Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 69

Tổng truy cập: 1361440

HÃY ĐẾN VỚI TÔI

HÃY ĐẾN VỚI TÔI

 

Chúa mời gọi tất cả chúng ta: hãy đến với Ngài. Chúa hiểu rõ chúng ta hơn chính chúng ta hiểu mình.Ngài muốn cất nhẹ gánh lo cho chúng ta, để chúng ta được thanh thản, phó thác và cậy trông Ngài. Ngài sẵn sàng chia sẻ và đồng hành để chúng ta được vơi nhẹ bao nỗi lo toan chất chồng.

Chúa muốn tất cả chúng ta hãy trút tất cả gánh lo đời người vào Ngài, bởi những lo toan có thể làm cho cuộc đời chúng ta “bị tràn ngập” và không có lối thoát. Người ta vẫn luận “Cuộc đời là bể khổ”, mà khổ thật. Bởi chẳng có gì là hạnh phúc thật, mà chỉ là sự lừa dối và bất ổn. Tìm cho mình một chỗ dựa, kiếm cho mình một lối thóat,chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy vơi nhẹ gánh lo và tìm gặp được bình an.

Ngài mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài, bởi Ngài muốn tham dự, đồng hành và chia sẻ với cuộc đời mỗi người. Thực thế, Ngài là chỗ dựa an toàn và bình an nhất cho chúng ta. Chẳng ai thương và bảo vệ chúng ta, ngay cả cha mẹ hay người thân ở trần gian, ngoại trừ Chúa

Ngài muốn chúng ta hãy học với Ngài bởi Ngài hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng. Với giáo lý yêu thương của Ngài, Chúa muốn chúng ta hãy học tha thứ, đón nhận anh em, sống khiêm nhường và phó thác. Học với Ngài để chúng ta đón nhận và làm cho cuộc sống mình hài hòa với mọi người, sống hiệp nhất và nên giống Ngài.

Trong tình thương Thiên Chúa, chúng ta sẽ tìm được hạnh phúc thật mà trên trần gian không ai có thể ban tặng. Đón nhận tình thương của Thiên Chúa, được học nơi trường: khiêm nhường và hiền lành của Ngài, tâm hồn chúng ta như được yên nghỉ an toàn và tìm được con đường dẫn đến sự sống.

Khiêm nhường và hiền lành thật khi chúng ta biết chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ anh em như Chúa, bởi tình thương của Ngài không loại trừ hay xua đuổi ai, và để xây dựng sự hiệp nhất trong anh em.

Khiêm nhường và hiền lành thật khi chúng ta không cướp công của người khác mà biết trân trọng và đánh gía đúng công sức của anh em mình, để tránh được căn bệnh ung thư di căn “cả vú lấp miệng em”, phí phạm hoặc đối xử kiểu “vắt chanh bỏ vỏ” trên chính anh em hoặc cộng sự mình

Khiêm nhường và hiền lành thật cũng chính là biết phục vụ với hết khả năng và biết tự ẩn mình như người đầy tớ bé nhỏ,để ngăn ngừa phần nào căn bệnh “say mê quyền lực, đánh bóng tên tuổi” bằng chính công sức của người khác, nhưng biết cảm thông và chia sẻ với những yếu đuối của anh em như của chính mình.

Khiêm nhường và hiền lành thật là không khoe khoang hay lên mặt với anh em mình dẫu rằng mình có hơn họ một mặt nào đó, bởi “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì!”

Khiêm nhường và hiền lành thật còn là sẵn sàng chịu phần thiệt về mình để anh em được chia sẻ, được hạnh phúc. Có mất mát, có đau đớn, có chịu thiệt thòi mới hiểu và thương xót được anh em mình. Bởi trước mặt Chúa, chúng ta đã chẳng là gì và sẽ mãi mãi chẳng là ai cả!

Lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin dạy chúng con sống khiêm nhường và hiền lành trong trường học yêu thương của Chúa. Xin dạy chúng con luôn biết cho đi mà không tính toán và củng chẳng bao giờ đòi hỏi quyền lợi. Xin dạy chúng con biết quên mình khi phục vụ, để phần lợi luôn thuộc về anh em, để Chúa được biết đến và lớn lên; còn chính chúng con “phải nhỏ lại”. Amen.

 

77.Những kẻ bé mọn

Suy niệm:

Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin chúc tụng ngợi khen Cha... vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Chữ bé mọn đây không phải là dáng người thấp bé hay là trẻ con. Nhưng là người có tấm lòng đơn thành như trẻ con, một tấm lòng biết mình là nhỏ bé trước Nước trời bao la, biết mình túng thiếu đơn độc mà bám vào tay Thiên Chúa quan phòng. Là những ai tự hạ tự khiêm phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Đã có một lần nào Chúa xác nhận “nếu các ngươi không trở nên giống trẻ thơ, các ngươi sẽ không được vào nước trời” (Mt 18,3).”Ai trong các ngươi lớn nhất là người bé nhỏ nhất” (Lc 9,48). “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14)

Tại sao Chúa Giêsu cứ lấy mẫu mấy em bé làm gương vậy? Chúng ta có thấy và có biết cái gì đã từng làm những bậc cha mẹ không thể cầm lòng được trước một đứa con nhỏ. Cái gì đã làm Chúa những người lớn đều ưa thích trẻ nhỏ? Thưa, đó chính là sự yếu đuối nhỏ bé. Vâng, chính cái sự yếu đuối nhỏ bé đó làm cho mọi người dễ thương dễ mến. Chính cái yếu đuối ấy của chúng ta là sức mạnh của tuổi thơ măng sữa. Đúng như lời thánh Phaolô “Lúc tôi yếu đuối nhất là lúc tôi mạnh mẽ” (2C 12,9-10). Nếu chúng ta trao phó hoàn toàn cho Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lo trọn vẹn cho chúng ta như một người mẹ nuôi con thơ.

Con thơ còn trẻ chẳng biết gì. Chúng không biết ăn, chúng chẳng biết mặc, không biết đi, không biết nói. Các bà mẹ lành nghề đều công nhận các bà cưng chiều đứa con mình khi chúng nhỏ xíu “Nâng như trứng, hứng như hoa”. Khi chúng lớn lên, khi chúng càng có thể tự túc, thì các bà bớt quyến luyến, hoặc khi chúng tự cao khinh dể mình. Tình mẫu tử rất gần với tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Thật sự không gì làm cho Thiên Chúa xa lánh loài người, cho bằng tính kiêu ngạo, tự mãn, tự phụ. Tính này phá hủy các nhân đức. Những mẫu gương tự cao tự đại vẫn còn đó, với Adong, Eva, Luxife, babel, với các nền văn minh xa xưa còn đâu...

Trong Tân ước, đã mấy lần Chúa Giêsu phàn nàn về nhóm biệt phái cũng mắc bệnh này, là tự cho mình chữ nghĩa đầy mình, đầy dẫy sự khôn ngoan, cho mình là đủ và tự tạo ra ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu đã mấy lần cảnh cáo (Mt 23,13). Ai tin vào sức mạnh của mình sẽ bị Thiên Chúa để mặc và tất cả trở về hư vô cát bụi. Trái lại, kẻ tự khiêm sẽ được Thiên Chúa nhìn đến. Thánh Phaolô nói “Thiên Chúa thích dùng người khiêm nhường, bị thế gian bỏ chê để tỏ lộ mình ra” (1C 25,28t). Kẻ khiêm nhường được Thiên Chúa tha tội (Lc 18,14). Thánh nhân còn đặt khiêm nhường bên cạnh đức tin (Gal 5,22).

Thánh Augustinô nói “Đâu có khiêm nhường, đấy có đức ái”. Sự khiêm nhường là dấu chỉ thuộc về đức Kitô. Kinh thánh còn nói trong cơn thử thách ai hạ mình xuống dưới cánh tay toàn năng của Thiên Chúa thì đến bây giờ họ sẽ được Thiên Chúa tôn vinh như Đức Kitô và được thông phần vinh quang của con Thiên Chúa. Gương khiêm nhường của David trước Goliath, của Mẹ Maria, của chính Chúa Giêsu (Mt 11,29) của Têrêsa hài đồng, của một Cha sở xứ Ars.

Chúng ta hãy suy niệm câu nói của thánh nữ Têrêsa Lixieux “Chính Chúa Giêsu đã làm hết tất cả trong tôi, tôi chỉ trở nên bé nhỏ và hèn yếu”.

“Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (c.28)

Câu nói này hiểu được trên hai phương diện. Trên phạm vi siêu nhiên, Chúa Giêsu nói đến những lề luật Cựu ước và luật lệ mới của biệt phái không giải thoát con người tội lỗi để được cứu rỗi. Cho nên cần phải đến với Ngài và qua Ngài. “Không ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Ngài”. Câu nói trên cũng hiểu được là những ai đau khổ bất an tinh thần vật chất cũng hãy đến để Ngài nâng đỡ.

Có một điều cần ghi nhận giữa những đau khổ ở đời, nếu chúng ta chỉ một mình loay hoay dậm chân tại chỗ, thì không giải quyết được gì. Một gánh nặng mà đã để xuống là khó mang đi nữa. Chúa Giêsu căn dặn chúng ta: “Hãy vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Và Chúa kêu mời “hãy đến với Ta...” (c.28). Chúng ta hãy đến với Chúa hôm nay để thực sự cảm nghiệm được sức nâng đỡ đó. Có một điểm cần lưu ý trong câu trên là Chúa nói: Ngài bổ sức cho chúng ta thôi, chứ Ngài không cất hết gánh nặng đi cho đâu. Chắc chắn Chúa Giêsu xuống trần gian, không phải vì mục đích để làm cho hết khổ đâu. Ngài qủa quyết là quê trời mới hết khóc than. Mặc dầu đã nhiều phép lạ chữa bệnh tật đau khổ phần xác, nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn đem lại cho đau khổ một giá trị thực tiễn của Nước trời.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa đã dâng lời ngợi khen Cha vì đã mặc khải cho những kẻ bé mọn. Tinh thần nhỏ bé khiêm tốn luôn được Chúa đề cao, được mọi người trân trọng. Biết thế, nhưng Chúa ơi! Ở đời chúng con vẫn ham danh vọng, trọng quyền lợi. Chỉ có tình yêu Chúa mới uốn mềm lòng chúng con nên khiêm nhường bé nhỏ. Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở nên nhỏ bé trước Thiên Chúa để chúng con được Ngài đổ đầy lòng chúng con hồng ân của Ngài.

Lạy Chúa, hôm nay là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các Linh mục. Xin Chúa ban ơn nâng đỡ các Linh mục là những người Chúa chọn để chăm sóc đoàn chiên Chúa. Xin cho các Ngài ơn khôn ngoan thánh thiện. Một đời sống thánh đức sẽ toát lên qua việc cầu nguyện trong khiêm tốn. Để trong cầu nguyện, các Linh mục sẽ tiếp nhận được nguồn tình yêu và sức mạnh từ trái tim nhân hậu của Chúa hầu chuyển trao cho đoàn chiên sức sống dồi dào. Amen.

