Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 57

Tổng truy cập: 1361389

HÃY MANG LẤY ÁCH CỦA CHÚA

HÃY MANG LẤY ÁCH CỦA CHÚA

 

Anh chị em thân mến,

Một giáo dân hỏi một vị linh mục: Thưa cha, sao Chúa khó quá? Sao Hội thánh mình cũng khó nữa? Chúa Nhật không đi lễ thì có tội. Chỉ được một vợ một chồng mà thôi; ngoài đời người ta vợ nhóc luôn. Rồi, sao không cho các linh mục có vợ nữa? Con nghĩ cấm chuyện này là không đúng, vì là trái với tự nhiên. Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ mà; đâu phải dựng nên đàn ông không đâu? Chúa nói ách Chúa êm ái, gánh của Chúa nhẹ nhàng, con thấy không nhẹ chút nào cả! Ông cha sở nghe nói cười xòa, trả lời: Mà ông coi, Hội thánh đâu cấm người đi tu không được có vợ! Linh mục không có vợ chính là: tự nguyện sống độc thân vì Chúa và vì Nước Trời. Nếu linh mục không sống độc thân được, nên chọn đời sống gia đình, đừng nên bắt cá hai tay. Ông thấy có phải không? - Dạ dạ... Cha sở nói tiếp: Mà nè, nếu ông muốn, hãy làm đơn xin Tòa Thánh cho phép các linh mục được cưới vợ đi; nhưng họ nên nhớ, khi Tòa Thánh chưa chấp thuận, phải tuân phục Hội thánh, không được xé rào đấy nhé! Mọi người xung quanh nghe câu nói đều cười ầm lên....

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có hai điều chúng ta cần suy niệm:

a/ Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha đã mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé mọn. Có người sẽ nói: Không lẽ Chúa ghét người khôn ngoan, cao trọng hay sao? Sao Chúa lại yêu thương trẻ nhỏ mà không phải người lớn? Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã nói: Nước Trời là của trẻ nhỏ và của những người giống như chúng. Có người sẽ hỏi: Tại sao phải ưu tiên cho trẻ nhỏ? Có phải đây là một định kiến để lật đổ phẩm trật đã có sẵn không? - Thưa không. Chúa Giêsu yêu trẻ nhỏ không phải vì chúng dễ thương hơn người lớn. Người không yêu thương ai bằng tình cảm bên ngoài. Đứa trẻ được Chúa yêu thương, là hình ảnh trẻ con luôn tin tưởng, trông cậy vào cha mẹ. Trẻ con không trông cậy vào mình; chúng chỉ trông cậy vào người lớn. Tâm hồn chúng hoàn toàn trống rỗng cần được lấp đầy. Chính vì thế Chúa luôn sẵn sàng lấp đầy tâm hồn trẻ thơ ơn sủng sung mãn của Người, vì Người luôn muốn ở trong tâm hồn của trẻ thơ; nơi đây cũng là đền thờ tốt lành của Chúa Thánh Thần...

b/ Ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến, Ta sẽ thêm sức cho... Hãy mang lấy ách của Ta... vì ách Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng. Chúa Giêsu nói, ách Chúa êm ái, gánh Chúa nhẹ nhàng, Chúa có mâu thuẫn không? Đã là ách và gánh làm sao nhẹ nhàng được?

Một bà nhân đức trong họ đạo, một hôm đến gặp cha sở và nói: thưa Cha, bà bạn của con vừa nói với con: khi tôi dâng mình cho Chúa rồi, y như là Chúa để cho gặp tai ương, giống như Chúa "chơi" tôi vậy. Bà nên nhớ, bà đừng có dâng mình, vì dâng mình xong, Chúa phát cho bà một gánh nặng là bà phải chạy dài ngay... Thưa cha, con thấy bà bạn con hiểu biết về Chúa sai lạc quá! Dù vậy con ít lời lắm. Con không biết nói sao cho bà hiểu; nên con muốn trình cha, để cha biết, có dịp cha giải thích lại cho bà ta....

Rõ ràng câu chuyện trên đây cho ta thấy, ngay cả người có đạo lâu năm cũng không hiểu mấy về Chúa. Ách của Chúa chính là đạo lý của Tin mừng; ai muốn theo Chúa phải tuân giữ đạo lý này; đó là: tin tưởng - khiêm tốn - vâng phục. Ách của Chúa êm ái nhẹ nhàng, không phải là vì đó là gánh nặng dễ dàng mang trên vai. Đó chính là gánh nặng được đặt trên vai chúng ta bằng tình yêu và nó cũng được chúng ta vác trong tin yêu nữa. Thử hỏi có ai vác gánh nặng của mình mà bước đi trong vui vẻ, hăng hái, lại cảm thấy gánh đó quá nặng không thể mang nổi không? Hay là chúng ta phải nói ngược lại?

c/ Gợi ý sống và chia sẻ:

Nước Trời dành cho kẻ bé mọn, chính là những người luôn cần đến, những người sẵn sàng thành tâm đón nhận. Mỗi người Kitô hữu chúng ta có phải là kẻ bé mọn, đáng được nhận lãnh Nước Trời không? Hãy đến với Ta, những ai vất vả mang gánh nặng nề: Chúa mời ta đến để Chúa chia sớt gánh nặng cuộc đời cho chúng ta. Ta có tin không? Ta có sẵn sàng đến với Chúa không?

 

57.Hiền lành

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Hôm nay Chúa dạy chúng ta: “hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Sự hiền lành của Chúa không phải là đi tìm sự thỏa hiệp với thế gian. Chúa không im lặng trước sự dữ. Chẳng hạn, Chúa đã từng lên án gắt gao thói giả hình và gian tà của những kẻ biệt phái. Chúa đã từng xô đuổi con buôn ra khỏi đền thờ. Chính vì những điều Chúa làm, những lời Chúa nói đã ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo, đến địa vị, chỗ đứng của các biệt phái mà người ta tìm cách giết Chúa. Sự hiền lành của Chúa là vì công lý mà chịu nhiều thiệt thòi không kháng cự. Vì dám nói sự thật mà phải chết nhục nhã trên cây thập giá, nhưng Ngài không oán hận, và còn xin cùng Chúa Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm. Chúa đấu tranh nhưng bất bạo động, vì “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”, “oán báo oán, oán chập chùng” và còn tha thứ cho sự xúc phạm của tha nhân không chỉ “7 lần mà là 70 lần bảy”.

