Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 57
Tổng truy cập: 1361334
HÃY MANG LẤY ÁCH CỦA TÔI VÀ HÃY HỌC CÙNG TÔI
HÃY MANG LẤY ÁCH CỦA TÔI VÀ HÃY HỌC CÙNG TÔI
Có lẽ chúng ta sẽ nghĩ rằng bài trích sách Dacaria nên đọc vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Thực ra, bài này đã được thánh Mathêu trích dẫn (Mt 21,1-11) và được đọc ngay khi bắt đầu cuộc rước. "Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ"
Dacaria không chỉ nói mơ hồ. Ông cho biết rõ ràng Đấng Messia thuộc Dòng Đavit sẽ như thế nào. Dacaria đã mong một Đấng Mesia như một thủ lãnh không dùng bạo lực. Chỉ cần liếc qua những đầu báo hôm nay cũng thấy những đàn áp vũ lực đối với các cuộc biểu tình ở Syri và Liby. Nhưng ngay cả các nước dân chủ cũng chưa chắc không dính đến bạo lực. Ngược với những kinh nghiệm thông thường của chúng ta. Dacaria mời gọi thính giả của mình chiêm ngưỡng một đấng cứu thế hiền lành, cưỡi trên lưng một con lừa, loài súc vật chở đồ cho người nghèo, chứ không phải chiến mã của các bậc đế vương.
Dacaria chờ mong đấng Messia sẽ chấm dứt các quốc gia hùng mạnh tự mãn về chính mình. Ngài sẽ không phải là một chiến binh, nhưng dẹp qua một bên những vũ khí, chiến xa, chiến mã, cung tên để loan báo hòa bình. Được một người không có đất đai, chư hầu, Đấng không muốn làm người điều khiển cỗ máy chiến tranh đứng ra lãnh đạo - đối với ngày nay có lẽ đó là kiểu lãnh đạo hoàn toàn khác biệt! Chúng ta đã từng nghe những bài phát biểu của các ứng cử viên tổng thống tiềm năng sẵn sàng cho cuộc đua đến chức tổng thống. Cái nhìn của Dacaria chắc chắn thách thức công tác lãnh đạo hiện nay và tiềm năng của đất nước chúng ta, cũng như nhận thức của chúng ta về việc lãnh đạo.
Nơi Đức Giêsu, chúng ta bắt gặp một Đấng cứu thế mà Dacaria đã tiên đoán, trong Bài Giảng Trên Núi, chúng ta nghe Người công bố luật của sự sống cho những ai đón nhận Người. Hôm nay, chúng ta được mời gọi đi vào lời cầu nguyện của Đức Giêsu, tạ ơn Chúa Cha vì đã ban cho Người các môn đệ, những kẻ bé mọn, hiền lành và khiêm nhường.
Thế giới của chúng ta không xem hiền lành và hèn mọn như những lối sống. Thực ra, đó chính là "những kẻ bé nhỏ" bị thế giới quyền lực gạt qua một bên. Người hiền lành không chỉ bị hãm hại, họ còn bị miệt thị, lợi dụng và thậm chí bị giết. Vì thế, sức mạnh và sự quả quyết thì cần thiết để chống lại sự bóc lột những kẻ cô thế cô thân để họ có thể sống trọn vẹn cuộc sống nhân loại. Làm thế nào chúng ta có thể cân bằng giữa việc làm "những kẻ bé mọn" như Đức Giêsu tán dương với Chúa Cha với nhu cầu của chúng ta hiện nay phải dùng sức mạnh để giúp con người thôi bị áp bức? Đó là một vấn đề nan giải. Làm thế nào kẻ mạnh mẽ cũng có thể hiền lành và nhẹ nhàng, thành một trong những "kẻ bé mọn" của Đức Giêsu? Sức mạnh và quyền lực không xóa bỏ sự ôn hòa, hiền lành và phó thác nơi Thiên Chúa.