 

78.Con xin ngợi khen Cha

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Đoạn 11,25-50 là phần cuối của chương 11. Chương nầy bàn đến thái độ không tin của người Do thái vào con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Đoạn 11,2-19 nói về Gioan Tẩy Giả và phản ứng chối bỏ của dân chúng đối với Chúa Giêsu và Gioan. Tiếp đến đoạn 11,20-24 là lời phán xét đối với các dân thành không chịu hoán cải trước lời rao giảng và việc làm của Chúa Giêsu. Sau cùng đoạn 11,25-30 nói đến một số người “bé nhỏ” tin vào Chúa Giêsu.

Đoạn 11,25-30 là lời của Chúa Giêsu ngỏ với Chúa Cha, gồm ba phần liên kết với nhau rất chặt chẽ: – Chúa Giêsu tạ ơn và ca ngợi Thiên Chúa (cc. 25-26); – Chúa Giêsu nói đến tương quan của Người với Thiên Chúa (c. 27); – Chúa Giêsu mời gọi mọi người đến cùng Người (cc. 28-30). Chủ đề chính của đoạn là tương quan của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Các hạn từ chính trong đoạn: “Cha” (11,25.26.27[3x]), “Con” (11,27 [3X]), “Tôi” (11,28.29[2x].30[2x]), “các anh” (11,28.29[2x]). Trong ba câu đầu 11,25-27 nội dung liên quan đến Chúa Cha và Chúa Giêsu với tư cách là Con, và ba câu sau 11,28-30 liên quan đến Chúa Giêsu và người khó nhọc.

Chúa Giêsu tạ ơn và ca ngợi Chúa Cha (11,25-26)

Câu 25 mở đầu bằng lời của Chúa Giêsu ca ngợi Thiên Chúa, và tiếp theo mệnh đề hôti, “vì”, giải thích lý do của việc ca ngợi nầy. Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. “Pater”, hipri ˒abbā˒ bao hàm cả sự thân mật lẫn trổi vượt. Cụm từ “Chúa cả trời đất” chỉ quyền tối cao của Thiên Chúa bởi Người tạo dựng nên trời đất (x. Cvtđ 17,24). Động từ exomologeō (x. 3:6), theo từ nguyên có nghĩa là “tuyên xưng”. Khi ca ngợi Chúa Cha, Chúa Giêsu tuyên xưng sự cao trọng của Người.

Lý do của việc ca ngợi gồm hai điều tương phản nhau: giấu điều ấy đối với hạng thông thái và khôn ngoan, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn (c. 25b). Các cặp tương phản ở đây: giấu – tỏ lộ, thông thái và khôn ngoan – bé mọn. Matthêô dùng động từ “giấu” trong các dụ ngôn nói đến Nước Trời. Nước Trời như kho tàng chôn giấu trong ruộng (13,44), như nén bạc người tôi tớ chôn dưới đất (25,18.25). Kho tàng ấy, nay được tìm thấy, và nén bạc ấy không được đem giấu đi. “Điều ấy”, tauta, chính là Chúa Giêsu. Người là mặc khải của Thiên Chúa và Nước Trời. Tính từ tạo thiên lập địa chưa ai biết đến Người, hôm nay Thiên Chúa tỏ Người ra cho con người (x. 13,44).

Nēpios, theo nghĩa đen là “trẻ nhỏ”, nghĩa bóng là “người bé mọn”, “thấp hèn”, “môn đệ”; đối lại là những người thông thái, sophos, và khôn ngoan, syniēmi. Theo văn mạch, đó là những người từ chối tin vào Chúa Giêsu (x. 11,19). Nēpios được dùng thêm một lần nữa trong trình thuật Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Các nēpios hoan hô Chúa Giêsu trong khi đó, các thượng tế và kinh sư bất bình và phản đối (22,15-22). Như thế, nēpios là người nhận ra Chúa Giêsu là Đấng phải đến và tin vào Người, còn các “người thông thái và khôn ngoan” thì không. Vậy Chúa Giêsu ca ngợi Thiên Chúa vì người bé mọn được Chúa trời đất cho biết điều mà từ khi tạo dựng đến nay chưa ai biết. Đó là Chúa Giêsu, Con duy nhất của Người. Một mặc khải cao quý. Một vinh dự do Thiên Chúa ban. Tất cả hoàn toàn tùy thuộc vào ý muốn của Người.

Tương quan giữa Chúa Giêsu với Thiên Chúa (11,27)

Câu nầy chuyển sự chú tâm vào Chúa Giêsu: tương quan hiểu biết và quyền hành của Người đối với Chúa Cha. “Người Con”, hyios, được dùng theo dạng tuyệt đối và không kèm theo một bổ nghĩa nào, ám chỉ “Con Thiên Chúa” (3,17; 14,33; 16,16; 17,5; 27,54). Mọi sự, panta, chỉ mọi quyền hành trên trời và dưới đất (x. 28,18). Thiên Chúa Cha trao cho Chúa Giêsu tất cả những gì thuộc về Người như là Chúa trời đất. “Mọi điều” là sự hiểu biết duy nhất giữa Người với Chúa Cha. Chỉ mình Người biết Cha, và cũng chỉ mình Chúa Cha biết Người. Và việc biết nầy làm cho Người có thể nói về Thiên Chúa và Nước Trời cho con người. Epiginōskō, “nhận biết”, là biết người hay sự vật nhờ thấy hoặc nghe (x. 7,16.20; 14,35; 17,2). Ở câu 25, Chúa Giêsu nói đến việc Chúa Cha mặc khải, apokalyptō. Ở câu 27, Người Con mặc khải cho ai Người muốn. Đối tượng của việc Chúa Cha mặc khải là Chúa Giêsu. Còn đối tượng của việc Chúa Giêsu mặc khải (c. 27) là những điều liên quan đến Thiên Chúa và Nước Trời.

Sau khi xác định tương quan đặc biệt và duy nhất đối với Thiên Chúa, Chúa Giêsu mời gọi mọi người đến cùng Người (11,28-30), đặc biệt những người khó nhọc và gánh nặng. Họ như đàn chiên không có người chăn dắt (9,36), và còn bị chất trên vai nhiều gánh nặng không mang nổi (23,4). Chúa Giêsu hứa cho họ sự nghỉ ngơi. Điều kinh ngạc là Chúa Giêsu mời gọi họ mang lấy “ách của Người”.

Cái ách đặt lên lưng con bò để có thể điều khiển nó theo ý muốn của chủ nhân. Cái ách chỉ sự ràng buộc. Lề luật của Môsê phải được thay thế bởi giới răn mới của Chúa Giêsu. Lời hứa nghỉ ngơi không hàm ý là không có một “ràng buộc nào”. Giới răn của Chúa là sự liên kết mới, là một đòi hỏi đích thật trên tự do. Chỉ khi liên kết và mang lấy sự ràng buộc với Chúa Giêsu, con người mới thật sự tự do, và tìm thấy được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn.

 

79.Chú giải của Noel Quesson.

Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói…

Thành ngữ. "vào lúc ấy” thường là công thức về văn phong mà các sách Kinh dùng làm lễ đã thêm vào để bắt đầu một đoạn Tin Mừng một cách tự nhiên hơn. Nhưng ở đây là môt ngoại lệ, nó có trong bản văn của Matthêu. Vậy trong bối cảnh nào mà lời cầu nguyện chúng ta sắp đọc được đưa vào?

“Lúc ấy" là một thời điểm bi đát. Đức Giêsu sống trong một bầu khí căng thẳng và thất bại. Ở chương 11 thánh Matthêu vừa mô tả sự "hoài nghi" của Gioan Tẩy trong nhà tù: "Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? "Đức Giêsu kế đó đã thuật lại cách thức mà những kẻ đồng thời với Người đã từ chối ông Gioan vị ẩn sĩ khổ hạnh và cả Đức Giêsu Đấng Hằng Sống nhân từ (11,16-19). Rồi Đức Giêsu lên án nghiêm khắc những thành phố bên bờ hồ Ti-bê-ri-a đã không đón nhận sứ điệp và các phép lạ của Người. Nhiều người trong hoàn cảnh thất bại này hẳn sẽ rơi vào sự thất vọng và chán nản. Vả lại, đây là một “bài ca vui mừng" trào dâng từ đôi môi Người. Vậy tâm tình thầm kín của Đức Giêsu là gì?

Lạy Cha là Chúa Tể trời đất...

Trong một vài dòng, chúng ta nghe Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là "Cha" năm lần. Chúng ta đã quá quen nên không nhận thấy rằng cách gọi Thiên Chúa này mở ra một cuộc cách mạng tôn giáo thật sự. Những nhà chú giải đã tìm trong toàn bộ Kinh Thánh và tất cả văn chương Do Thái trước Đức Giêsu chưa bao giờ từ ngữ ấy, "Cha” được dùng một cách tuyệt đối và dùng để cầu khẩn trực tiếp Thiên Chúa. Không một Thánh Vịnh nào dám gọi Thiên Chúa một cách thân mật.

Như thế, những người Do Thái, ngày nay cũng thế, bởi lòng tôn kính, không dám phát âm cái tên khôn tả của Thiên Chúa nhưng dùng mọi cách nói tránh, ví dụ như: "Đấng Hằng Hữu, xin chúc tụng..." Dường như các tông đồ không thể nghĩ ra một từ ngữ như thế, bởi họ cũng là người Do Thái, nếu như họ đã không nghe thấy trên đôi môi Đức Giêsu đang cầu nguyện. Và đàng sau từ ngữ ấy, ngày hôm nay đã trở thành thông thường, chúng ta nhận ra tiếng “Abba!" trong ngôn ngữ A-ra-men. Đây là một từ âu yếm của các con nhỏ dùng nói với cha chúng, tương đương với chữ Ba (Bố) của chúng ta..

Cha! Ba, Chúa của trời đất!

Sự đối chiếu của hai khía cạnh ấy của Thiên Chúa thật cảm động. Đây là Thiên Chúa cao cả, Tạo Hóa của toàn thể vũ trụ! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con theo gương Chúa có đủ hai thái độ cầu nguyện ấy: sự đơn sơ của tình cảm; sự tôn thờ chân chính.

Con xin ngợi khen Cha.

Động từ Hy Lạp dùng ở đây là "exomologeisthai" có nghĩa là "xưng thú”, "tuyên xưng công khai đức tin" "dâng lời ngợi khen", "cảm tạ". Như thế, giữa những thất bại trong việc rao giảng, đây là một lời cầu nguyện ngợi khen tràn ngập linh hồn; một thứ Thánh Thể ".

Và chúng ta không thể không ngạc nhiên bởi sự giống nhau đáng ngạc nhiên giữa lời Đức Giêsu cầu nguyện với bài ca ngợi khen (Magnificat) của Mẹ Người. "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng". Cả hai bài kinh này đều được cấu kết bằng những ẩn dụ trong Kinh Thánh (Cn 8,9; Xi-ra-cít 51,1-30; Kn 6,9; Đn 7,13-l4). Và cả hai ca hát niềm vui của những người nghèo khó mà Thiên Chúa ưa thích.

Vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng mạc khải cho người bé mọn.