Trong tám mối phúc, Chúa đã chúc phúc những cho ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nườc Trời là của họ. Như thế hiền lành ở đây là sống thật và làm chứng cho sự thật. Không nhượng bộ, không thỏa hiệp với dối gian. Cho dù vì lẽ công chính mà mình bị bách hại, bị thiệt thòi vẫn chấp nhận, vì phần thưởng của chúng ta là Nước trời. Sự hiền lành của Chúa còn hệ tại ở sự cảm thông với lỗi lầm của người khác. Không thành kiến đối với những người bị xã hội ruồng bỏ. Ngài yêu thương họ. Ngài đến để đối thoại với họ. Ngài mở cho họ một con đường mới. Ngài giúp họ làm lại cuộc đời như Madalena, như Giakêu, hay như người thiếu phụ bên bờ giếng Giacóp.

Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa quyền năng, thế mà đã trở nên như một con chiên hiền lành trước người thợ xén lông. Vì thế, hiền lành chính là nhân đức của người mạnh và phải có bản lãnh mới kiềm chế nổi sự nóng giận của mình. Vậy nhân đức hiền lành nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta? Kinh nghiệm cho thấy: chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập, mà trái lại chúng ta sinh ra là sống cho với và sống nhờ tha nhân. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những buồn phiền, vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi, khuyết điểm của mình. Hơn thế nữa, bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng. Bởi đó, chúng ta cần phải biết quên đi và tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng, vì một sự nhịn là chín sự lành. Vậy vậy, thứ nhất, chính sự hiền lành sẽ tạo nên trong gia đình và ngoài xã hội một bầu khí hòa thuận và êm ấm: “Chồng giận thì vợ bớt lời. Cơm sôi nhỏ lửa, chẳng đời nào khê”. Thứ 2, chính sự hịền lành sẽ bắt được một nhịp cầu cảm thông và sẽ tạo được những mối liên hệ tốt ngoài xã hội giữa chúng ta với nhau, bởi vì: “Già néo thì đứt giây. Bên thẳng thì bên phải chùng. Cả hai đều thẳng, thì cùng đứt dây. Thứ 3, chính sự hiền lành giúp chúng ta bớt đi bạo lực gia đình hay xã hội do tính nóng, giận quá mức của con người vì chưng: “Giận quá thì mất khôn. Và cuối cùng là sự hiền lành thường đi song song với khiêm tốn. Hiền lành để tha nhân dễ gần chúng ta và khiêm tốn để ta dễ hòa đồng giữa ta với với tha nhân. Kẻ kiêu căng thường phân loại để chơi. Người khiêm nhường thì đối xử mọi người như nhau. Người hiền lành ai cũng muốn tới gần. Kẻ gian ác kiêu ngạo ai cũng chạy xa. Chúa Giêsu Ngài hiền lành và khiêm nhường nên ai cũng có thể tiếp xúc với Ngài, và Ngài cũng có thể gặp gỡ trao đổi với mọi người: từ em bé đến người già, từ người giầu có đến kẻ hèn, từ người công chính đến tội lỗi và người đau yếu đến người khuyết tật.

Xin Chúa giúp chúng ta biết học nơi trái tim yêu thương của Chúa: “sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Ngài không ở trên cao nhưng tự hạ mặc lấy thân phận con người. Ngài còn dạy chúng ta bài học khiêm tốn khi quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Một cử chỉ khiêm tốn đến nỗi Phêrô đã bộc trực thốt lên: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con sao?”. Đó là một sự tự hạ không ủy mị hay luồn cúi mà là bài giáo huấn sống động về tinh thần hiền lành hy sinh phục vụ lẫn nhau. Ngài đã dạy chúng ta hãy sống đúng với thân phận con người là lệ thuộc vào Chúa. Ngài đã dạy chúng ta hãy hạ mình để sống hòa hợp với tha nhân. Đừng tự cao tự đại để gạt Thiên Chúa ra bên ngoài như Adam - Evà năm xưa chỉ dẫn tới diệt vong. Đừng tự cao tự đại đến nỗi đè bẹp người khác để mình được tôn vinh.  Đừng khinh bỉ người tội lỗi, bất hạnh nhưng yêu thương và tôn trọng họ. Và trên hết, hãy mang lấy tâm hồn hiền lành để luôn đơn sơ và bé nhỏ trước mặt Chúa, trước mặt tha nhân. Vì sự đơn sơ và bé nhỏ là dấu chỉ đặc thù của sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay. Đây cũng là phương thế để chúng ta đón nhận mạc khải Nước Trời và đón nhận tình thương của Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta. Amen.

 

58.Ách là hiền lành và khiêm nhường

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Tục ngữ Việt nam có câu: ách giữa đàng mang vào cổ. Như thế người ta quan niệm cái ách như cái gông, tượng trưng cho cái gì gánh nặng đè nén, làm cho con người mất tự do. Vậy mà hôm nay Chúa Giêsu nói hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường trong lòng. Thế nhưng chúng ta hiểu thế nào là ách của Chúa và thế nào là hiền hậu và khiêm nhường của Chúa chưa? Trước hết, cái ách mà Chúa Giêsu nói ở đây có phải là cái ách của con bò được làm bằng gỗ không? Trong Thánh lễ khai mạc sứ vụ Giáo Hoàng, Đức Bênêđitô XVI nói rằng ách của Chúa chính là thánh ý mà chúng ta đón nhận. Và thánh ý Chúa chúng ta đón nhận không phải là gánh nặng bề ngoài đè nén và tước đọat quyền tự do của chúng ta. Trái lại, ách của Chúa nhẹ nhàng, bởi thánh ý của Chúa không làm chúng ta bị tha hóa nhưng thanh tẩy chúng ta dù phải đau khổ, đau thương hay súng sướng. Qủa thế, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính”.

Vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay nói hãy học cùng ta vì ta hiền lành. Nhưng thử nhìn lại cuộc đời Chúa Giêsu, Chúa Giêsu có hiền thiệt không? Đọc Tin Mừng chúng ta thấy các Thánh sử kể Chúa tức giận quát mắng quỷ dữ cũng như con người. Thánh Máccô kể rằng “Đức Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: "Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" (Mc 1,21-24). Hay là: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ” (Ga 2,13-15). Như vậy, Chúa Giêsu hiền lành cỡ nào? Như thế mình học nỗi không, theo nỗi không? Có lẽ chúng ta hiểu sai về sự hiền lành của Chúa rồi, bởi vì chúng ta đồng hóa sự hiền lành với nhu nhược. Hiền lành của Chúa Giêsu không phải là như nhược mà có lập trường, lập trường của chân lý. Cụ thể, Chúng ta nhớ lại đi, khi có một anh lính vả vào mặt Chúa Giêsu, Chúa không vả lại, dù Ngài chỉ cần thổi một phát anh đó bay xuống chín tầng đại ngục. Nhưng Ngài không vả, không thổi không phạt gì cả, mà Ngài cũng không im lặng, Ngài hỏi lại anh ta: nếu tôi nói phải sao anh đánh tôi, nếu tôi nói sai thì anh chỉ tôi sai chỗ nào. Rồi trong công cuộc rao giảng, Chúa Giêsu rao giảng giáo lý một cách hiền hòa, không chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối, bực tức hay phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Như vậy sự hiền lành của Chúa Giêsu là sự hiền lành là tự chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng hầu cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn.