Ngay trong đoạn trước của bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu bị các Pharisêu cũng như những người trong các thành Người đến rao giảng tẩy chay Người (11,20-24). Ngay cả lúc bị loại trừ, Đức Giêsu vẫn tạ ơn Thiên Chúa vì đã mạc khải sự khôn ngoan cho "những kẻ bé nhỏ". Trong bài đọc hôm nay, một lần nữa Người trình bày cho các môn đệ biết những phẩm cách của những ai là thành viên của Thiên Quốc.
Cái "ách" của luật Dothái được xem như đặc quyền của những người Dothái nhiệt thành, vì nó cho thấy hồng ân của sự khôn ngoan của Thiên Chúa tỏ ra trong sống hàng ngày. Giờ đây, Đức Giêsu xem mình như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ban tặng những cái ách ấy cho ai đón nhận Người. Con người có thể học từ luật lệ, phong tục và giáo huấn của đạo, nhưng nguồn mạch căn bản giúp chúng ta hiểu đường lối của Thiên Chúa thì không hệ tại nơi những kến thức đó. Nhưng là nơi việc đón nhận Đức Giêsu và sứ điệp của Người. Thực ra, việc tuân giữ lề luật cách tỉ mỉ có thể khiến cho cho người ta ra tối tăm trước tự do của Thần Khí mà Đức Giêsu ban tặngcho chúng ta. Đức Giêsu cho rằng hiểu biết về Thiên Chúa thì không phải chỉ nhờ vào những theo đuổi của con người - dù là với ý hướng tôn giáo tốt nhất. Người nói, "Cha đã giao phó mọi sự cho tôi". "Mọi sự" - mạc khải trọn vẹn về Thiên Chúa mà chúng ta tìm thấy nơi Đức Giêsu. Người sẵn sàng bày tỏ "mọi sự" về Thiên Chúa cho chúng ta.
Đức Giêsu nói cho những người nghèo, kẻ dốt nát và những ai bị áp bức. Họ phải lo lắng, vật lộn để sống qua ngày. Họ không có nhiều thời gian và cũng chẳng được đi học để mà nghiên cứu những luật lệ, truyền thống về niềm tin của họ như cách các Pharisêu thường làm. Đức Giêsu kết án các Pharisêu chất những gánh nặng lên vai người nghèo còn bản thân họ lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những gánh nặng ấy. Những người phải bươn trải kiếm sống không thể đọc hay nghiên cứu luật, vì thế họ vô tình phạm luật, và kết quả là bị những kẻ thông luật kết án.
Đức Giêsu mời gọi những người bị xem như "kẻ phạm luật", "hãy theo Tôi". Người ban cho họ một cái ách, là sự đón nhận tình yêu và ơn tha thứ của Thiên Chúa mà Người ra giảng. Chẳng phải họ thấy nhẹ hơn khi biết rằng mình không phải là những tội nhân, những kẻ bên ngoài như họ từng bị cáo buộc sao? Nay, qua Đức Giêsu, họ cảm nhận được lòng tha thứ của Thiên Chúa và lối sống của Đức Giêsu. Chúng ta cũng nên tắc mắc: chẳng phải sứ điệp của Đức Giêsu về tình yêu của Thiên Chúa và sự sẵn sàng tha thứ mang lại cho chúng ta một gánh nhẹ nhàng hơn và cảm nhận đến gần Thiên Chúa khi chúng ta cần đó sao?