Đức Giêsu cầu nguyện và đi từ đời sống cụ thể của Người. Người đi từ sự thất bại mà các kinh sư và các Thầy dạy Luật đã gây ra cho Người... từ sự tiếp đón mà Người đã nhận từ những người khiêm nhượng và nghèo khó. Còn tôi thì sao? Tôi có cầu nguyện từ' đời sống và những lo lắng của tôi? Tôi có dám thử tìm ra "lời để ngợi khen" giữa những hoàn cảnh bất lợi đang làm tổn thương tôi? Khi đọc lời kinh này của Đức Giêsu người ta có thể bị đụng chạm bởi cảm tưởng Thiên Chúa "giấu giếm" một điều gì đó cho một số người Và mạc khải điều đó cho những người khác! Trong toàn bộ Cựu ước, chúng ta tìm thấy ngôn ngữ Sê-mít này rất mạnh xem ra bất chấp tự do của con người. Ví dụ như, chính Thiên Chúa làm cho "lòng vua Pha-ra-on thành ra chai cứng" (Xh 9,12). Công thức này muốn diễn tả tất cả không ngoại trừ, hoàn toàn tất cả đều phụ thuộc vào Thiên Chúa, nhưng đúng là con người phải chịu trách nhiệm về những sự khước từ của mình, mà không phải là Thiên Chúa. Chính vì thế người ta tìm thấy công thức rõ ràng là trái ngược: "Vua Pha-ra-on làm cho lòng mình ra chai cứng (Xh 8,11). Dĩ nhiên ở đây vấn đề không phải là Đức Giêsu cám ơn Cha Người về việc truyền giảng thất bại và Người cũng không đổ cho Thiên Chúa sự thất bại ấy... Nhưng với sức mạnh trong ngôn ngữ mà chúng ta không còn sử dụng nhưng đã được điển hình hóa về mặt văn hóa, Người cám ơn Cha Người vì đám đông không học vấn đã tiếp đón Lời trong khi những người trí thức, than ôi lại tha hồ bị kẹt cứng trên sự chắc chắn của họ.. Chúng ta còn nhận thấy rằng đây không phải là một thứ kết án trí tuệ. Nhưng Đức Giêsu thừa nhận rằng thông thường trí tuệ quý báu của con người thực ra sẽ dẫn tới chỗ kiêu ngạo mù quáng vì tự phụ. Lý trí con người là khả năng phi thường để con người hiểu biết những sự vật của thế giới này và thiết lập những quy luật khoa học... nhưng lý trí bị giới hạn trong thế giới, và không thể nhận ra Nước Thiên Chúa bởi chỉ ánh sáng duy lý. Thánh Phaolô sẽ nói về đức tin như một thứ điên rồ": "Tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa" (1Cr 2,1). "Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ, nhưng cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người" (1Cr 1,18-30).

Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

Để giải thích sự tiếp nhận của những người bé mọn và nghèo khó, đối diện với sự khước từ của các người thông thái và tự mãn, Đức Giêsu không phân tích khuynh hướng tâm lý và đức hạnh của họ. Người lập tức cho rằng đặc quyền của- những kẻ bé mọn là "lòng nhân từ của Thiên Chúa". Họ không tốt hơn những người khác nhưng vì họ chịu thua thiệt, họ đặc biệt lôi kéo "lòng nhân hậu của Chúa Cha. Đó là một tư tưởng bền bỉ của Đức Giêsu: bạn là kẻ tội lỗi; bạn bị coi chẳng ra gì; bạn bị khinh bỉ bạn, bị đè bẹp... Cha của Đức Giêsu nhìn bạn với một tình yêu thương đặc biệt.

Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.

Một lần nữa, phải nhận thức về lòng tự hào không chịu nổi của ông Giêsu người Na-da-rét. Người khẳng định có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa và chính Người là một người nghèo giữa những người nghèo. Vả lại, Người dám nói rằng không một ai biết Người. Không một ai có thể thâm nhập vào căn tính sâu xa của Đức Giêsu trừ Chúa Cha! Và, ngược lại Đức Giêsu thực sự cho rằng chỉ có Người biết được Thiên Chúa!

Trong những công thức ấy, người ta nhận ra những tư tưởng thường được Thánh Gioan hòa điệu: "Không ai đến Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Khi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V định nghĩa Đức Giêsu như “Thiên Chúa thật, và người thật", khi các Công đồng ấy định nghĩa Ba Ngôi với sự bằng nhau về bản tính của Chúa Cha, Chúa Con và. Chúa Thánh Thần, thì các Công đồng ấy chỉ nói lại bằng những từ ngữ chính xác hơn điều mà các sách Tin Mừng và giáo lý tiên khởi đều đã khẳng định. Một bản văn nhân bản văn này, trong số nhiều bản văn khác, chứng tỏ rằng những giáo huấn về Chúa Giêsu đã đồng hóa "con người này" với "Đức Chúa Giavê. Phải, những người Do Thái đã gán cho con người Giêsu những câu nói chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa: "Không ai biết Tôi ngoài Thiên Chúa; và không ai biết Thiên Chúa ngoài Tôi. Vả lại, giả thuyết những người Do Thái "thần linh hóa" một người Do Thái quả là một điều không có thật.

Trong các tôn giáo khác của Đế quốc La Mã, có thể nghĩ đến những con người, ví dụ như những Hoàng đế đã được thần linh hóa. Nhưng điều này không thể nghĩ ra được trong môi trường Do Thái: họ thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất siêu việt không thể diễn tả, mà người ta không bao giờ đám gọi tên! Kết hợp Đức Chúa Giavê với một con người, dù người này là ai là một sự phạm thánh ghê tởm.

Để đi đến điều đó, cần phải có những sự bó buộc mạnh mẽ trên bình diện các "sự kiện" và những "lời" của Đức Giêsu; tác động đến những người đã là các chứng nhân.

Phần chúng ta, sau 2000 năm, chúng ta chiêm niệm mầu nhiệm kỳ diệu ấy với nhiều sự đơn sơ và tôn thờ? Con người mà người ta thấy ăn bánh và quả ô-liu là người nông dân bé mọn ở Na-da-rét đã từng đốt lửa trên bờ hồ, là người mà người ta đã thấy lúc khóc và lúc cười, lúc tức giận và lúc đói khát. Một con người mà ban đêm người ta nghe thấy tiếng ngáy trong những lúc cắm trại ở giữa cảnh trời sao diễm ảo; người ta đã nghe Người trong lúc cầu nguyện, đã gọi Thiên Chúa "'Abba?". Và, với một vẻ bề ngoài tầm thường nhất, người khẳng định: "Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con, và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho!". Mạc khải? Thật vậy, người ta chỉ biết Thiên Chúa qua điều mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta!

Mạc khải. Một cách hiểu biết khác với sự nhận thức duy lý Thiên Chúa không được chinh phục sau một quá trình suy luận thông thái. Thiên Chúa được tiếp đón trong một tấm lòng nghèo khó: "Thầy sẽ chỉ cho con bí mật của Thầy nếu con yêu mến Thầy Điều đã bị giấu đối với các bậc khôn ngoan và thông thái được mạc khải cho người bé mọn! Người ta không đổ đầy một cái chén đã đầy rồi phải có một tấm lòng trống trải để Thiên Chúa tìm được chỗ cho Người. Phải có một trí tuệ khiêm tốn để Thiên Chúa bày tỏ Người ra. Lạy Chúa, xin tạo ra trong chúng con sự sẵn sàng để đón nhận mạc khải.

Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi,.vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.

Đức Giêsu khẳng định rằng "ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Tin Mừng có những yêu sách rất mạnh mẽ. Điều quan trọng là không nên giản lược những yêu sách ấy. Nhưng Đức Giêsu tự giới thiệu như đầy sự hiền hậu và khiêm nhường: Người là lòng nhân hậu của Thiên Chúa nhập thể. Lúc đó có thể nói sự hoàn thành những yêu sách ấy xuất phát tự bản chất của hữu thể. Rõ ràng Người đến đề nghị một cách sống mới cho những người không thể mạng gánh nặng của Luật pháp; tức những người nghèo và những người tội lỗi.

Các ngôn sứ đã loan báo rằng Thiên Chúa từ chối viết Luật trên các bảng đá, theo cách ở bên ngoài của con người, nhưng Người sẽ viết Luật trên lòng người: đó là sự loan báo của Tân ước (Gr 32,31-34). Chúng ta nhận thấy sự nhất quán của tư tưởng ấy. Luôn luôn là vấn đề những người "nhỏ bé", hèn mọn. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa cao cả, Con của Đức Chúa trời đất, đến chia sẻ sự đau khổ của những người nghèo, để giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy. Người đề nghị làm nhẹ bớt những gánh nặng của chúng ta. Phải luôn suy niệm thấu đáo hình ảnh này: người nào mang gánh nặng nề; dừng lại một giây lát để đặt gánh xuống! Và đây là điều Đức Giêsu đề nghị chúng ta: "Thầy sẽ cho anh em nghỉ ngơi bồi dưỡng!".

 

80.Chú giải của Fiches Dominicales

KINH TẠ ƠN CỦA ĐỨC GIÊSU

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

+ Trong một bối cảnh đối nghịch và thất bại hiển nhiên sau những chỉ dẫn làm nòng cốt cho sứ mạng Kitô hữu (ở Chúa nhật 11, 12 và 13), ta chờ đợi được thấy 12 môn đệ lên đường sứ mạng. Nhưng hôm nay, ta gặp lại Đức Giêsu giữa bộn bề hoạt động truyền giáo, Matthêu viết: "Dạy bảo 12 môn đệ rồi, Đức Giêsu lên đường dạy dỗ và rao giảng tại các thành thị trong nước (11,1). Trong hoạt động truyền giáo ấy, Người phải trả lời những chất vấn của Gioan Tiền hô cũng như phải đương đầu với sự cứng lòng, sự chống đối của các đối thủ và sự bất tín của các thành thị xứ Galilê.

Đối diện với các sứ giả của Gioan Tiền hô. Gioan Tiền hô nhận thấy thái độ của Đức Giêsu không phù hợp với những lời rao giảng nghiêm khắc của ông, nên từ trong tù, ông sai người đến hỏi Đức Giêsu: "Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi một người khác?”.

Để trả lời họ, Đức Giêsu đưa họ trở lại những lời tiên báo của Isaia: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ngươi đã nghe và đã thấy: người mù nhìn thấy, kẻ què đi được kẻ chết sống lại và người nghèo được nghe giảng Tin Mừng". Thời ứng nghiệm lời tiên tri đã tới. Phải biết nhận định những dấu chỉ loan báo về Nước Trời. Đức Giêsu nói với Gioan: "Phúc cho ai không vấp phạm vì Ta". Khi "những sứ giả của Gioan đi rồi", Đức Giêsu tiếp tục liên hệ sứ mạng của Gioan với sứ mạng của Ngài và tố cáo những ai không đón tiếp sứ mạng của các Ngài. Vạch trần ý đồ xấu xa của các đối thủ, Đức Giêsu so sánh họ với đám trẻ con hư đốn muốn chơi trò đám tang khi ta đề nghị chúng chơi trò đám cưới, và đòi chơi trò đám cưới khi ta đề nghị chúng chơi trò đám tang. Vì thái độ bất tín của miền Galilê quê hương Ngài dù họ đã thấy biết bao phép lạ Người làm sau cùng Ngài đã phải thốt lên những lời đau đớn y hệt các tiên tri trong Cựu ước.

1. Kinh tạ ơn của Đức Giêsu.

Vậy mà Matthêu đã đặt lời kinh nguyện lạ lùng của Đức Giêsu vào trong cái bối cảnh chống đối và thất bại hiển nhiên của sứ vụ Galilê ấy. Lời kinh mà trong Phúc âm Luca 10,21-22, ta gặp thấy trong sứ mạng của các môn đệ.