Bên cạnh nhân đức hiền lành, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta học nơi Ngài gương khiêm nhường. Vâng, nói đến sự khiêm nhường chúng ta nghĩ ngay đến sự khiêm nhường của Con Một Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng Messia khiêm nhường mà Dacaria đã loan báo rằng: “Hãy báo thiếu nữ Xion: kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Mt 21,5). Qủa thế, Đức Giêsu Kitô không phải chỉ là một người phàm, mà còn là Chúa (Rm 8,3) Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã huỷ mình ra không đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta (Pl 2,6tt) nhờ đó chúng ta khỏi hư mất (Lc 19,10).

Lão Tử dạy quân tử trong phép xử thế rằng “Bậc thượng thiện giống như nước; nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh, ở chỗ nào mà người ta đều ghét, nên gần với đạo. Ở thì hay lựa chỗ thấp; lòng thì chịu chỗ thâm sâu, xử thế thích dùng đến lòng nhân” (Đạo Đức Kinh, chương 66), vì vậy, “hãy lấy nhu thắng cương, nhược thấy cường. Lấy cường xử hạ, nhu nhược xử thượng” (Đạo Đức Kinh, chương 76). Qủa thật, khiêm nhường một đức tính không thể thiếu trong mọi tương giao và xử thế bởi; nếu “Tôi kiêu căng sắc xảo, tôi thành tôi sắc tối; mà huênh hoang huyền hoặc tôi thành tôi huyền tồi; tự ái tôi nặng nề tôi thành tôi huyền tội” (Cha Quang Uy, bài hát “đơn giản tôi là”), như thế đời tôi còn ý nghĩa gì? Chẳng đẹp như ước mơ!

Chúa Giêsu mục tử nhân lành, hiền hậu và khiêm nhường đã nêu gương cho chúng ta trước và “Người để lại mẫu gương cho chúng ta dõi bước theo, vì Người không hề phạm tội, chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà không hề ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công minh” (1Pr 2,21-23). Như vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có lòng khiêm nhường thẳm sâu nhất, đó là phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, dùng tình yêu mà hạ mình xuống để tôn vinh Thiên Chúa và cứu vớt mọi người. Cho nên, Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô khẳng định rằng: “Tình yêu trong sự thuần khiết và vô tư là chứng cớ tốt nhất về Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta tin và thúc đẩy chúng ta yêu thương” (Thông Điệp, Thiên Chúa là Tình Yêu, số 31).

Qủa vậy, tình thương của Kitô giáo được xây dựng trên nền tảng sự khiêm nhường, vì chưng, Thánh Tôma Aquinô nói: “Kiêu ngạo là thích được đề cao hơn người khác, và kiêu ngạo là khoe khoang, là cay đắng, là tàn nhẫn, là chỉ nghĩ đến bản thân, cho nên kiêu ngạo khiến ta đố kỵ nhau. Bởi vậy, muốn yêu thương phải bắt đầu để cho tâm hồn mình thấm nhuần sự khiêm nhường và hiền lành”. Cho nên, có khiêm nhường, chúng ta mới nhận được tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta phục vụ yêu thương tha nhân một cách dễ dàng và thanh thản, không so đo tính toán và không vụ lợi. Vì vậy, Thánh Phaolô nói: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương, nên anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm cung, hiền hòa và nhẫn nại để dạy bảo nhau” (Cl 3,12) và “Hãy biểu lộ cho mọi người biết tình yêu Thiên Chúa giữa lòng thế giới, nhờ chứng tá đặc biệt trong sứ mạng của Đức Kitô được hoàn tất khi chúng ta tận hiến hoàn toàn cho Chúa; hãy nêu gương sáng cho mọi người cả Kitô hữu lẫn ngoài Kitô hữu; hãy khiêm tốn, hiền lành và yêu thương phục vụ, nhất là những người bé nhỏ” (Tông huấn Á Châu, số 44) ngõ hầu tất cả mọi người trên mặt đất hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa nhờ giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Vậy, Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta sống nhân đức của Chúa đó là ách của Chúa, chính là sống thánh ý Ngài giữa cuộc sống dù có gian nan, dù khi sung sướng hãy luôn để Thánh ý Chúa được thực hiện nơi chúng ta hầu chúng ta sống dồi dào và bình an. Thứ hai đó là hãy tập sống hiền như Chúa Giêsu hầu tạo nên trong gia đình một bầu khí hòa thuận và êm ấm. Và cũng chính sự hiền lành sẽ bắt được một nhịp cầu cảm thông sẽ tạo được những mối liên hệ tốt ngoài xã hội giữa chúng ta với nhau bởi vì: - Giận quá thì mất khôn. Sự nóng giận là như dầu đổ vào lửa, làm cho lửa bùng cháy lên. Trong khi đó, sự hiền lành bao giờ cũng xoa dịu, cũng hàn gắn.

Lạy Chúa xin cho chúng con biết sẵn sàng mang lấy ách của Chúa và sống hiền như Chúa hầu chúng con càng ngày càng giống Chúa. Amen.

 

59.Nghịch lý thập giá Chúa Kitô

(Suy niệm của Lm Phêrô Hồng Phúc)

Thập giá Đức Giêsu Kitô là một cớ vấp phạm cho người Do Thái và điên rồ đối với dân ngoại (x. 1Cr 1,23). Tức là một nghịch lý của cuộc đời, cho đến bây giờ vẫn thế và còn cho đến tận thế. Lúc nào Thập giá cũng là một thách đố rất lớn đối với mọi thời đại. Thập giá cũng là một chướng ngại rất lớn đến với từng con người. Đức Giêsu đã khẳng định ngay từ đầu rằng, Ngài là một viên đá - một viên đá làm cớ vấp phạm đối với những ai không nhận ra Ngài, không nhận ra chương trình cứu độ của Ngài.