Trong đoạn văn này của Mathêu, chúng ta có hai chọn lựa - tin hay không tin. Nhưng việc tin tưởng vào Thiên Chúa thì không hê tại ở nỗ lực của chúng ta. Nhưng, tin là hồng ân của Thiên Chúa và không tin là vì sự ngạo mạn và kiêu hãnh của những người từ chối tặng phẩm của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Hôm nay, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết Người chính là mặc khải về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho chúng ta. Người mời gọi những ai bị áp bức hãy tin vào người. Vì họ, "những kẻ bé mọn", sẽ không phải mang những gánh nặng hay trói buộc tôn giáo nào. Những "kẻ bé mọn" là những người xuất hiện trong toàn bộ Tin mừng, chẳng hạn như những người thu thuế, gái điếm và những người tội lỗi, những người đã lắng nghe và đón nhận giáo huấn của Đức Giêsu. Giờ đây, Đức Giêsu mang lại sự nghỉ ngơi lâu dài và mãi mãi của thời đại Messia, là thành quả của việc Người đến thế gian.
Chẳng phải lạ lắm sao khi mà vừa nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi lại vừa nghĩ đến chuyện mang ách?Ách là một công cụ để làm việc, cho cả con người và súc vật. Cái ách là để thi hành một tác vụ. Đối với chúng ta, đó là để phục vụ Đức Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không? Một điều chúng ta thấy được từ Đức Giêsu là cái ách của Người không phải là gánh nặng; thánh Phaolô nói cái ách đó dẫn chúng ta đến tự do. Khi chúng ta đón nhận cái ách của Đức Giêsu thì chúng ta cũng đón nhận Ngài như người luôn trợ giúp chúng ta, một người "cùng mang ách" với chúng ta. Điều đó giải thích việc làm thế nào người Kitô hữu có thể hoàn thành được những nhiệm vụ hết sức khó khăn và thậm chí bất khả thi, cho dù là tử đạo, nhờ Danh Đức Giêsu.
Chúng ta đã cố hết sức để có được nền giáo dục đào tạo mà chúng ta cần để sống nốt cuộc đời này. Chúng ta muốn sự yên ổn cho chính chúng ta và gia đình mình. Chúng ta có lẽ cũng đã tăng cường vốn kiến thức và kỹ năng cho mình bằng những khóa học thêm, cố gắng hơn và tốn kém hơn. Chúng ta có lý do chính đáng để thu thập được càng nhiều kiến tthức càng tốt. Đó không phải là những gì Đức Giêsu phê phán khi người đề cập đến những kẻ "khôn ngoan và thông thái" - trừ khi việc "khôn ngoan và thông thái" ấy che đậy bản chất mỏng dòn của chúng ta và cho chúng ta cảm giác sai lầm về sự an toàn ở ngoài Thiên Chúa. Chúng ta có thể vừa "khôn ngoan và thông thái" vừa ở trong số "những kẻ bé mọn" mà hôm nay Đức Giêsu đã dâng lời cầu nguyện và tạ ơn cho.
Ở đoạn trước trong Tin mừng Mathêu, Đức Giêsu chúc phúc cho những ai "có tinh thần nghèo khó" (Mt 5,3) như thể đã có được nước trời làm sản nghiệp. Những người đọc Sách Thánh sẽ nhận ra rằng khi Đức Giêsu nói đến "những kẻ bé mọn" là người đang lấy lại hình ảnh của Kinh Thánh bản Hippri, từ "anawim" - có nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ cao sang. Họ chẳng có gì để có thể khoe khoang thế giới. Vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào.
Trong Thánh lễ này, giống như những "anawin", chúng ta đón nhận sự khao khát Thiên Chúa của chúng ta và khiêm tốn nài xin: "Con chẳng có gì để kiêu hãnh trước mặt Chúa, lạy Thiên Chúa Chí Thánh. Con hoàn toàn phụ thuộc vào ân sủng của Người". Thiên Chúa thấy được sự trống trải của chúng ta và đổ đầy trong chúng ta nguồn lương thực tốt nhất, là Mình và Máu của Đấng đang mời gọi chúng ta hôm nay, "Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường".
64.Xin chậm lại để có thể nhanh chóng học hỏi.