Một lời cầu nguyện mang âm hưởng rất Do Thái, trong đó Đức Giêsu ngỏ lời với "Chúa trời đất". Một lời cầu nguyện mà tiếp theo đó, Đức Giêsu, trong tương quan với Đấng mà Ngài gọi là "Cha", đã tự nhận mình là "Con": một danh hiệu bất ngờ qua đó hiển lộ mối liên hệ duy nhất nối kết các Ngài: "Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự, không ai biết Con trừ ra Cha; cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và người mà Con muốn mạc khải cho”.

Một lời cầu nguyện còn vang âm lời phán ra từ đám mây, khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan "Đây là Con Ta yêu dấu: Ta hài lòng về Người”.

Bây giờ Đức Giêsu cầu nguyện: "Điều Cha đã giấu những bậc khôn ngoan thông thái, Cha lại mạc khải cho những kẻ bé nhỏ. Vâng, lạy Cha, Cha đã muốn như vậy vì lòng nhân lành của Cha. Cha cũng dùng tình yêu thương ấy ấp ủ Đức Giêsu, Con rất yêu dấu, Tôi tớ của Người, và những kẻ bé nhỏ sẽ nhận biết Cha trong cảnh nghèo hèn của họ. Một kinh nguyện tạ ơn, một tiếng reo vui, một lời tuyên xưng đức tin, một "bài ca tán tụng". Tại sao lại tạ ơn? Vào đúng lúc khó khăn này? Không phải vì Ngài đã thất bại đối với những bậc khôn ngoan thông thái, những kẻ cho rằng họ nắm giữ đặc quyền hiểu biết, nhưng vì sự đón nhận mà đám đông những "người bé nhỏ", những kẻ khiêm nhường, những người có tâm hồn nghèo khó, dành cho Người. Những người ấy đã nhận ra nơi Người mầu nhiệm Thiên Chúa Cứu Độ bí mật tình yêu của Người đối với nhân loại. Họ đã nhận biết nơi Người Thiên Chúa tối cao đã tỏ ra gần gũi, Thiên Chúa vì đại đã tỏ ra ngang hàng với những kẻ bé nhỏ.

Cl Tassin ghi nhận: "Lời kinh này phản ánh đúng sự lượng giá của Đức Giêsu về sứ mạng của Người. Lời kinh cũng cho ta mẫu mực của mọi lời kinh tông đồ, lời kinh, biết nhìn lại những thành công và những thất bại, để khám phá ra ý định của Thiên Chúa với niềm hạnh phúc.

Trong lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu, những người bé nhỏ khám phá ra Thiên Chúa là một người Cha. Họ hiểu rằng giữa Thiên Chúa và con người ấy có một sự hỗ tương toàn vẹn, rằng Đức Giêsu muốn mạc khải Thiên Chúa và rằng, trong sứ mạng của Người, Thiên Chúa tỏ mình ra trong một ngôi vị.

2. …và lời mời gọi trở nên môn đệ Người.

Đối với những người được tỏ cho biết mối liên hệ duy nhất nối kết Người với Chúa Cha, Đức Giêsu kêu gọi hãy trở nên môn đệ của Người. Để qua Người đi sâu vào sự hiểu biết trừu tượng, nhưng trong một liên hệ sống động giữa các ngôi vị. "Gánh" mà Người gọi ra ở đây có lẽ là gánh của thói duy lề luật tỉ mỉ. Người là Đấng đến không phải để phá huỷ, nhưng"hoàn thành", Người "chống lại thói tục chính yếu của tôn giáo thời ấy là áp đặt một kỷ luật khắt khe trên con người mà không thông truyền cho họ niềm vui ơn cứu độ". Người đề nghị một sự công chính mới. Một sự công chính đòi hỏi hơn nhưng cũng nhẹ nhàng hơn, vì đó là sự gắn bó với cá nhân của Người, Đấng khai mở ra tình yêu của Chúa Cha. Một sự công chính mà bản thân Người rất "nhân lành và khiêm nhường trong lòng" đến hoàn tất trong những ai gắn bó với Lời Người.

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Một lời nguyện không tách rời những câu Phúc Âm ở đoạn trước. (L. Monloubou, Evangile de Matthieu, Salvator). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu được trích dẫn ở đây không tách rời những câu Phúc âm ở đoạn trước. Vì quen chia cắt chương này, ta hay coi thường mối liên hệ chặt chẽ nối kết Lời của Đức Giêsu với sự thất bại khi Người rao giảng tại Galilê. Thất bại này giải thích tại sao Đức Giêsu kết án những thành thị bất tín. Điểm lý thú của lời kinh nguyện của Đức Giêsu là, sau khi cảm nhận sự thất bại trong chuyến đi vòng quanh Galilê, Đức Giêsu "chúc tụng” Chúa Cha. Trong Cựu ước không thiếu gì những bản văn miêu tả phản ứng hiếu chiến rất nhân loại của các ngôn sứ. Sau khi bị tổn thương vì gặp thất bại, họ qui trách nhiệm cho Thiên Chúa về những thất bại đó. Bài tự thuật của Giêrêmia tường thuật lại mối thất vọng nặng chất người - trừ Đức Giêsu ai dám kết án một sự thất vọng như thế? của vị ngôn sứ bất hạnh, bị các thính giả mà ngài kết án vây hãm tứ bề. Những câu nói của một vị ngôn sứ tuyệt vọng vì thất bại, muốn nghi ngờ Thiên Chúa đã được Giêrêmia thuật lại (15,15-18 hoặc 15,19-21) có thể dùng trong bài đọc 1; những lời ấy cho thấy sự yếu đuối của tín hữu, và của chính vị ngôn sứ đã muốn nghi ngờ Thiên Chúa, chúng cho thấy sức mạnh vô song của Đức Giêsu, vì, thay vì phản loạn, nghi ngờ Ngài đã "chúc tụng" Ngài nói "Vâng, lạy Cha, đó là ý định của Cha: Đức Giêsu chúc tụng. chúc tụng phát xuất từ sự ngưỡng mộ. Ta chúc tụng vì ngưỡng mộ một tác phẩm, một nhân vật có những dấu hiệu của sự hoàn hảo, toàn bích. Như thế Đức Giêsu nghĩ rằng kết quả của chuyến rao giảng tại Galilê, tuy bề ngoài có vẻ bi quan, vẫn có cái gì tích cực. Để thẩm định sự vật như thế, phải vượt qua những lý do tự nhiên. Vì tiếng kêu thán phục thốt lên trong lời chúc tụng không chỉ phát xuất do sự vật mà ta nhìn ngắm, ngưỡng mộ, tiếng kêu ấy phát xuất từ việc đối chiếu với Thiên Chúa. Một... ngất ngây phát sinh khi ta thoáng thấy Thiên Chúa; tình trạng đó là kết quả của một hành vi của Thiên Chúa, như một tác phẩm thần linh. Vậy ta ngưỡng mộ Thiên Chúa hơn là tác phẩm của Người. Và ta chúc tụng. Đức Giêsu chúc tụng Thiên Chúa vì, tuy không quên trách nhiệm đối với những kẻ bất tín trong thất bại của Ngài (sự kết án những thành thị minh chứng điều đó) Ngài đã nhận ra một mầu nhiệm thần linh; Ngài biết rằng Thiên Chúa có mặt trong tấn kịch. Nó đã hầu như phá huỷ nỗ lực rao giảng. Phúc âm của Ngài. Ngài ngưỡng mộ sự hiện diện này, công trình của Thiên Chúa này. Chính Thiên Chúa đã che mắt những kẻ bất tín, cũng chính Thiên Chúa mạc khải cho "những ai đơn sơ": vì tất cả những điều đó, Ngài phải được chúc tụng. Ngài tỏ ra là một Thiên Chúa hiện diện còn hơn cả hiện diện: một Thiên Chúa "là Cha" Đức Giêsu nói: "Lạy Cha, Con chúc tụng Cha".

2. Đức Giêsu, sự mạc khải của Chúa Cha cho những kẻ bé nhỏ. (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s'est approché, DDB).

Lời nguyện của Đức Giêsu: "Lạy Cha là Chúa trời đất Con chúc tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan thông thái biết, nhưng Cha đã mạc khải cho những người hèn mọn...". Không có ý nói Thiên Chúa phân biệt đối xử; Đức Giêsu không tuyên bố cửa Nước Trời vĩnh viễn khép chặt đối với một vài loại người. Nhưng mỗi người chúng ta đều bị đe doạ vì thói tự mãn, kiêu căng về kiến thức, về sự khôn ngoan phàm trần... Để đón nhận Thiên Chúa và ơn cứu độ, con người phải diệt trừ thói tự mãn. Đó không phải là hạ mình. Ngược là đó là sự cao cả của con người: năng lực của họ mở ra vô biên và do đó đạt đến viên mãn. Vì thế Đức Giêsu có thể ca ngợi Chúa Cha đã ban cho con Người được đi vào mầu nhiệm của Ngài: "Con chúc tụng Cha...vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn". Đó không phải là một lựa chọn cứng ngắc, nhưng là sự quan tâm yêu thương của Ngài. "Vâng? lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”.

Điều mà Chúa Cha che giấu những người khôn ngoan thông thái, nhưng mạc khải cho những kẻ bé: mọn, đó là mầu nhiệm Thiên Chúa, đời sống thân mật của Thiên Chúa. Thiên Chúa Tình Yêu tỏ mình ra trong mầu nhiệm đời sống của Ngài, mầu nhiệm sự thân mật của Ngài, là Thiên Chúa Ba Ngôi: -"Tất cả đã được ban cho Ta từ Cha. Không ai biết Con trừ ra Cha, cũng không ai biết Cha trừ ra con và những người mà Con muốn mạc khải cho? Vì đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa, của tình yêu là sức sống Thiên Chúa mà Ngài muốn ta chia sẻ, sự khôn ngoan thông thái loài phàm trần chúng ta không tài nào hiểu được. Ta không thể phán đoán Thiên Chúa theo chuẩn mực nhân loại. Ta không thể tiến vào mối thân mật thâm sâu với Thiên Chúa bằng những nỗ lực hay bằng lý luận của loài người. Ta chỉ có thể mấp mé ở ngưỡng cửa nơi lý trí còn có thể phiêu lưu, nơi lòng muốn có thể vươn tới nhưng không bao giờ đạt được đối tượng. Các triết thuyết lý luận về Thiên Chúa, các nhà thần bí hướng dẫn cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng sau cùng Thiên Chúa vẫn là "Đấng vượt trên tất cả". Ta chỉ nhận biết Ngài nếu để Ngài dạy dỗ: Ta chỉ gặp được ngài nếu để Ngài dẫn ta đi. "Không ai biết được Chúa Cha trừ ra Con và những ai mà Con muốn mạc khải cho....Đức Giêsu là con đường duy nhất. Ngài là Con Thiên Chúa làm người để nói lời Thiên Chúa bằng ngôn ngữ loài người và để tỏ ra tình yêu Thiên Chúa trong cử chỉ của con người... Ngài đã trở nên anh em của ta, để dẫn đưa ta về với Cha qua những nẻo đường quanh co của hiện diện nhân loại. Mắt ta ngây ngất chiêm ngưỡng nơi Ngài một sự khôn ngoan và một tình yêu đích thực. Tim ta bốc lửa vì lời Ngài trao ban cho ta bí mật của bụi gai cháy đỏ. Ta chỉ biết được Chúa Cha và Chúa Con nhờ thờ lạy, chiêm ngắm trong ngọn lửa của Thánh Thần.