Khi chỉ nhìn nhận những thực tại bên ngoài mà thôi, Thập giá là một hình phạt nặng nề của những người Roma dành cho những người tử tội. Đức Giêsu đã nhận cho mình hình phạt này. Đó không phải là một sự tôn vinh, bởi vì, Thập giá là biểu hiện của sự chết. Thập giá chỉ được tôn vinh sau khi Đức Giêsu Kitô hoàn tất chương trình cứu độ. Ngay khi Ngài ở trên Thập giá, chính Ngài cũng đã bị lời sỉ nhục của những kẻ qua đường chế nhạo, thậm chí Ngài còn bị những lời sỉ nhục của những kẻ cùng đóng đinh với Ngài trên Thập giá. Như vậy, Thập giá vẫn là một sỉ nhục, một cực hình dành cho những ai bị kết án. Đức Giêsu cũng là người bị kết án, Ngài bị kết án do tòa án của nhân loại, mà Philato tuyên án. Ngài là người bị kết án do chính những người con cái trong nhà: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!". Thập giá mãi mãi vẫn là một bản án, một bản án đóng trên đầu Đức Giêsu Kitô: "Đức Giêsu Nadaret, Vua dân Do Thái". Như vậy, Thập giá không có gì đáng để tôn vinh: Thập giá là đau khổ; là kết án; là sự chết.

Vậy tại sao chúng ta suy tôn Thập giá Đức Giêsu Kitô như vậy?

Vâng! Đúng là chúng ta suy tôn Thập giá Đức Giêsu Kitô vì Đức Giêsu Kitô đã dùng Thánh giá mà cứu chuộc nhân loại. Đó là ý nghĩa mà chúng ta đang đi sâu vào tìm hiểu. Nếu Thập giá chỉ là một bản án tử hình, chỉ là một huyền thoại, một sự kết án thì mãi mãi Thập giá là một sự hổ ngươi cho tất cả những người Kitô hữu. Nhưng nếu Đức Giêsu Kitô đã dùng Thánh giá mà cứu chuộc thế gian thì đây chính là triết lý của sự khôn ngoan; triết lý của sự sống. Như vậy, trong nghịch lý hàm chứa một chân lý; ở trong bản kết án ấy lại chính là một sự xóa án. Tất cả diễn ra nơi Thập giá Đức Giêsu Kitô. Chúng ta nhìn thấy sự sống và sự chết ở cùng trên Thập giá Đức Giêsu Kitô, Ngài đã nói những lời cuối cùng, Ngài phó linh hồn cho Đức Chúa Cha. Sự sống của Đức Giêsu Kitô trên Thập giá và sự chết của Đức Giêsu Kitô cũng trên Thập giá. Sự sống và sự chết gặp nhau trên Thập giá của Đức Giêsu Kitô. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng sự sống và sự chết của Đức Giêsu trên Thập giá cũng chính là sự sống và sự chết của chúng ta. Bởi lẽ từ cạnh sườn bị đâm thâu, máu và nước chảy ra, từ đó phát sinh ra Bí tích của Hội Thánh như trong Kinh Tiền Tụng chúng ta đọc. Vậy từ Thập giá Đức Giêsu Kitô, máu và nước chảy ra: nước tượng trưng cho Bí tích Rửa Tội. Nhờ đó mà chúng ta được đi từ cõi chết đến cõi sống. Và máu, tượng trưng cho các Bí tích, những Bí tích của tình yêu thương, để tha tội, để thêm sức, để thánh hóa những tâm hồn. Chúng ta hình dung một Đức Giêsu Kitô hiến mạng sống của mình để hướng tới cái chết. Và từ cái chết ấy, mà chúng ta bắt đầu nhận được trở lại sự sống của Thiên Chúa, sự sống thật của con người theo thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tạo dựng con người.

Cái sống và cái chết không chỉ đấu tranh trong con người Đức Giêsu Kitô mà trong toàn thể Hội Thánh, là nhiệm thể của Đức Kitô. Nếu Đức Giêsu Kitô không chết trên Thập giá thì không có sự hoàn tất chương trình cứu độ của Ngài. Nếu Đức Giê su Kitô không chấp nhận cái chết trên Thập giá thì bản án của nhân loại mãi mãi vẫn còn. Vì vậy trong bản án được treo trên đầu Đức Giêsu Kitô đã nói rõ vương quyền của dân Thiên Chúa: Tiên tri, Tư tế, Vương giả. Chúng ta, những người Kitô hữu cũng mang trong mình một danh Kitô, mà danh ấy là Vua Do Thái. Như vậy, trong bản án mà Đức Giêsu phải chịu bao hàm cả chức vụ Tư tế, Tiên tri, Vương đế của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Nếu không có Thập giá thì những danh hiệu ấy không có ý nghĩa gì. Cho nên, người Kitô hữu chúng ta hôm nay, đứng trước Thập giá Đức Giê su Kitô là đối diện với một mầu nhiệm, một mầu nhiệm hàm chứa nghịch lý, chân lý đan xen nhau. Không phải ai cũng nhận ra chân lý của Thập giá. Vì thế, thánh Phaolo đã diễn tả những cách thức mà mỗi một thời đại, mỗi một dân tộc tượng trưng cho một ý thức hệ, một quan điểm khác nhau, rằng: Thập giá Đức Giêsu Kitô là cớ vấp phạm cho người Do Thái và là sự điên rồ đối với dân ngoại; hoặc là sự khôn ngoan cho những người được tuyển chọn, vì đó chính là những gì mà con người được sàng lọc, được trắc nghiệm đi sâu vào tâm hồn mình để nhận ra Thập giá. Người đời đã biết áp dụng nguyên tắc Thập giá theo triết lý "Lửa thử vàng, gian nan thử đức", rằng "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay". Đó là triết lý của Thập giá áp dụng trong cuộc sống, vì ai cũng sợ đau khổ, ai cũng sợ sự chết. Nhưng "Lửa thử vàng, gian nan thử đức" và "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay" nghĩa là những người có ở trong tình trạng đau khổ (đoạn trường = đứt ruột) mới hiểu được,và trong đau khổ ấy người ta mới tìm được giá trị của Thập giá. Cho nên ngay ở trường đời, cũng có giá trị thập giá và người ta đã tìm ra triết lý khôn ngoan của nó. Các thánh mô tả Thập giá là sự khôn ngoan. Bởi vì Thập giá Đức Giêsu hiện nguyên hình là sự chết, vì khi không qua đau khổ và sự chết con người sẽ không đạt tới đích thật sự sống của mình.