Có một câu chuyện về một nhóm người đang bay trên một chiếc phi cơ quân đội đến Âu Châu. Cùng với hai phi công, còn có một nhà ngoại giao lừng danh đang ôm lấy một chiếc cặp tài liệu cồng kềnh; một vị tướng ngực đầy chịt những huy chương; và một anh binh nhì đang ôm lấy ba-lô của anh. Chiếc phi cơ bị trục trặc máy móc và phi công loan báo là không thể bay được nữa. "Chúng ta cần phải bỏ máy bay," anh nói. Trong khi anh phát những chiếc dù ra, thì sự kiện xảy ra là chỉ có bốn chiếc dù; thiếu một chiếc. Ngay lập tức, một cuộc tranh luận xảy ra xem coi ai sẽ bị bỏ lại. Ông phi công nói: "Bây giờ đang trong lúc thiếu hụt phi công và như thế tôi rất là cần thiết. Một chiếc dù phải thuộc về tôi." Trong lúc ông mang dù vào và nhảy thì ông phi công phụ cũng nói: "Tôi cũng rất là cần thiết với cùng một lý do." Trong lúc ông mang dù vào và nhảy thì ông tướng nói: "Qua kinh nghiệm luyện tập và chiến đấu, tôi có thể thống lĩnh toàn thể cả Quân Đội hầu sẽ bảo an cho nhiều người." Trong khi ông tướng màng dù và nhảy thì nhà ngoại giao lừng danh lên tiếng: "Tôi thường được coi như là người thông minh nhất trên thế giới này. Sự sống của tôi cần phải được bảo toàn cho phần tốt của mọi người." Trong khi ông mang dù và nhảy thì anh binh nhì nói với chính mình: "Cho chết ông thông minh nhất thế giới -- lại đi mang ba-lô của tôi."
Nhìn vào xã hội hỗn loạn ngày nay, chúng ta có thể đưa ra những lý do để mà tự hỏi nếu quyền thống trị thế giới đang trong tay những người thông minh thế giới. Đấy chính là một lý do tại sao thật là an ủi khi nghe Lời cam đoan của Chúa Giêsu trong Bài Tin Mừng hôm nay: "Hãy mang lấy ách của Ta, và hãy học cùng Ta" (Mt 11:29). Cố nhiên, chúng ta còn có nhiều điều để mà học hỏi. Thế nhưng hãy ca khen Thiên Chúa vì đang dẫn đưa chúng ta hôm nay đến một Nguồn rất chắc chắn của mọi sự khôn ngoan chân thật.
Thư của Thánh Giacôbê chỉ bảo cho chúng ta "hãy mau nghe, đừng vội nói, và đừng vội giận. Vì khi giận, người ta không thực hiện được sự công chính của Thiên Chúa" (Jas 1:19-20). Không hiểu tại sao, chúng ta như đi ngược lại phương thức đó, trở nên chậm nghe, mau nói, và dễ tức giận. Chúng ta có thể nhìn thấy sự thể này trên phương diện thế giới nơi mà đang có khoảng bốn mươi hai cuộc chiến tranh đang xảy ra, và trên phương diện cá nhân nơi mà hạnh phúc được mưu cầu trong sự khác nhau của những khu vực tác chiến.
Một người phụ nữ, đời sống thật là đầy những căng thẳng, di chuyển với gia đình từ thành thị về nơi thôn quê. Cả nhà quyết tâm giảm bớt đi những căng thẳng và lo lắng mà họ đã sống qua hầu sống một đời sống mới an nhàn thoải mái hơn. Một người hàng xóm đến thăm người mẹ trong gia đình thì thấy trên bảng nhắc nhở có cắm một cái gì đó. Bà liền hỏi nó là gì thì người mẹ trả lời, "Ồ, đấy chính là bài thơ tượng trưng cho những gì mà chúng tôi di chuyển đến đây. Bài thơ này mở đầu rằng, 'Lạy Chúa, xin hãy làm cho chúng con chậm lại...' Thế nhưng, tôi vẫn chưa có đủ thì giờ để đọc phần còn lại."