 

81.Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

TIN MỪNG MẶC KHẢI CHO NGƯỜI HÈN MỌN

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Làm sao đặt đoạn văn này vào trong toàn bộ chương 11? Nó có tiếp nối chủ đề trung tâm của các chương 11-13 không?

2. Thành ngữ “thuở ấy” có giá trị gì đặc biệt?

3. Tại sao Chúa Giêsu đội ơn Cha Người vì đã gặp thất bại nơi các kẻ “khôn ngoan và thông thái”?

4. Hãy đọc kỹ các chú thích của BJ.

5. Đâu là ý nghĩa của chữ “biết” theo Kinh Thánh?

6. Hãy đối chiếu đoạn văn này với Hc 6, 25-30; 24, 19 và 51, 1-30: có tương đồng về ngữ vựng, cơ cấu không?

7. “Ách” của Chúa Giêsu dịu dàng hơn ách Biệt phái theo nghĩa nào? Phải chăng Người đòi hỏi ít hơn họ?

1. Trong thần học của các giáo sĩ Do thái, việc gán tính cách lịch sử cho hành động của Thiên Chúa đã dẫn đến hậu quả này là làm cho thời hiện tại mất đi mọi giá trị đối với việc cứu rỗi. Hành động cứu rỗi của Thiên Chúa không còn được đặt trong tương quan trực tiếp với hiện tại nữa; việc cứu độ của Ngài có thể bảo là đã bị giản lược thành một âm vang, được nhiều tiếng nói trung gian truyền đạt. Và chỉ nhờ các tiếng nói này, là những loại âm vang gián tiếp, mà Thiên Chúa ngỏ lời với mỗi cá nhân. Ngài đã bộc lộ thánh ý Ngài xưa kia, và mọi suy tư thần học của các giáo sĩ đều tham chiếu về chính cái “xưa kia” của Sinai ấy. Dĩ nhiên, người ta cũng hy vọng đợi chờ ngày cánh chung lúc Thiên Chúa sẽ tái can thiệp một cách mạnh mẽ và dứt khoát để diễn lại các kỳ công xa xưa của Ngài. Nhưng thời hiện tại, cái thời gian kỷ niệm quá khứ và hy vọng sự hoàn thành ơn rỗi trong tương lai, đối với nền thần học đương thời Chúa Giêsu chỉ là một giây phút trống rỗng, mà dấu hiệu là sự bất an của tâm hồn đạo đức. Rồi phải thêm rằng ý muốn sống động của Thiên Chúa được đồng hóa với Lề luật (Tora). Vì thế, phương diện hiện sinh của tri thức về Thiên Chúa, nghĩa là sự kiện mỗi cá nhân hiện sống được hiệp thông với Ngài nhờ ân sủng, và do thấy yếu tố hữu ngã của sự sống Ngài trong lịch sử cứu rỗi đều bị giảm thiểu để nhường chỗ cho một yếu tố thuần lý là sự cần thiết phải học hỏi thánh ý Ngài trong Lề luật để trở thành người đạo đức. Do đó mà trong Do thái giáo của các giáo sĩ, hình ảnh Thiên Chúa đã bị trừu tượng hóa một cách lạ lùng. Trái lại Chúa Giêsu, qua nhiều lời tuyên bố mình hiện sống thân mật với Thiên Chúa một cách hiện sinh, đã tỏ ra khác biệt hoàn toàn với các thần học gia đương thời.

2. Nhưng còn một điều mới mẻ căn bản hơn nữa. Đó là Chúa Giêsu tuyên bố rằng, qua sự hiện diện của Người, sự hiện của Ngôi Con, Thiên Chúa đã dấn thân vào một công cuộc quyết liệt và dứt khoát, rằng người lớn hơn một ngôn sứ hay hơn .Vị Ngôn sứ mà Đnl 18, 15 đã loan báo ngày xưa. Các tác giả Tin Mừng quá hiểu điều vừa nói, bằng chứng là Mt và Lc đặt trước bài hoan ca hôm nay (đoạn văn chúng ta) lời Người khiển trách các thành mà, mặc dầu thấy bao phép lạ làm trước mắt, vẫn không chịu nhận rằng qua các công việc đó Người muốn tỏ mình như là yêu sách tối hậu của Thiên Chúa. Tính cách dứt khoát của yêu sách này tạo thêm một tiêu chuẩn phán xét họ. Tội lỗi của họ, Khoradin và Betsaiđa, quả kinh khủng hơn là tội của Sôđôm, là tấm gương xưa nay về sự bất chính.

3. Toàn thể các chương 11, 12 và 13 rất ăn khớp với nhau trên phương diện thần học? vì cùng bị chi phối bởi chủ đề về cái được “dấu kín”; thành thử các câu 25-30 thật là nằm gọn hoàn toàn trong cơ cấu chung. Chúng rõ ràng có một giọng điệu của Gioan, về hành văn cũng như về tư tưởng, nhất là câu 27 (x. Ga 3, 35; 17, 2; 7, 29; 10, 14-15). Đàng khác nên lưu ý rằng, trong văn mạch này, đoạn văn không đặt trọng tâm trên Chúa Con xét như là Con cho bằng là trên cái Người mặc khải cho nhân loại. Xét trong toàn bộ, các câu 25-27 chẳng những nói rằng Thiên Chúa thường mặc khải cho những kẻ bé mọn” điều Ngài dấu với hạng thông thái khôn ngoan, nhưng còn bảo đó chính là cách thức riêng biệt mà Ngài dùng để tự mặc khải qua sứ vụ Chúa Giê-su.

4. Nhịp điệu của lời Chúa Giêsu cầu nguyện trong đoạn văn này khá gần với nhịp điệu nằm suốt bài ca tạ ơn mà Bensira đã dùng để kết thúc cuốn sách của ông (Hc 51,1-30); bài ca ấy cũng mở đầu bằng một lời “tuyên xưng” (examologoumaisoi, cùng thành ngữ như trong Mt 11, 25), rồi khai triển chủ đề đi tìm sự Khôn ngoan Thiên Chúa đã ban tặng, và kết thúc với một lời kêu gọi hãy học với nó, hãy nhận lấy “ách” và “gánh” của nó, để tìm được sự “nghỉ ngơi” (Xem thêm Hc 6, 25-30 và 24, 19, nơi gặp lại cùng những thành ngữ này).

Một nhịp điệu tương tự cũng gặp thấy trong sách khôn ngoan (Kn 6-9) là sách tán dương sự cao cả của đức khôn ngoan và kêu mời độc giả hãy đến làm môn đồ của nó đặc biệt xem Kn 8, 9; 9, 1. 4. 9). Tuy nhiên bản văn Mt đi xa hơn nhiều, vì đánh dấu việc hoàn thành của chính sự Khôn ngoan thần linh trong Chúa Giêsu, và bối cảnh cánh chung của chương cho phép hiểu, dưới ánh sáng của Đn 7, 13-14, rằng Chúa Giêsu thật là Con Người đã được loan báo (11, 19), đã được ban cho quyền năng trên mọi dân nước trần gian. Việc hoàn thành ấy nằm trong sự kiện là Chúa Giêsu, người đầu tiên, tự trở nên “bé mọn”, hay nói cách khác, nên “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (11, 29). Như vậy là tử hệ của Chúa Giêsu, người Tôi tớ, đã được mặc khải ra.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Thuở ấy". Chi tiết xác định này có một giá trị thần học hơn là thời gian; nó nối kết câu 25 với cc. 20-24: dù quê hương của Chúa Giêsu (Capharnaum, c.23) có từ khước Người chăng nữa, thì những kẻ bé mọn vẫn hiệp lòng với lương dân (Tyr, Siđon c.21) để đón tiếp Người. Các thành, trung tâm của các trường giáo sĩ và của văn hóa tôn giáo đã chẳng biết Đấng mà những kẻ "đơn hèn" nhận ra vậy.

“Con xin ngợi khen Cha": Chúa Giêsu đội ơn hay xưng tụng Cha Người vì đã gặp thất bại nơi những kẻ khôn ngoan thông thái; không phải Người ưa thích đám hèn dân hơn hạng ưu tú vì tính khí hay là vì thiện cảm tự nhiên đâu; song Người nhận ra rằng thất bại ấy, và sự thành công đi kèm theo, đều tương ứng với chính bản chất của công cuộc Người thực hiện để phục vụ nhân loại là cứu kẻ nghèo, hạng người bị giới quyền cao khinh bỏ.

“Lạy Cha": Ở đây, Matthêu dùng hô cách (vocatif) patôr là hình thức đúng của tiếng kêu. Nhưng trong câu tiếp, cũng tiếng kêu ấy của Chúa Giêsu (Lạy Cha!) lại được diễn tả bằng chủ cách (nominatif) (ho patôr) là hình thức sai trong Hy ngữ. Việc chuyển từ hô cách sang chủ cách cho thấy từ ngữ Aram Chúa Giêsu dùng hẳn là Abba, tiếng mà vào thời Người, thường được sử dụng khi gọi (hô cách) cũng như khi nói về người cha (Hy ngữ ho patôr). Điều này thánh Phaolô đã xác nhận lúc bảo Kitô hữu cầu khẩn Thiên Chúa bằng mấy tiếng “Abba, ho patôr" (Rm 8,15 và Gl 4, 6). Thế mà, chữ Abba là một tiếng kêu thân mật dành cho việc xưng hô trong gia đình. Không bao giờ một người Do thái dám gọi Thiên Chúa bằng Abba tương đương với chữ ba ơi trong việt ngữ, papa trong Pháp ngữ. Người ta chẳng tìm thấy một lời khẩn cầu nào với Thiên Chúa bằng chữ Abba trong mọi kinh nguyện Do thái của 10 thế kỷ đầu trước Chúa Kitô, cũng như trong các kinh nguyện phụng vụ hoặc kinh nguyện riêng tư cả. Thành ra ngôn ngữ của Chúa Giêsu ở đây có một cái gì đó mới mẻ, độc đáo, lạ lùng: Người dám nói với Thiên Chúa như một đứa bé nói với cha nó cách đơn sơ, thân tình, không chút sợ hãi. Tiếng này mặc khải chính nền tảng của mối thông hiệp giữa Chúa Giêsu với Thiên Chúa vậy.

“Chúa trời đất": Đây là nơi duy nhất trong Tin Mừng mà chúng ta gặp tiếng xưng hô long trọng này. Công thức thật đặc biệt quan trọng ở đây vì cho phép ta thực sự lượng giá được tầm mức và ý nghĩa của những lời sắp nói.

"Đã che dấu ": Cặp động từ "che dấu-mặc khải" nổi bật lên trên toàn bộ các chương 11-13 và là chìa khóa giúp hiểu được chúng. Không phải loài người, cũng chẳng phải Chúa Giêsu, song chính Thiên Chúa là chủ từ của động từ ấy; câu 26 sẽ nhấn mạnh điều đó; sự cứng lòng và niềm tin mà Chúa Giêsu gặp không phải là những tai nạn, cũng chẳng phải là những kết quả tích cực hay tiêu cực, của các nguồn lực riêng của Người đâu; chính quyền bính và ý muốn Thiên Chúa điều khiển tất cả hoạt động của Người.

