. Đức Giêsu nhìn Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha tức là Phêrô? Đức Giêsu luôn biến đổi những ai đến với người. Người đặt cho họ một tên mới. Người trang bị cho họ khả năng để nhận lãnh sứ vụ mà Người sẽ sai thực hiện.

Cả ba người môn đệ đầu tiên đến với Đức Giêsu nhờ sự dẫn dắt của người khác. Điều đó có thường xảy ra cho chúng ta? Có được bao nhiêu người trên đường đời đã giúp chúng ta nhận ra Đức Giêsu…?”.

*2. “Khởi đầu của một cuộc phiên lưu lạ lùng” . (F. Deleclos).

Có những phút giây hay những lần gặp gỡ mà người ta không bao giờ quên được. Đó là những khoảng khắc của ánh sáng hay của sự đồng cảm sâu xa sẽ mãi mãi ghi dấu và định hướng cuộc đời con người. “Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười…? Năm mươi năm về sau, Gioan còn nhớ chính xác cái ngày hôm đó, khi cùng với ông bạn Anrê, ông đã được nghe tiếng người anh em bà con với Thầy mình đặt câu hỏi: “Các anh tìm gì thế?. Đó chính là khởi đầu của một cuộc phiêu lưu lạ lùng. Cuộc đời của các ông từ đây sẽ rẽ sang một khúc quanh mới, một hướng đi mới (…).

Bắt gặp một cái nhìn qua đó biểu lộ cả một con người. Cảm nghiệm được nhìn nhận, được tôn trọng và được kêu gọi. Cảm thấy được trở thành chính mình và trờ nên khác, được lớn lên và tiếp tục vươn lên thêm mãi. “Thầy ở đâu? Đến mà xem”? Họ đi theo và đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Tất cả chỉ đơn giản thế thôi và gây ngỡ ngàng biết bao.

“Các anh tìm gì thế”?. Câu hỏi hệ trọng ấy không chỉ đặt ra cho những “hiện tượng hiếm hoi” trong trời đất, hay cho những nhân vật xuất chúng. Nó được dành cho tất cả chúng ta. Nó không chỉ khai sinh ra các bậc ngôn sứ và các vị thánh được tôn phong, nhưng chủ yếu mọi người tín hữu.

Ngày hôm nay, trên khắp mọi nào đường trần gian, chúng ta vẫn có thể giáp mặt với Đức Giêsu khi người đi ngang qua giữa chúng ta, như xưa Người đã “đi ngang qua” giữa các môn đệ bên bộ sông Giođan .

Đức Giêsu không bao giờ ép uổng, không bao giờ giăng bẫy rình bắt ai. – Người chẳng hề làm áp lực, cũng không tìm cách mê hoặc dụ dỗ người nào. Người ta vẫn có thể đi sát một bên

Người mà không hay không biết, vẫn có thể thấy Người mà không buồn nhìn theo. Có khi chúng ta phải cần đến cái nhìn hay lời khuyên của một ai khác, của ai đó thì thầm bên tai: “Đây là Chiên Thiên Chúa”? Tuy nhiên chỉ có những người nào biết tìm kiếm và khao khát chân lý và tình yêu thật mới có thể nắm bắt mới có thể lay động và lắng nghe. Ngoài ra còn phải có thái độ sẵn sàng để đi theo Người và đến mà xem.

Đức Tin chớm nở từ lời hỏi đáp: “Thầy ở đâu?”. Thế là bắt đầu cuộc trao đổi với Chúa. Con người còn cần phải đi theo Người, đồng hành với Vị Thầy và ở lại với Người để hiểu biết thêm”.

home Mục lục Lưu trữ