Chúng ta hãy chậm lại hầu chúng ta có thể mau mắn lắng nghe Lời Ngài về an bình và tình huynh đệ. Chúng ta hãy chậm lại hầu chúng ta có thể mau mắn lắng nghe rằng đời sống của chúng ta không phải là đi ra khỏi trần thế này mà là đi nhập vào trong chính thế gian này để chăm nom. Chúng ta hãy chậm lại hầu chúng ta có thể mau mắn học biết "tốt đẹp dường nào và dịu ngọt dường nào khi anh em sum vầy với nhau" (Ps 133:1). Cộng đồng dân Chúa cùng tụ họp lại để trở nên gương mẫu của sự bình an, hiệp nhất và tình huynh đệ.
Trong một mẫu chuyện hoạt hình, "Kudu", có một người đàn ông tên "Thầy Giảng Dunn" tiến đến bục giảng và nói với cộng đồng rằng: "Anh chị em thân mến, hôm nay tôi muốn làm một bài kiểm tra -- kiểm tra tinh thần. Bài kiểm tra này sẽ đánh giá cấp bật phát triển tinh thần của toàn thể cộng đồng. Sửa soạn! Câu đầu tiên! Hãy làm hoàn tất câu: 'Ai vả má phải các ngươi...'" Ngay lập tức, có nhiều lời xì xào trong cộng đồng: "Trói hắn lại!... thanh toán nó đi!" Sau đó, thầy giảng Dunn nói, "Tôi buộc phải chấm theo tinh thần Chúa Kitô."
Chúng ta cho điểm mình không đến nỗi tệ trong việc theo Đức Kitô. Chúng ta có đủ tín nhiệm vào Chúa Giêsu để thực thi sứ mệnh được phát thảo để đối đầu với sự dữ với quyền lực của tình yêu không? Chúng ta có đủ tin cậy để dám liều trở nên những sứ giả bị xiềng xích không?
Lạy Chúa, xin hãy làm cho chúng con chậm lại hầu chúng con có thể mau mắn học biết chương trình Thiên Chúa cho an bình và tình huynh đệ, hoà hợp và công bình. Lạy Chúa, xin hãy làm cho chúng con chậm lại hầu chúng con có thể mau mắn học biết làm thế nào ôm ấp thế giới trong tình yêu.
65.Nghịch lý – Phạm Ngọc Lê
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay gợi lên một nghịch lý: Vua Mê-si-a, cỡi lên lừng lừa, khiêm nhu tiến vào thành Giê-ru-sa-lem (Bài đọc 1). Đức Giêsu, là Thầy và là Chúa, lại tỏ mình là Đấng hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, đồng thời cho ta biết ách của Ngài êm ái, gánh của Ngài nhẹ nhàng. Trong thư gởi tín hữu Ro-ma, Thánh Phao-lô theo bước chân của Đức Kitô, cũng vạch ra một con đường kỳ lạ: nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.
Vài Suy Tư
Nghịch lý thường làm ta kinh ngạc và hoang mang. Chúng ở ngoài cái lô-gích của lý lẽ và hành hạ ta vì làm cho ta mất tự chủ trong suy tư. Nghịch lý là sản phẩm của lý trí, nhưng chúng lại thuộc về một bình diện khác biệt với lô-gích và lý trí. Chúng thuộc bình diện xúc cảm và trực giác, lô-gích của trái tim, và nếu chúng là những nghịch lý Kitô giáo, chúng cũng còn thuộc bình diện mặc khải và lòng tin nữa. Từ quan điểm này, ta suy tư về các bài đọc phụng vụ hôm nay.