“Điều ấy": Không phải là những phương diện riêng biệt đặc biệt cao sâu của sứ vụ Chúa Giêsu, song là ý nghĩa tổng quát của toàn thể công trình mặc khải của Người. Các tiếng “Khôn ngoan" và “thông thái" cùng chỉ hạng học thức, chuyên môn, có thẩm quyền trong lãnh vực tôn giáo (x. Is 29, 14 và 1Cr 1, 19); trong lúc tiếng bé mọn" chỉ những “người nghèo trong tinh thần” của Bát phúc (Tv 19, 8; 116, 6), chỉ đám cùng dân là những người "tội lỗi" mà Biệt phái bao giờ cũng khinh bỉ; lý tưởng của những kẻ sau này ngày càng thoái hóa sự hiểu biết có tính cách vật chất và thuần lý về Lề Luật các truyền thống giáo sĩ. Như vậy ở đây Chúa Giêsu vừa đối lập với ngộ đạo kiểu quý phái của Qumrân vừa sung khắc với các tôn giáo huyền bí của các nhóm người Hy lạp.

“Không ai biết được Cha trừ ra Con": Đối lại với tri thức thuần lý của các giáo sĩ, Chúa Giêsu đưa ra một tri thức diện hiện sinh, làm bằng sự thân mật và tình yêu. Ý chí, tình yêu, cảm giác, nghĩa là tất cả mọi hình thức của trí tuệ mến yêu (inteuigence aimnte) đều tham dự vào tri thức đó. Đàng khác, Kinh Thánh đã chẳng gọi cuộc gặp gỡ sâu xa nhất giữa hai vợ chồng trong tình yêu là sự "hiểu biết" đó sao (St 17, 25...)? Ở đây biết và yêu chỉ là một chuyện. Đây cũng là nơi duy nhất trong các trình thuật Nhất lãm phát biểu một cách rõ ràng và không chối cãi được mối tử hệ thần linh của Đấng Mê-si-a.

"Hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng". Cũng một tiếng Hy lạp có nghĩa "gánh nặng được dùng chỗ này và Mt 23, 4 nơi Chúa Giêsu quở trách Biệt phái đã đặt những “gánh nặng nề" lên vai người khác. Như vậy ở đây Chúa Giêsu chẳng nghe lời các thử thách và khó khăn của đời sống, sức nặng của tội lỗi v v nhưng đến gánh nặng không thể nào chịu đựng của tinh thần vụ luật giáo sĩ. Điều này được xác nhận trong các câu tiếp theo: "mang lấy ách" là một thành ngữ thông thường các giáo sĩ dùng để chỉ ách của nước Thiên Chúa, của Lề luật, của trời, của các huấn lệnh v.v... xem chú thích BJ). "Ta sẽ nâng đỡ các con": Hy ngữ: anapausô - dịch sát chữ là: "Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức".

"Hãy mang lấy ách của Ta": Chúa Giêsu không đến để miễn cho con người mọi bó buộc luân lý; Người thay thế các yêu sách Lề luật Do thái bằng những đòi hỏi của Người là những đòi hỏi, như đã thấy trong Diễn từ trên núi, cũng có tính cách nghiêm chỉnh, và còn triệt để hơn các đòi hỏi của luật Môisen. Chỉ có điều là vị Tôn sư đề nghị ra chúng thì hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, khác xa với các giáo sĩ. Và chẳng những Người ban cho môn đồ sức mạnh để mang ách đó trong vui tươi song còn làm gương cho họ bằng cách sống điều mình đòi hỏi: "Lịnh truyền của Người không nặng nề" (1Ga 5, 3) và "chỉ tóm lại nơi một lời này: Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình ngươi" (Rm 13, 9).

"Ta hiền lành": Nơi đây Mt dùng chữ praus (hiền lành) như ơ chân phúc thứ hai. Chúa Giêsu là kiểu mẫu của môn đồ vậy.

“Ach Ta thì êm ái và gánh Ta lại nhẹ nhàng": Điều này chẳng có nghĩa là Chúa Giêsu đòi hỏi ít thua các giáo sĩ đâu. Người đòi hỏi nhiều hơn nhưng cách khác. Tình yêu làm mọi gánh hoá ra nhẹ nhàng. "Nơi nào có tình yêu, nơi ấy chẳng có gian khổ" thánh Augustin đã nói như thế.

KẾT LUẬN

Học theo đức Khôn ngoan chân thật của Nước Trời là nên nghèo hèn với Chúa Giêsu. Cái thường gây vấp phạm, là cách thức Chúa mặc khải chính mình Người: quyền này tỏ trong sự yếu đuối!

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Giống hạng người "khôn ngoan, thông thái" mà Chúa Giêsu nhắm đến là những kẻ dùng trí tuệ riêng để xây cho mình một Thượng đế quan, một vũ trụ quan hoàn toàn đóng kín, cùng nhất định không muốn thay đổi chúng để học thêm điều gì mới lạ. Họ tưởng mình đã biết hết về Thiên Chúa, đã nắm trọn học thuyết đích thật về Ngài. Nhưng người ta có bao giờ mà nắm được chân lý, chính Chân lý luôn nắm chúng ta, và chỉ cần chúng ta để cho Ngài nắm lấy. Cơn cám dỗ ngàn đời của tâm trí con người, khởi từ câu chuyện biểu tượng của Adam và Eva, bao giờ cũng vẫn là một: Đó là tin rằng "mắt chúng ta sẽ mở ra" và "chúng ta sẽ nên giống Thiên Chúa" bằng cách ăn trái cây hiểu biết, bằng cách vận dụng trí tuệ của mình, thay vì chấp nhận rằng chính trong khi tự biến đi trong tình yêu Thiên Chúa mà chúng ta trở nên giống Ngài nhờ ân sủng.

2. Đức tin chúng ta đừng bao giờ biến thành một gánh nặng không thể vác nổi, một gánh nặng làm tróc thịt trầy da. Nếu nó trở thành một gánh nặng, hãy tin chắc rằng nó không chính thực đâu. Tình yêu chỉ biết mang lại tự do, ánh sáng và sự nâng đỡ cho những tâm hồn gặp gỡ được nó.

3. Trong đoạn này, Chúa Giêsu cho chúng ta một tấm gương cầu nguyện. Lời cầu nguyện ấy bắt đầu bằng một lời tạ ơn nói lên lòng chấp nhận thánh ý Chúa Cha và biết ơn Ngài vì đã cho gặp thử thách của thất bại. Nó tiếp tục bằng cách đi lên đến tận nguồn của lịch sử cứu rỗi, tức là mầu nhiệm Thiên Chúa trong chính mình Ngài. Sau cùng nó kết thúc bằng cách hứa ban cho ta ơn cứu rỗi ấy một cách cụ thể nếu chúng ta chấp nhận trở nên khó nghèo.

4. Ngày nay những kẻ "bé mọn" là ai? Phải chăng là một giai cấp xã hội? Có tương quan nào giữa lời nhận xét của Chúa Giêsu cách đây 2000 năm và cái chúng ta có thể nhận xét hôrn nay các tin hữu không? đâu là những kẻ khôn ngoan và thông thái của thời đại này? Phải hiểu thông thái và khôn ngoan theo nghĩa trần tục hay nghĩa tôn giáo? Ta có được đi đến chỗ bảo rằng các tín hữu tưởng mình biết mọi sự về Thiên Chúa những kẻ khôn ngoan và thông thái hiện thời mà ơn cứu rỗi bị che dấu đi không?

5. “Ach dịu dàng của Chúa Giêsu chỉ các đòi hỏi của đức tin Kitô giáo, chỉ bổn phận Kitô hữu: giữ mười giới răn, chống lại tính xấu thực hành luân lý Tin Mừng của Diễn từ trên núi, tuân phục các quyết nghị của Giáo Hội, chấp nhận bệnh tật, già nua, cái chết. Gánh này, thay vì đè nặng chúng ta, lại ban cho đời chúng ta một ý nghĩa. Như đôi cần chim, nó mang chúng ta lên trong lúc chúng ta tưởng phải mang nó.

6. Chúng ta sẽ học ở trường nào nếu không phải là trường của Chúa Giêsu Kitô? Xa Người, chúng ta chỉ có thể học đòi theo những thúc đẩy mù quáng và mâu thuẫn của đam mê, những cái nhìn thiển cận và tầm thường của tinh thần thế tục, học đòi … theo sự khôn ngoan nhân loại, thứ khôn ngoan tự biết mình không thể ban một ý nghĩa cho cuộc đời. Còn nơi trường Chúa Kitô, chúng ta học biết rằng mình là con cái được yêu đang tiến về Chúa Cha, dưới sự dẫn dắt của Chúa Con hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.

 

82.Hãy mang lấy ''ách'' và ''gánh'' của Đức Giêsu

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Trong cuộc sống hiện nay, khoa học phát triển, con người được nhàn nhã hơn. Nhận định đó không sai. Tuy nhiên, nó chỉ đúng với những gì là thực dụng, hay đúng trong lãnh vực khoa học, còn trong lãnh vực tinh thần thì vẫn còn đó những buồn sầu, lo lắng; vẫn còn đó những đau khổ tinh thần; và vẫn còn đó những điều bất bình an khi con người có nhiều thứ phục vụ cho thân xác và chất lượng hiện sinh của cuộc sống. Câu hỏi được đặt ra là: làm sao cho cuộc sống này được hạnh phúc và bình an thực sự?

1. Những gánh nặng cuộc đời

Trước khi nói đến sự bình an, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những gánh nặng của con người trong cuộc sống hiện nay.

Những gánh nặng đó là:

Gánh nặng của những quá khứ với biết bao nhiêu điều chưa làm được;

Gánh nặng của hiện tại với biết bao bất công;

Gánh nặng của ham muốn, tham lam mà không đạt được;

Gánh nặng của những nghi ngờ, bon chen, hà tiện, ganh tỵ;

Gánh nặng của những khát vọng thống lĩnh xã hội bằng chiến tranh;

Gánh nặng của những người bị áp bức bạo tàn;

Gánh nặng của những kỳ thị chủng tộc và loại trừ;

Gánh nặng khi mang trên mình những căn bệnh nguy hiểm của thế kỷ;

Gánh nặng của những thất vọng, lo âu;

Khi mang trên mình những gánh nặng về thể lý hay tinh thần như thế, con người cần phải được nghỉ ngơi, bồi dưỡng để đem lại bình an. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, và hãy học cùng Đức Giêsu, vì Ngài “hiền hậu” và “khiêm nhường” trong lòng.

2. Ý nghĩa sự “hiền hậu” và “khiêm nhường” theo tinh thần Tin Mừng

Khi nói đến sự“hiền hậu”, người ta nghĩ ngay đến những đặc tính của nó như: dịu dàng, nhẹ nhàng, ngọt ngào, không thô bạo, cứng cỏi, cộc cằn...; "hiền hậu" còn có nghĩa là êm ái, hòa nhã, yêu thương, nhân hậu, thông cảm, tôn trọng và khoan dung; luôn nghĩ tốt và hành động tốt cho người khác. Sẵn sàng đối thoại, không đối đầu và chấp nhận sửa sai.