Vì vậy, chúng ta nói về Thập giá, suy tôn Thánh giá là chúng ta đang nói tới tình yêu thương và chân lý mà Thiên Chúa muốn chúng ta đi qua sự chết để vào cõi sống; để nhìn qua những đau khổ, sự chết của Đức Giêsu Kitô nhận ra chương trình cứu độ. Vì vậy, đối với những người được tuyển chọn, Thập giá là ơn cứu độ, còn mãi mãi vẫn là cớ vấp phạm và sự điên rồ đối với những kẻ không tin hay với người quá khích.

Hôm nay và mãi mãi cho đến tận thế, Thập giá dạy chúng ta những bài học khôn ngoan để chúng ta nhận ra chân giá trị của cuộc đời. Thập giá mãi mãi vẫn là trường dạy chúng ta sự khiêm tốn, sự khôn ngoan và cho chúng ta hiểu tình yêu - một tình yêu đích thật.

Những người Kitô hữu hôm nay, đeo Thánh giá trên cổ, lần tràng hạt trên tay có Thánh giá và đặt Thánh giá trên nóc đỉnh cao của tháp Nhà thờ; Thánh giá ngày xưa còn dùng làm dấu hiệu của những người theo Đạo hay không theo Đạo, sống hay là chết: bước qua Thập giá là bỏ Đạo, là sự sống trước con mắt thế gian, còn không bước qua Thập giá là chết trước con mắt thế gian. Nhưng đó lại là các Thánh Tử Đạo!

Thập giá như là một đường ngang, đường xích đạo phân đôi địa cầu của chúng ta; đường dọc như là trục giữ cho trái đất giữ của chúng ta định vị trong vũ trụ. Đường dọc, đường ngang ấy đã tạo nên Thập giá. Đường dọc đi tới tận Thiên Chúa để Ngài tuôn đổ ơn lành xuống cho trái đất của chúng ta, không bị sai lạc vị trí của mình. Đường ngang ôm chặt lấy trục để cho chúng ta hiểu biết là: trong Thập giá, chúng ta có tình huynh đệ, tình yêu thương và chúng ta gặp gỡ nhau trong Đức Kitô.

 

60.Gánh nặng

“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đó là một lời kêu gọi, một lời nhắn nhủ, một lời khích lệ đầy an ủi và phấn khởi Chúa Giêsu nói với tất cả và từng người chúng ta.

Theo nguyên nghĩa Hy Lạp, thì chữ “vất vả mang gánh nặng nề” Chúa Giêsu nói ở đây được hiểu là cái bao đựng vật dụng cá nhân như cái ba-lô người ta đeo trên lưng, còn theo nghĩa thông thường, đó là những vất vả, khó khăn, trách nhiệm mà người ta phải chấp nhận. Dù theo nghĩa nào thì chúng ta cũng hiểu ngay là mỗi người đều có những vất vả và đau khổ, được gọi chung là gánh nặng riêng cho đời mình.

Thực vậy, đời người giỏi lắm là được trăm năm trần thế. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Trăm năm nào có gì đâu? Nhưng từ lúc trắng răng đến lúc bạc đầu, không lúc nào vất vả, đau khổ không theo đuổi chúng ta, đến nỗi ca dao tục ngữ đã nói: “Gánh khổ mà đổ lên non. Còng lưng mà chạy khổ còn chạy theo”. Đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt, không ai chối cãi, không ai phủ nhận, sinh ra và có mặt trên đời là khổ: “Hữu sinh hữu khổ” là thế. Với thời gian, lớn lên, đau khổ, vất vả hằng theo sát gót con người, dù ở đâu và làm gì, ai cũng có những vất vả và đau khổ của riêng mình.

Chúa Giêsu đã nhận thấy điều đó, Chúa đã hình dung bằng hai tiếng “vất vả và gánh nặng”, và Chúa động viên, khích lệ, kêu gọi: “Hãy đến với Chúa” để Chúa an ủi, nâng đỡ. Thực vậy, ở đời này có nhiều gánh nặng: gánh nặng bản thân, gánh nặng gia đình, gánh nặng xã hội, gánh nặng của bệnh tật, thất bại, mất mát, hiểu lầm của tình người và tình đời. Đã gọi là gánh nặng thì phải vất vả gánh vác: vất vả với cuộc mưu sinh, vất vả đêm ngày, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng ăn, thế mà có khi vẫn không đủ sống; vất vả sớm tối với bầy con, vất vả khi chúng còn nhỏ bé, vất vả khi chúng đã khôn lớn, nhất là khi chúng hư hỏng, quậy phá.

Ngoài ra, “gánh nặng” còn được hiểu là những đau khổ của đời người. Đời người sống giỏi lắm là trăm năm, nhưng thử hỏi có ai là không đau khổ chăng? Ai cũng có những đau khổ riêng mình: người trước người sau, người ít người nhiều, người tinh thần người thể xác, người đi tu hay sống đời gia đình… không ai dám nói đời mình không có đau khổ. Cuộc đời trần gian là thế.

Như vậy, chúng ta dễ dàng chấp nhận: vất vả và gánh nặng đời này thì nhiều thứ, nhiều cỡ, nhiều kiểu và chúng ta cũng nhìn nhận rằng: trước những gánh nặng đó, nhiều khi tự sức chúng ta, chúng ta không làm gì được, chúng ta buông xuôi, chán nản ư? Thậm chí có những người khi gặp khó khăn, khủng hoảng thì bỏ cả việc đạo đức và chán cả cầu nguyện, như vậy là sai lầm lớn. Những lúc vất vả, khó khăn, đau khổ càng nhiều và càng nặng, chúng ta càng phải đến với Chúa mau hơn và nhiều hơn. Hãy đến với Chúa để cảm nhận được sự nâng đỡ và bổ sức của Chúa. Nhưng chúng ta nên nhớ: Chúa nói Ngài nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta thôi chứ Ngài không cất gánh nặng cho chúng ta, Ngài làm cho nhẹ gánh chứ không cất gánh nặng đi. Có nghĩa là chính chúng ta phải cố gắng làm việc và tìm mọi cách để giải tỏa gánh nặng đời mình rồi Chúa sẽ giúp sức thêm, chứ đừng ngồi mà than thân trách phận, hoặc chỉ cầu xin, khấn vái thôi thì chưa đủ.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói: “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao”, bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết những khó khăn. Nếu trong cuộc sống chúng ta còn biết nhờ vả vào những người quyền thế hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng ta lại không cậy nhờ vào Chúa. Cho nên, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, nhất là những khi vất vả hay khổ đau, chúng ta hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ, bổ sức cho chúng ta.