Nghịch lý của Đấng Mê-si-a
Đấng Mê-si-a được mong đợi suốt thời Cựu Ước là Đấng Mê-si-a - Vua, hậu duệ của nhà Đa-vít, Đấng tiến vào Giê-ru-sa-lem như vị đại vương cỡi trên lưng chiến mã, sau khi đã chinh phục vương quốc Đa-vít. Ngôn sứ Da-ca-ri-a cũng nói đến một nhà vua, công chính và vinh quang thật đấy, nhưng lại khiêm nhu cỡi trên lưng lừa con. Kitô giáo xem lời sứ ngôn này ứng nghiệm cho Đức Giêsu, Đấng Mê-si-a mà người do thái và muôn dân mong đợi. Ngài là Đấng Mê-si-a - Vua, nhưng Ngài lại ngự trên ngai thập giá, đỉnh cao đau khổ.
Nghịch lý của tình yêu
Đoạn Tin Mừng theo Thánh Matthêu, như họa lại tình yêu nghịch lý của Đức Giêsu. Đây chính là một nghịch lý vì Con Thiên Chúa tối cao đã tự hủy mình ra không qua việc nhập thể. Nghịch lý vì, là Thầy và là Chúa, mà lại hiền lành và khiêm nhường trong lòng, đã mang lấy ách và gánh nặng trên vai, để chúng ta tôi tớ của Ngài cảm thấy nhẹ nhàng hơn, để chúng ta là môn đệ bị đè nặng bởi lề luật cảm thấy dễ thở hơn.
Nghịch lý của ân sủng
Trong đời sống Kitô hữu, những từ "chết - sống" có liên hệ với nhau, nghĩa là phải chết để được sống. Phải chết đi cho tính xác thịt để con người mới được sống, do Thần Khí. Đây là cái chết theo nghĩa khổ chế, và nếu Chúa muốn, cũng có nghĩa thực nữa, đến mức độ chết vì đạo, để Đức Kitô sống trong ta theo cách thức hoàn toàn khác biệt với thế gian. Nếu Kitô hữu thực hiện điều này trong đời mình, họ không còn thuộc về thế gian này nữa, nhưng thuộc về thế giới của men và của ánh sáng.
66.Con số không
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Truyện Tây Du Ký kể lại cuộc hành trình của thầy trò Đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh Kinh, đem về phổ biến cho dân gian.
Trên cuộc ra ra đi đầy gian nan thử thách của thầy Tam Tạng, không chỉ là núi rừng hiểm trở với yêu ma quỷ quái, mà còn là những tật xấu của ba người đồ đệ thân tín. Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa tăng, ba tên này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Đường cũng như bao người khác phải vượt qua để đạt chánh quả. Đó là tính kiêu căng, lòng ham vật dục và sự lười biếng.
***
Trên cuộc hành trình về quê trời, mỗi người tín hữu cũng phải vượt qua bao gian nan thử thách, pải chiến đấu với những cơn cám dỗ triền miên. Thấu hiểu nỗi truân chuyên của con người, hôm nay Đức Giêsu đã kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồ dưỡng” (Mt 11,28).
Hãy đến với Người, tất cả những ai đang phải “bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”, những ai “đầu tắt mặt tối” để kiếm sống, những ai “thấp cổ bé miệng”, Người sẽ ủi an bổ sức, sẽ cho họ được an dưỡng nghỉ ngơi.
Hãy đến với Người, tất cả những ai đang mang gánh nặng của quá khứ tội lỗi, của hiện tại yếu hèn, của tương lai chống chênh, Người sẽ xoa dịu vỗ về, sẽ ban cho họ sự bình an thanh thản.
Đức Giêsu còn tha thiết mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi… Vì ách của tôi êm ái, và gánh tội nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Nếu bất ngờ chúng ta bị một “cái ách giữa đàng mà quàng vào cổ” thì thật là gay go. Nhưng nếu chúng ta tình nguyện đón nhận cái ách của Đức Giêsu, là thánh giá bổn phận hàng ngày, thì cái ách của Đức Giêsu, là thánh giá bổn phận hàng ngày, thì cái ách kia sẽ trở nên êm ái, và gánh kia sẽ nhẹ nhàng. Vì chính con đường chúng ta đang tiến bước là con đường tình yêu, hành trình mà chúng ta đi tới là hành trình Nước Trời.