Còn khi nói đến sự "khiêm tốn”, chúng ta sẵn sàng xuống thấp, ở dưới hay chấp nhận bị hạ xuống, biết sự giới hạn của mình để sống khiêm tốn, sống thật với bản chất, khả năng của mình, không thêu dệt quá những gì mình có.

3. Hãy học với Đức Giêsu vì Ngài “hiền hậu” và “khiêm nhường”

Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ hãy mang lấy "ách" và "gánh" của Ngài, bởi vì Ngài có lòng “hiền hậu” và “khiêm nhường” trong lòng.

Thật vậy, hễ mang “ách” của ai là học với người đó; còn mang "gánh" của ai thì được mời gọi giữ những điều luật của người đó đang giữ hay điều luật của chính người đó ban hành. Đức Giêsu mời gọi mang lấy "ách" và “gánh” của Mình, Ngài muốn chúng taphải sống“hiền hậu”, “khiêm nhường”, “êm ái”, “nhẹ nhàng” và giữ “luật yêu thương”.

Khi mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được hạnh phúc và bình an, vì “ách” của Đức Giêsu thì êm ái và “gánh ” của Ngài thì nhẹ nhàng. Đến với và mang lấy tinh thần của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì có ơn Chúa phù trợ, chở che. Khi ấy, tinh thần của chúng ta sẽ hạnh phúc và an vui, dẫu có gặp phải những điều khó khăn, thử thách.

Khi mang trong mình những “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, ấy là lúc chúng ta đang sống trong quỹ đạo của tình yêu và làm cho tình yêu đó được lên ngôi chứ không phải nhu nhược, nhát đảm, hèn hạ, mù quáng, hay lầm lạc...

Lạy Chúa, xin cho chúng con được kiên trì trung thành mang lấy “ách” và “gánh” của Chúa để chúng con được bình an. Amen.

 

83.Ứng xử hiền hậu và khiêm nhường

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

I. HỌC LỜI CHÚA

. Ý CHÍNH:

Đức Giêsu ngợi khen Chúa Cha vì đã tỏ mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Người hứa sẽ mặc khải về Chúa Cha và ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người. Người kêu gọi dân Do thái đang sống dưới ách Luật Mô-sê và những kẻ đang chịu lầm than vất vả hãy đến để được ơn nâng đỡ. Người khuyên họ mang lấy ách thập giá của Người và học nhân đức hiền lành và khiêm nhường của Người. Nhờ đó, thập giá sẽ nên nhẹ nhàng và đau khổ sẽ thành êm ái cho họ. Tóm lại, Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai xuất hiện như là Con người, Con Thiên Chúa, là Vua và là Đấng mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn.

. CHÚ THÍCH:

- C 25-26: + Lạy Cha (Áp-ba): là một tiếng kêu thân thương của đứa con với cha giống như “Bố ơi!” của người Việt Nam. Đây là một kiểu nói mới lạ độc đáo của Đức Giêsu, mà trước đó không ai dám thưa với Đức Chúa như vậy. + Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu: Đức Giêsu cảm tạ Chúa Cha vì đang khi những kẻ tự cho mình là khôn ngoan không chấp nhận Tin mừng Nước Trời, thì những người nghèo hèn lại vui vẻ đón nhận. + Đó là điều đẹp ý Cha: Đức Giêsu nhận ra thánh ý của Chúa Cha phù hợp với lời tuyên sấm của I-sai-a: trong Triều đại của Đấng Thiên Sai người nghèo sẽ được nghe rao giảng Tin Mừng (x. Is 61,1-2).

- C 27-28: + Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi: Câu này gợi lại lời tuyên sấm của Đa-ni-en về Đấng Thiên Sai mang danh hiệu Con Người, Ngài được Đấng Cao Niên là Thiên Chúa ban cho mọi sự (x. Đn 7,13-14). + Không ai biết rõ người Con trừ Chúa Cha…: Chỉ Chúa Con mới biết rõ về Chúa Cha và mặc khải cho nhân loại để họ tin theo và được ơn cứu độ là sự sống đời đời (x. Ga 17,3). + Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề: Những người bé nhỏ khiêm hạ được Đức Giêsu mặc khải cho là những ai đang vất vả mang gánh nặng nề. Đó là dân chúng Do thái sống dưới ách Lề Luật và phải tuân giữ nhiều tập tục phức tạp mà các kinh sư và Pha-ri-sêu đã đặt thêm ra (x. Mt 23,4). Đây cũng hiểu là hết những ai đang chịu nhiều thiệt thòi về vật chất và đau khổ về tâm hồn. + Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng: Đức Giêsu thương xót hết mọi kẻ đau khổ và mang vác gánh nặng. Người không hứa sẽ cất cho họ khỏi gánh nặng, nhưng sẽ ban thêm sức mạnh tinh thần giúp họ can đảm chịu đựng đau khổ để vượt qua và lập công đền tội mình.

- C 29-30: + Hãy mang lấy ách của tôi: Ách hay gánh nặng của Đức Giêsu là đạo lý Tin Mừng. Đạo lý ấy được tóm lại trong ba điều: Một là phải tin vào Đức Giêsu và trở nên môn đệ của Người. Hai là phải sống khiêm hạ bé nhỏ trước tôn nhan Thiên Chúa. Ba là phải cư xử hiền hòa với tha nhân noi gương Đức Giêsu. + Vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường: Sự hiền hậu của Đức Giêsu luôn đi với khiêm nhường tự hạ (x. Mt 11,29; Lc 14,11). + Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng: Đức Giêsu hứa sẽ ban bình an nội tâm cho những ai mở lòng đón nhận tình yêu của Người, và chấp nhận theo con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang”. + Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng: Tuy Đức Giêsu đòi hỏi nhiều hơn và triệt để hơn các ráp-bi Do thái (x Mt 10,37-38), nhưng Người chỉ mời gọi và chờ đợi sự tự nguyện đáp lại, trái với các đầu mục Do thái thường "bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, còn chính họ thì không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4).

CÂU HỎI: 1) “Abba” nghĩa là gì? Lối xưng hô này cho thấy quan hệ giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa ra sao? 2) Đức Giêsu ngợi khen Chúa Cha về điều gì? 3) Lời Đức Giêsu cho biết Người được Thiên Chúa ban cho mọi sự đã được ngôn sứ nào đề cập đến? 4) Đức Giêsu kêu gọi những kẻ đang vất vả mang gánh nặng đến với Người. Họ là những ai và Người hứa sẽ ban điều gì cho họ? 5) Ách của Đức Giêsu nói đây ám chỉ điều gì và được tóm lại như thế nào? 6) Sự hiền hậu của Đức Giêsu luôn đi kèm với nhân đức nào? 7) Đức Giêsu đã nêu gương khiêm nhường hiền hậu ra sao? 8) Đức Giêsu hứa ban điều gì cho những kẻ sống khiêm hạ hiền hòa?

II. SỐNG LỜI CHÚA:

1. LỜI CHÚA: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).

2. CÂU CHUYỆN:

1) Gương nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân:

LẠN TƯƠNG NHƯ được phong làm tướng quốc nước Triệu. LIÊM PHA cậy mình có nhiều công hơn mà lại bị vua Triệu xếp đứng bên dưới, nên cảm thấy bực tức và hăm hễ gặp mặt Tương Như là sẽ giết. Tương Như vì thế cứ phải lánh mặt... Một hôm Tương Như có việc phải ra ngoài, gặp phải toán lính tiền đạo của Liêm Pha từ xa đi tới, liền sai mấy người đánh xe tránh vào trong ngõ, đợi cho kiệu của Liêm Pha đi qua rồi mới ra đường. Bọn xa nhân của Tương Như thấy thế rất căm giận thay cho chủ và họp nhau lại chất vấn Tương Như rằng:

- Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây để hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng quan nhất phẩm mà hạng thứ của ngài còn ở trên ông ta. Liêm Pha dọa, ngài đã không đáp nên tránh mặt ở triều đình. Nay lại còn tránh cả ở ngoài đường nữa! Sao ngài lại tỏ ra nhát sợ ông ta quá như vậy? Chúng tôi là bề tôi cảm thấy xấu hổ, nên xin phép từ giã ngài, không tiếp tục theo ngài nữa.

Tương Như liền nói: - Các ngươi xem tướng quân ta có hơn vua nước Tần không?

Bọn xa nhân đáp: - Thưa không.

Tương Như lại nói: - Trước cái oai của vua nước Tần, thiên hạ nào ai dám ra mặt chống, mà Tương Như này dám mắng ông ta ngay giữa triều đình nước Tần, lại làm nhục cả quần thần của vua Tần nữa. Tương Như ta dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân hay sao? Nhưng ta nghĩ sở dĩ nước Tần hiện nay không dám tiến đánh nước Triệu chúng ta là vì e sợ có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ đấu nhau, thề không sống chung với nhau. Nếu nước Tần nghe tin được, tất sẽ thừa cơ mang quân sang đánh nước Triệu ta thì sao? Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì lấy việc nước là trọng và coi thù riêng là khinh vậy thôi.

Bọn xa nhân liền quỳ mọp bái lạy Tương Như mà rằng:

- Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.

Về phần Liêm Pha, khi nghe thuật lại lối ứng xử của Tương Như thì cả thẹn mà rằng: ”Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm”. Rồi Liêm Pha còn đến tạ tội với Tương Như, qùi mọp mà rằng: ”Tôi tính tình thô bạo, đội ơn tướng quân đã bỏ qua, tự nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!”. Tương Như đến đỡ dậy, và sau đó cả hai kết làm bạn thân thiết sống chết có nhau.

(Cái DŨNG của thánh nhân- Nguyễn Duy Cần)

2) Tâm hồn bình an nhờ tin vào Chúa:

TOM là một tân tòng người da đen. Anh có lòng tin Chúa và siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày. Nhưng anh bạn thân của anh tên là GION thì lại không tin Chúa. Khi gặp Tom, anh ta thường khích bác đức tin của Tom và coi Tom là một kẻ mê tín. Một hôm Tom đang vác một bao khoai mì khá nặng từ cánh đồng trở về nhà, thì gặp Gion đang ngồi chờ bên vệ đường. Thấy Tom vác nặng mồ hôi chảy ra nhễ nhãi, Gion liền lên tiếng diễu cợt: “Này Tom, anh tin Chúa mà sao Chúa lại để anh vất vả quá như thế?” Tom không trả lời và tiếp tục bước đi. Được thể, Gion lẽo đẽo theo sau và tiếp tục nói những lời khích bác về đạo. Đi được một quãng, Tom đã cố ý buông tay cho bao khoai sau lưng anh rơi xuống đất. Sau đó anh quay lại nhặt lên và nói với Gion: “Tôi cũng xin hỏi anh: "Làm sao tôi biết được bao khoai sau lưng mình bị rơi, khi mắt tôi không thấy nó rơi?”. Gion liền đáp: “Đương nhiên là anh phải biết nó rơi rồi, vì anh cảm thấy gánh nặng trên vai anh biến mất?” Bấy giờ Tom liền giải thích cho Gion hiểu lý do theo đạo của mình như sau: “Tôi đồng ý với anh là bao khoai tôi đang vác mà bị rơi xuống thì đương nhiên tôi phải biết, vì tôi thấy gánh nặng trên vai đột nhiên biến mất và tôi thấy nhẹ mình. Về đức tin cũng vậy: Trước đây, tôi luôn cảm thấy buồn rầu lo lắng về những tội lỗi trong quá khứ, và không lúc nào tâm hồn tôi được bình an. Nhưng từ ngày theo đạo, tôi đã gặp được Chúa Giêsu. Mỗi lần tham dự thánh lễ, tôi được nghe Lời Chúa an ủi và lời giảng của vị linh mục giúp tôi hiểu thêm về lòng thương xót của Chúa, về ý nghĩa những đau khổ tôi gặp phải và về giá trị công việc lao động tôi đang làm… Khi đến nhà thờ, tôi cảm thấy bao nhiêu gánh nặng lo âu phiền muộn đều biến mất. Hiện nay tôi cảm thấy tâm hồn thật bình an hạnh phúc. Mặc dù vẫn phải làm việc để kiếm sống, vẫn gặp phải những điều rủi ro tai nạn trái với ý muốn, nhưng tôi luôn an tâm và sẵn sàng chấp nhận chúng giống như tôi đang vác cây thập giá mình mà theo chân Chúa vậy. Chính đức tin đã giúp tôi nhận ra Chúa Giêsu sống trong tôi và tôi cảm thấy rất vui khi có Chúa đồng hành, cùng chia sẻ vui buồn với tôi. Đó chính là lý do khiến tôi theo đạo và tôi thề quyết trung thành theo Chúa đến cùng”.