 

61.Vượt qua khổ đau

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Người ta luôn không hài lòng về số phận của mình (On n’est pas toujours content de son sort). Câu ngạn ngữ trên đây một cách nào đó nói lên thực trạng của con người trong kiếp nhân sinh lữ thứ. Đời là một bể trời khổ dâu. “Thoặt sinh ra thì đà khóc chóe. Trần có vui sao chẳng cười khì?” Lời than của một thi nhân Việt Nam như chứng thực điều này. Hết chuyện ngày ngày lo kế sinh nhai “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, thì lại đến chuyện gia thất “con là nợ, vợ (chồng) là oan gia, cửa nhà là nghiệp chướng! Những cảnh vui, cảnh an bình thì thấp thoáng như vó câu qua cửa, còn các chuyện buồn, cảnh khổ thì cứ đằng đẵng tiếp nối dù lòng chẳng mong, chẳng đợi bao giờ.

“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi,tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28). Một lời mời gọi vừa đượm tình vừa rất hiện sinh. Hiện sinh vì nó nó đáp ứng nhu cầu của mọi người mọi thời và mọi nơi. Ngoại trừ các em bé còn trong nôi hay các bé thơ chưa biết nhìn đời với con mắt phản tỉnh, hầu như khi đã biết nghĩ suy một cách nào đó thì ngay cả các bé thiếu nhi, thiếu niên cũng không thoát được sự “bể dâu” của cuộc đời. Nó đượm tình vì nó nói lên việc Đức Kitô đã chung thân, đồng phận với nhân trần chúng ta khi làm người, đặc biệt trong mọi cảnh tình khốn khó.

Cũng có thể như lời Đức Phật dạy: vì quá ham muốn (dục), mà không toại nguyện thì chuốc lấy sự khổ đau. Nhưng đã là người thì tránh sao được cái sự muốn. Ý chí tự do là một trong nhữg ưu phẩm của con người trổi vượt trên các loài thụ tạo hữu hình. Khi anh không muốn cũng là lúc anh muốn cái sự không muốn. Để giải thoát khỏi mọi cảnh khổ, Đức Phật đề ra con đường “tri –kiến” là nhận thức sự vô thường của vạn vật để rồi tạo lập một thái độ tạm gọi là “dửng dưng” vô niệm, vô úy, vô chấp. Đây là một trong những con đường tự giải thoát bản thân khỏi cái vòng lẫn quẩn của vô minh. Thế nhưng, dù sao đó cũng là một kiểu “giác ngộ” của con người, là sản phẩm của loài thụ tạo. Đức Khổng Tử thì đề ra con đường “trung dung”, chính danh, chính phận. Tức là sống đúng danh phận của mình cách hài hòa cân đối, không bất cập mà cũng chẳng thái quá. Khi mọi sự ở trong trật tự của chúng thì cái sự khổ sẽ dần mất đi. Lão Tử thì vẽ ra con đường “vô vi”: Làm mà như không làm… Mỗi hiền nhân mỗi con đường, nhưng thảy đếu là những con đường xuất phát từ người trần gian.

Để vượt qua bao khổ lụy kiếp người, Chúa Kitô mời gọi nhân trần chúng ta hãy mang lấy ách của Người, tức là hãy làm môn đệ của Người. Làm môn đệ của Người là bước đi theo con đường Người đã đi. Để có thể tiếp bước theo Người thì Người mời gọi chúng ta là hãy học cùng Người sự hiền lành và khiêm nhượng. “Hãy học cùng tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29).

Hai từ khiêm nhu rất dễ khiến chúng ta liên tưởng đến thái độ, cung cách hạ mình. Thế nhưng, thái độ khiêm nhường đích thực là nhìn nhận bản thân đúng như mình là trong các mối tương quan với tha nhân, với các loài thụ tạo và với Thiên Chúa, Đấng Tạo thành mọi sự. Người khiêm nhu là người trên hết, trước hết, biết nhìn nhận mình là loài được tạo nên và vì thế, mình chỉ là mình, khi sống, hoạt động theo ý muốn của Đấng dựng nên mình. Ý thức được điều này và tin nhận sự thật này, đồng thời tin nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa thật thì việc bước theo Đức Kitô, làm môn đệ của Người, là lẽ tất yếu đương nhiên.

Hai từ hiền lành cũng đễ làm ta liên tưởng đến một thái độ sống mềm mại, dịu dàng. Thế nhưng sự hiền lành đích thực là một thái độ sống vuông tròn bổn phận trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch. Hình ảnh người mẹ hiền, cô dâu hiền minh chứng cho sự thật này. Học ở Đức Kitô sự hiền lành là biết đi đến cùng trong bổn phận của “người tôi tớ vô dụng” (x. Lc 177-10) chỉ làm những gì phải làm. Và điều chúng ta cần phải làm xuyên suốt mọi hoạt động đó là trả món nợ yêu thương. Bởi tình yêu, ta được chào đời, thì cho tình yêu ta sống kiếp người.

Khi đã tự nguyện làm môn đệ Đức Kitô thì chúng ta cần phải bước đi trên con đường đạo lý yêu thương Người đã đi. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Đây chính là giới răn mới, giới răn mà Chúa Kitô truyền lại khi Người sắp từ bỏ trần gian mà về cùng Chúa Cha. Sự êm ái ngọt ngào khi mang lấy ách của Chúa Kitô đó là biết sống yêu thương như Người đã yêu.

Thánh giáo phụ Âugustinô đã nói: “ Hãy yêu đi, rồi làm gì thì làm”. Khi đã yêu thì sẽ không còn đau khổ. Dù cho đau khổ vẫn có đó, còn đó, nhưng nó đã được yêu rồi. Với thánh Tông Đồ dân ngoại thì khi đã được yêu rồi thì thập giá không còn là sự điên rồ hay nổi ô nhục mà trở thành niềm vinh dự.

Đau khổ phát sinh, có thể là do lỗi hay tội của bản thân hay của tha nhân. Nhưng dù sao đi nữa vẫn có đó nhiều nổi khổ đau thật khó tìm ra nguyên do, căn cớ. Đau khổ là một huyền nhiệm. Chúa Kitô đã không đưa ra một lời giải đáp rạch ròi về nguyên nhân của khổ đau, nhưng Người đã tự nguyện mang nó vào chính bản thân mình để thể hiện tình yêu. Đó là mầu nhiệm thập giá. Đau khổ quả là một sự dữ, nhưng nó sẽ chẳng là gì trước sức mạnh của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa trong Đức Kitô đã biến khổ đau thành ân phúc.

Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng… Nếu ta vẫn đang ngụp lặn trong bao đau khổ, chắc hẳn vì ta chưa đáp lại lời mời của Đấng Cứu Độ là hãy đến với Người. Đến với Người ta sẽ gặp “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…, Đấng bẻ gãy mọi cung nỏ của chiến tranh, Đấng công bố hòa bình cho muôn dân” (Dcr 9,9-10). Đến với Đấng Cứu độ, ta sẽ được Thần Khí của Người đổi mới và “chúng ta sẽ diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta và chúng ta sẽ được sống, sống trong an bình.” (x. Rm 8,13).

 

62.Suy niệm của JKN

TRÁNH TỰ MÃN ĐỂ HIỂU BIẾT VÀ KINH NGHIỆM VỀ THIÊN CHÚA HƠN

Câu hỏi gợi ý:

1. Người tự mãn với những gì mình đang có, đang biết, thì có thể có thêm, biết thêm nhiều hơn không? Tại sao?

2. Trong đời sống tâm linh, nếu ta tự mãn với những hiểu biết hay trình độ tâm linh mình đang có, thì có thể tiến bộ về tâm linh hơn không? Tại sao?

3. Mang lấy ách của Đức Giêsu nghĩa là gì? Tại sao ách Ngài lại nhẹ nhàng?

Suy tư gợi ý:

1. Muốn đạt chân lý, phải dấn thân trọn vẹn cho chân lý

Một nhà thông thái nọ đến xin một đạo sư truyền đạo cho mình. Đạo sư bèn lấy trà ra để tiếp khách. Nhưng ông làm một điều rất kỳ lạ: nước đã đầy và tràn ra mà ông vẫn cứ rót tiếp. Người khách ngạc nhiên hỏi ông tại sao lại làm như vậy. Đạo sư đáp: «Tâm hồn và lòng trí ông cũng đầy ắp như tách trà này rồi, làm sao chứa thêm những chân lý về đạo được nữa?»

Kinh nghiệm cho tôi thấy: một khi lòng trí tôi mải miết lo chuyện gì, thì tôi không thể mải miết với chuyện khác được, nhất là những chuyện có tính chất trái ngược với chuyện tôi đang mải miết say mê. Đó là một định luật tâm lý rất phổ quát. Cũng vậy, một người đang say mê những chuyện trần tục, những chuyện tầm thường, người ấy khó có thể nhập tâm và hiểu được những chân lý siêu việt của tôn giáo. Vì muốn hiểu và cảm nghiệm được những chân lý này, con người phải dấn thân trọn vẹn cho chân lý. Chân lý tôn giáo giống như viên ngọc quý hay kho báu dấu trong ruộng, phải bán hết tất cả những gì mình có mới mua được (x. Mt 13,44-46). Đối với những ai trong lòng đang đầy ắp «cái tôi» vị kỷ của mình cũng vậy, lòng trí họ không còn chỗ nào cho Thiên Chúa hay Đức Giêsu sống và hoạt động trong họ nữa.

2. Phá chấp, phá «sở tri chướng»

Học sinh cấp một được cô giáo dạy: không được lấy số nhỏ trừ số lớn, vì không thể có 3 trái cam mà lại ăn hết 5 trái được. Với trí óc của em, điều đó hoàn toàn hợp lý, không thể khác được. Nhưng nếu em cứ cố chấp với kiến thức hạn hẹp ấy, em sẽ không thể chấp nhận khái niệm về số âm khi em bắt đầu học cấp 2, coi việc lấy số nhỏ trừ số lớn là chuyện bình thường.

Cũng vậy với các học sinh cấp hai. Các em được dạy rằng trong căn hiệu bậc hai không thể có số âm, vì số trong căn hiệu được giả thiết là bình phương của một số, mà đã là bình phương thì không thể là số âm được. Đối với trình độ cấp 2 của các em, điều đó thật hợp lý, và không thể khác hơn được. Nhưng nếu các em cứ cố chấp với kiến thức cố hữu này, các em sẽ không thể chấp nhận được khái niệm về số ảo được dạy trong chương trình giải tích ở đại học, cho phép có số âm trong căn hiệu bậc chẵn.

Còn nhiều thí dụ khác tương tự trong lãnh vực toán học, vật lý, hóa học, sinh học… Tương tự, với những kinh nghiệm và kiến thức trần gian, nếu cứ chấp vào đó, người ta không thể hiểu được những chân lý cao sâu về tâm linh trong tôn giáo. Cứ chấp cứng vào những quan niệm hay lề lối suy tư của tôn giáo này, ta sẽ vô phương hiểu được quan niệm hay lề lối suy tư của các tôn giáo khác. Hoặc cố chấp vào những điều mà ta cho là chân lý bất biến ở trình độ này, ta không thể tiếp thu được những chân lý ở trình độ cao hơn.

3. Ai tự mãn với những gì mình đã biết sẽ không thể biết thêm

Cái lý tất yếu ấy, Đức Giêsu đã nói đến: «Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn» (Mt 11,25). «Các bậc khôn ngoan thông thái» ở đây không có nghĩa là những người khôn ngoan thông thái đích thực, mà đúng hơn là những kẻ tự mãn với sự thông thái của mình, cho rằng sự hiểu biết của mình đã viên mãn, tràn đầy, không cần phải học hay tìm hiểu thêm gì nữa. Một người tuy dốt nát hiểu biết không hơn ai, nhưng lại tự mãn về sự hiểu biết của mình, cũng được liệt vào hạng này. Họ giống như tách trà đã đầy ắp tới miệng, không thể chứa thêm giọt nước nào nữa. Còn «những người bé mọn» ở đây không có nghĩa là những người nhỏ bé, địa vị thấp kém, ít học hành, ít kiến thức, mà có nghĩa là những người tự cho mình là còn biết rất ít, hoặc chưa biết gì cả. Những người này bao gồm cả những người hết sức thông thái nhưng không cho rằng mình biết tất cả, vẫn sẵn sàng lắng nghe và học hỏi nơi người khác. Tâm hồn họ như một ly chưa đầy, sẵn sàng đón nhận những gì từ ngoài vào.