Chính trong tình yêu mà chúng ta cảm thấy bình an giữa cơn giông tố, niềm hân hoan trong lúc khổ đau.
Chính trong tình yêu mà cái ách sần sùi trở nên êm ái, và cái gánh nặng nề hóa ra nhẹ nhàng.
Thánh Augustine nói: “Nơi đâu có tình yêu thì không có vất vả, mà nếu như có vất vả thì người ta cũng yêu cả nỗi vất vả ấy”.
Để có được thanh thản giữa bao lo toan của cuộc sống, để có được bình an giữa muôn bão tố cuộc đời, để có được thư thái giữa bao gánh nặng chồng chất, chúng ta hãy học nơi Thầy Giêsu: “Hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).
Kẻ kiêu ngạo phô trương, cậy mình khôn ngoan tài đức, nên chẳng mấy ai ưa, mà Thiên Chúa cũng khinh chê loại bỏ. Còn người hiền hậu khiêm tốn nhận mình bé mọn, chỉ biết cậy dựa vào Chúa, nên được mọi người quí mến, mà Thiên Chúa lại yêu thương và ban cho Nước Trời, Đức Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Một ly nước đầy không thể đổ thêm thứ gì vào đó. Cũng vậy, một kẻ chất đầy kiêu căng tự mãn thì không còn chỗ cho Thiên Chúa dạy dỗ và ban ơn. Chỉ có những tâm hồn nhận mình bé mọn, nhận mình là con số không, là trống rỗng thì lại có đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng.
Đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy chúng ta này sống “hiền lành và khiêm nhường”.
Là Thiên Chúa cao cả quyền năng, nhưng Người lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân để yêu thương và cứu chộc con người (Pl 2,7-8).
Người không lên án người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang mà còn cứu bà khỏi trận mưa đá hãi hùng.
Người không khiến lửa trời xuống đốt cả làng Samari theo đề nghị của hai môn đệ háo thắng.
Người ví mình như người cha nhân hậu tha thứ cho đứa con hoang đàng.
Người xem mình như mục tử nhân lành chăm sóc từng con chiên.
Người xin Cha tha thứ cho những kẻ lăng nhục, hành hạ, và đóng đinh Người.
Tột đỉnh của sự “hiền lành và khiêm nhường” nơi Đức Giêsu chính là Người đã hạ mình, vâng lời cho đến chết, và chết trên cây thập tự mây cứ thong thả bay, suối cứ lững lờ trôi. Và lời kinh cứ tiếp tục xuôi thời gian gởi vào cuộc đời: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Trong cõi lòng hiền lành và khiêm nhường bao giờ cũng gói trọn con tim bao dung độ lượng.
***
Lạy Chúa, xin dạy chúng con sự hiền lành , để chúng con có được tất cả thế giới là anh em. Xin dạy chúng con sự khiêm nhường, để chúng con có Chúa là tất cả cho cuộc đời chúng con. Amen.
67.Chướng ngại
Trên chuyến xe lửa tiến về Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong việc cầu nguyện.
Anh sinh viên nhìn cụ già với vẻ khinh bỉ. Một lát sau anh nói: - Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?
Cụ già thản nhiên đáp:
- Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Anh sinh viên cười ngạo nghễ rồi nói:
- Lúc còn con nít tôi có tin. Nhưng bây giờ khoa học đã mở mắt cho tôi và tôi không thể tin được nữa. Ông hãy quăng xâu chuỗi ấy đi và hãy học hỏi những khám phá mới, ông sẽ thấy những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
Cụ già khiêm tốn hỏi:
- Cậu vừa nói về những khám phá khoa học mới. Cậu có thể giúp tôi hiểu được những khám phá ấy?