Tom đã cảm nghiệm được lời Đức Giêsu hôm nay: “Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng… Và tâm hồn anh em sẽ được bình an” (Mt 11,28-29).

3. SUY NIỆM:

1) Thế nào là hiền hậu và khiêm nhường?:

- Hiền hậu hay hiền lành là thái độ của một người tốt lành, giàu lòng từ bi nhân ái, có lòng thương xót và thích làm điều tốt cho kẻ khác. Hiền hậu theo Kinh Thánh còn có nghĩa là thái độ hiền dịu, không cứng cỏi… Như vậy hiền hậu vừa có bên trong lại vừa phát xuất bên ngoài. Trong lòng thì từ bi, khoan dung, độ lượng, cảm thông. Bên ngoài thì nhẹ nhàng, từ tốn nhỏ nhẹ, không thô bạo, không gây thù chuốc oán với ai...

- Trong đời sống thường ngày, những người có quyền thường đi đôi với tính tự cao tự đại, không muốn ai làm trái ý của mình nên nét mặt thường cau có, hay la mắng người dưới làm trái ý mình, có khi còn “giận cá chém thớt” nữa. Trong thực tế, một vài câu nói thường hay được nhiều người nhắc lại như: ”No mất ngon, giận mất khôn”, và “Nóng tính hỏng việc”.

- Khiêm nhường là thái độ nhún nhường không thích khoe khoang thành tích, luôn sẵn sàng hạ mình một chút. Căn bản của khiêm nhường là tôn trọng sự thật về mình: nhận thức đúng mình là người xấu tốt như thế nào để không muốn nổi trội hơn người khác. Giả như người khác có coi thương mình thì cũng không tức giận trả thù. Nhờ “biết mình biết người” như vậy nên người khiêm nhường sẽ luôn thành công trong mọi việc., sẽ không cảm thấy quá buồn phiền chán nản khi sự thể xảy ra không như ý của mình. Người khiêm nhường dễ gây được thiện cảm với người khác và nhận được sự hợp tác của nhiều người.

2) Hãy học với Tôi sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng:

- Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy học tập với Người về “lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Để tâm hồn chúng ta sẽ được hưởng sự bình an thư thái. Cần loại bỏ thái độ tự mãn về sự khôn ngoan thông thái của mình, để mặc lấy cách suy nghĩ đơn sơ trung thực của trẻ thơ. Bấy giờ chúng ta sẽ được Đức Giêsu mặc khải những mầu nhiệm của Thiên Chúa (x. Mt 11,25-27). Thánh Au-gút-ti-nô nói: “Ở đâu có khiêm nhường, ở đó có bác ái”.

- Văn hào Nga TÔN-TOI (Tolstoi) đã kể một câu chuyện ngụ ngôn cho thấy sự hiền lành là nguyên nhân của niềm vui và hạnh phúc như sau: Một hôm sói hỏi sóc nâu: “Tại sao họ sóc nhà mi luôn vui vẻ nhảy nhót, còn bọn sói chúng ta lại luôn ủ rũ buồn rầu vậy?” Sóc liền trả lời rằng: “Ông buồn rầu vì trong lòng ông chứa đầy sự độc ác. Chính sự độc ác ấy đã bóp nghẹt trái tim ông, không cho ông được an bình hạnh phúc. Còn sở dĩ lũ sóc chúng tôi luôn vui vẻ vì chúng tôi hiền lành, không làm hại ai cả”.

- Một câu chuyện khác về một con nhái bén kiêu căng: Ngày nọ một con nhái bến kiêu căng lên tiếng thách đấu với một con bò mộng. Nhái ta cố phình bụng sao cho to hơn bụng con bò. Nhưng to đâu không thấy, chỉ thấy con nhái bén kiêu căng kia đã bị nổ bụng chết thảm. Câu chuyện nhái bén này dạy loài người chúng ta bài học như sau: “Đừng trèo cao để khỏi bị té đau”, đừng “xưng hùng xưng bá” khi không có thực tài: “Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Người xưa cũng có câu: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” (Một người tài giỏi chắc sẽ có người khác tài giỏi hơn đánh bại mình).

3) Ứng xử hiền hậu và khiêm nhường giữa đời thường: Trong cuộc sống, mỗi tín hữu chúng ta hãy quyết tâm ứng xử hiền lành khiêm nhường cụ thể như sau:

a) Nhẫn nhịn chịu đựng: Kềm chế cơn giận khi bị kẻ khác khinh thường chơi xấu noi gương Đức Giêsu đã không trừng phạt dân làng Sa-ma-ri không tiếp đón Người và các môn đệ vào ở trọ trong làng của họ. Hai môn đệ Gia-cô-bê và Gio-an đã tỏ thái độ tức giận và thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không? ” Nhưng Người quay lại quở mắng các ông: “Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào. Vì Con Người không đến để làm cho người ta mất mạng, nhưng là để cứu mạng”. Rồi thầy trò đi sang làng khác (x. Lc 9,53-56).

b) Không khoa trương công đức trước mặt người đời để tìm tiếng khen (x. Mt 6,1-4). Tránh tình trạng “thùng rỗng kêu to”; “Làm láo báo cáo hay”. Bệnh thành tích làm cho người ta dễ che đậy cái xấu và gian dối phóng đại điều tốt để được khen thưởng.

c) Sẵn sàng tha thứ vô điều kiện: Đức Giêsu đã dạy: “Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (x. Mt 5,43-45). Trong kinh Lạy Cha Người cũng dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12).

d) Cần sớm hòa giải với tha nhân trước khi dâng của lễ: “Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lài đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).

e) Sắn sàng phục vụ hơn là được phục vụ (x. Mt 20,28): Đức Giêsu đã rửa chân cho môn đệ trước khi dạy các ông bài học khiêm nhường (x. Ga 13,14);

g) Yêu kẻ thù và làm ơn cho những kẻ thù ghét bách hại mình (x. Mt 5,39-42): Trên thập giá, Đức Giêsu im lặng chịu đựng sự sỉ nhục và xin Chúa Cha tha cho những kẻ hành hạ mình (x. Lc 23,34)…

4) Phúc thay ai xây dựng hòa bình: Trong bài giảng “Tám mối phúc thật” , Đức Giêsu đã khẳng định: Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. ”Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,4.10). Sự hiền lành sẽ làm cho chúng ta được vào Nước Trời của Đức Giêsu và nếu biết xây dựng hòa bình trong môi trường sống và làm việc của mình, chúng ta sẽ xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa.

Tuy nhiên, sự hiền lành nơi Đức Giêsu không phải là nhu nhược thụ động, không đồng nghĩa với ba phải và bất nhất … nhưng luôn ăn ở công minh chính trực, từ bi nhân ái, thể hiện qua thái độ ứng xử với tha nhân như sau:

a) Tránh xét đoán ý trái cho kẻ khác: và luôn tỏ lòng nhân từ với các tội nhân noi gương Đức Giêsu xưa đã nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình rằng: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,11b).

b) Hiền lành nhưng cương quyết: Không thỏa hiệp với cái xấu như Người đã trách Phê-rô khi ông can trách Người đừng đi con đường qua đau khổ vào vinh quang như sau: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23). Đức Giêsu quát mắng ma quỷ: “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,10).

c) Nặng lời khiển trách bọn đạo đức giả: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào” … “ Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các ngươi trốn đâu cho khỏi hình phạt hỏa ngục?” (Mt 23,13.33).

d) Dùng biện pháp mạnh khi cần: Người dùng dây thừng làm roi đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Rồi Người bảo họ: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp“ (Mt 21,12-13).

e) Lý phải nhân tâm phục: Đức Giêsu đã hạch lại kẻ đã vả mặt Người như sau: “Nếu tôi nói sai, hãy chứng minh xem sai chỗ nào. Còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,22-24).

Tóm lại: Tất cả những điều tốt đẹp nói trên của Đức Giêsu đã được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong KINH HÒA BÌNH. Nếu mỗi tín hữu chúng ta biết năng đọc và áp dụng thực hành theo các nguyên tắc ứng xử trong Kinh Hòa Bình này thì chúng ta sẽ nên giống Đức Giêsu và sẽ tích cực góp phần trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.

4. THẢO LUẬN: 1) Sự hiền lành giống và khác với sự nhu nhược và ba phải thế nào? 2) Có người nghĩ rằng: không thể áp dụng lời Đức Giêsu dạy: “Đừng chống cự người ác” (Mt 5,39), vì kẻ ác sẽ “được đàng chân, lân đàng đầu”. Bạn có đồng ý với quan điểm ấy hay không? Tại sao? 3) Bạn cần làm gì cụ thể để trở nên hiền lành và khiêm nhường noi gương Đức Giêsu?

5. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa. Xin cho chúng con quyết tâm học tập theo Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng, noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa. Xin cho chúng con trước khi nhắm mắt từ giã cuộc đời, có thể nói được như mục sư Mác-tin Lu-thơ Kinh (Martin Luther Kinh) rằng: “Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi qua đời, ai đó sẽ kể lại rằng: Mác-tin Lu-thơ Kinh là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi mong muốn các bạn sẽ nói rằng tôi đã sống cho công lý, tôi đã dấn thân để đem lại cơm bánh cho những người đói khổ, tôi đã luôn cho kẻ đói rách được ăn mặc. Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói rằng tôi đã dấn thân đến thăm những người tù tội, và yêu thương phục vụ hết mọi người như lời Chúa dạy… Còn tất cả những thứ khác, như giàu có, danh dự, giải No-ben hòa bình … đều không đáng kể”.

Lạy Chúa. Chúng con đã được Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Chúa đã phú ban cho chúng con một trái tim biết yêu thương. Xin cho chúng con luôn tìm kiếm Chúa là nguồn hạnh phúc thật của đời con. Xin cho con biết ăn ở khiêm nhường và phục vụ Chúa trong những người cô đơn nghèo khổ và bệnh tật yếu đuối đang sống bên cạnh chúng con”.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

home Mục lục Lưu trữ