Hai hạng người trên, với thời gian, hạng thứ nhất – tự mãn với những hiểu biết của mình – sẽ không tiếp nhận thêm được gì nữa, nên dần dần sẽ bị lạc hậu khi sống trong một thế giới hay xã hội ngày càng tân tiến. Họ cho rằng những điều họ từng tiếp thu được đã viên mãn, trọn vẹn, là những chân lý bất biến rồi, nên không thể chấp nhận điều gì khác hay ngược với những kiến thức ấy. Họ cố chấp với những hiểu biết ấy, nên không thể tiến xa và lên cao hơn được nữa. Họ như một học sinh cấp một, cứ nhất định rằng không thể lấy số nhỏ trừ số lớn được, nên từ chối không học cấp hai, vì không chấp nhận được khái niệm về số âm. Phật giáo gọi sự cố chấp này là «sở tri chướng», nghĩa là chính sự hiểu biết của mình là chướng ngại cản trở mình hiểu biết thêm. Còn hạng thứ hai, cho dù hiểu biết nhiều tới đâu, vẫn cảm thấy mình còn rất nhiều điều chưa biết, và những gì mình đã biết còn rất phiến diện, thiếu sót, nên không tự mãn mà khao khát và sẵn sàng học hỏi thêm. Vì thế, họ vẫn còn khả năng tiếp thu thêm những điều mới lạ. Socrate, một triết gia lỗi lạc thời thượng cổ, nói: «Điều tôi biết chắc chắn là: tôi không biết gì cả». Những người có thái độ như ông, cho dù có thông thái tới đâu, cũng là «những kẻ bé mọn» mà như Đức Giêsu nói, sẽ được Chúa Cha mặc khải cho những chân lý quan trọng.

4. Bé mọn trong đời sống tâm linh

Để hiểu biết về thế giới vật chất hữu hạn này mà người ta đã phải phá chấp không biết bao nhiêu lần mới có thể tiến bộ và lên cao hơn cấp độ mình đang có. Để hiểu được một giả thuyết khoa học mới, phải chấp nhận giả thuyết cũ là còn thiếu sót. Vật chất hữu hạn mà còn vậy, huống hồ Thiên Chúa vô hạn, siêu việt, siêu nghiệm, không bao giờ hiểu cho hết được! Vì thế, để hiểu biết về Thiên Chúa, nếu ta cứ tự mãn hay cố chấp vào những hiểu biết cũ thì ta sẽ ở mãi trong trình độ thấp kém của mình, không thể tiến xa hơn được. Đúng ra càng sống đạo lâu, sự hiểu biết, khám phá và kinh nghiệm về Thiên Chúa của ta càng phải mới lạ, sâu xa và phong phú hơn. Thánh Phaolô viết: «Với thời gian, lẽ ra anh em phải là những bậc thầy, thế mà anh em lại cần phải để cho người ta dạy anh em những điều sơ đẳng về các sấm ngôn của Thiên Chúa: thay vì thức ăn đặc, anh em vẫn còn phải dùng sữa. Thật vậy, phàm ai còn phải dùng sữa, thì không hiểu gì về đạo lý liên quan đến sự công chính, vì người ấy vẫn là trẻ con. Thức ăn đặc thì dành cho những người đã trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ» (Dt 5,12-14). Khi còn nhỏ, ta chỉ có thể ăn sữa, và ăn sữa là đủ để ta sống. Nhưng khi lớn lên, thức ăn lỏng như sữa không cung cấp đủ năng lượng cần thiết để ta sống và sinh hoạt.

Cũng vậy đối với đời sống tâm linh. Khi mới bước vào đời sống tâm linh, ta cần dùng một thức ăn tâm linh sơ đẳng: chẳng hạn ta cầu nguyện bằng những lời kinh đã dọn sẵn, nhờ đó ta tập nói chuyện với Chúa. Và lúc đó thức ăn tâm linh đó đủ cho sự sống tâm linh còn non nớt của ta. Nhưng nếu ta không nâng cấp cách cầu nguyện ấy lên, tâm linh ta không thể lớn lên được. Cách cầu nguyện đơn giản ấy không đem lại đủ sức mạnh để ta chu toàn những phận sự ngày càng khó khăn và nặng nề hơn của ta, không giúp ta vượt qua được những trở ngại lớn lao mà ta gặp trên đường đời, và thắng được những cơn cám dỗ mạnh mẽ. Ta cần thực tập những cách cầu nguyện cao hơn: cầu nguyện tự phát bằng chính những tâm tình có thật, những nhu cầu có thật của ta. Hoặc cao hơn nữa, cầu nguyện bằng cách ý thức sâu xa sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta, bằng cách lắng nghe Chúa nói trong đáy lòng ta, bằng sự kết hiệp thân mật với Thiên Chúa… Những cách cầu nguyện cao cấp đem lại cho ta nhiều sức mạnh, nhiều niềm vui hơn, nhờ đó ta có nhiều kinh nghiệm về Thiên Chúa hơn…

Nếu ta tự mãn với tình trạng tâm linh hiện tại của ta, đời sống tâm linh của ta không thể lớn lên và mạnh mẽ được. Trái lại, nếu ta nhìn nhận rằng ta cần phải tiến bộ nhiều hơn, sẵn sàng đón nhận những hiểu biết và kinh nghiệm mới mẻ về Thiên Chúa, những cách thức sống đạo mới hơn, cao hơn, thực tế hơn, bớt hình thức mà đi vào chiều sâu hơn, thì ta sẽ thấy mình dần dần tiến cao hơn, và dễ dàng sống thánh thiện, vị tha, hy sinh cho Thiên Chúa và tha nhân hơn. Nếu cá nhân cần phải loại trừ tính tự mãn mới tiến bộ được, thì các tập thể, kể cả quốc gia, tôn giáo, cũng phải như vậy.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, tâm hồn con nặng trĩu những âu lo, phiền muộn, chỉ vì con đã đặt nặng «cái tôi» của mình nhiều quá. «Cái tôi» của con đã chiếm hết không gian tâm thức của con, và gây ra biết bao xáo trộn, xung đột với tha nhân, với lương tâm, với bổn phận, tạo nên bao phiền muộn, lo lắng, sợ hãi… Cái ách của «cái tôi» thật nặng nề. Xin cho con biết mang lấy ách nhẹ nhàng của Đức Giêsu, bằng cách «từ bỏ mình», là điều kiện đầu tiên mà Ngài đòi buộc những ai theo Ngài phải thực hiện. Từ xưa đến nay, con chỉ mang danh theo Chúa thôi, chứ thực tế con chưa hề theo Ngài bao giờ, vì con chưa hề «từ bỏ mình». Con vẫn coi «cái tôi» của mình quan trọng quá mức! Ai nói động đến con là con nổi tam bành lên. Xin cho con hiểu rằng điều kiện tiên quyết để theo Chúa là từ bỏ chính «cái tôi» của mình. Nhờ thế, những ai theo Chúa đích thực luôn luôn được bình an, hạnh phúc và tràn đầy sức mạnh. (JK)

 

home Mục lục Lưu trữ