Anh sinh viên hăng hái trả lời:
- Được chứ. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi tặng ông những cuốn sách khoa học rồi ông sẽ thấy sự phong phú kỳ diệu của nó.
Cụ già rút trong túi ra một tấm danh thiếp và đưa cho anh sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, anh thanh niên tái mặt và lặng lẽ cúi đầu đi sang toa khác, bởi vì trên tấm danh thiếp có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. Ông Louis Pasteur là một nhà bác học đã có nhiều phát minh trong lãnh vực hóa học và sinh vật học. Chính ông đã tìm ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại. Dù thông thái như thế, nhưng ông vẫn khiêm tốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, vẫn nỗ lực tìm kiếm Chúa để sống gắn bó với Người. Vì thế ông đã nghe được tiếng Chúa và đón nhận được những mặc khải của Người.
Còn anh sinh viên kia khả năng và sự hiểu biết không được bao nhiêu, nhưng đã tỏ ra kiêu căng tự phụ về sự hiểu biết ấy. Sự kiêu căng của anh đã che khuất đi khuôn mặt của Thiên Chúa, đã làm át đi tiếng nói của Người trong tâm hồn anh. Chính vì thế anh đã không thể nhận ra dung mạo của Thiên Chúa, không nghe được tiếng nói của Người trong cuộc đời mình.
Thời đại hôm nay nền khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực. Cuộc sống kinh tế của con người càng ngày càng phát triển. Người ta giàu có hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng tất cả những tiến bộ và phát triển ấy không đủ để phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và niềm tin tôn giáo. Chỉ có điều là người ta quá tự hào về những thành quả khám phá của mình, tự hào về sự giàu sang của mình. Và sự tự hào ấy đã ngăn cản, đã che mờ đôi mắt làm họ không còn nhận ra được những mặc khải của Thiên Chúa cho họ.
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta chọn thái độ của nhà bác học Louis Pateur hay của anh sinh viên trong câu chuyện trên?
68.Sự khiêm nhường của Thiên Chúa
Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng nhưng cũng là Đấng khiêm tốn và quảng đại vô cùng. Ba Ngôi cho đi tất cả, không hướng về bản thân mình nhưng hướng về hai Ngôi kia trong một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi Thiên Chúa là nguồn lực và là mẫu mực về tình yêu thương phục vụ cho loài người chúng ta.
Thiên Chúa luôn yêu thương chăm sóc loài người. Ngài là Tạo Hoá mà lại rất mực quan tâm đến loài thụ tạo chúng ta. Ngài biết rõ mọi sự và có dư khả năng để bắt loài người luôn vâng lệnh Ngài. Tuy nhiên, khi đến với loài người, Ngài tỏ lòng từ bi, nhân ái đối với loài người. Ngài là Tạo hóa mà lại chấp nhận ban cho loài người quyền tự do: tự do vâng phục và tự do... chống đối Ngài, có khả năng xúc phạm đến Ngài. Thiên Chúa vẫn một lòng thương cho dù con người có lỗi phạm nặng nề. Điều đó biểu hiện nơi Chúa Giêsu, nơi lòng thương xót của Ngài. Trên Thánh giá, Chúa Giêsu còn nói lời tha thứ cho những kẻ giết hại mình: xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết. Từ lúc chưa nhập thể thì Ngôi Hai đã biết mình sẽ nhập thế cứu chuộc cho ai rồi: những người tội lỗi, đang xa lìa Chúa và thường xuyên lỗi lời Chúa dạy. Dầu con người hay lỗi phạm đến thế, Chúa vẫn tìm dịp cho con người hoán cải. Có lúc Chúa cảnh cáo và đe phạt nặng nề, nhưng không tiêu diệt. Khi con người hoán cải thì Ngài lại thương tiếp tục ban ơn, thể hiện lòng nhân từ đối với loài người tội lỗi. (vd: Xh 33, 3t)
Sự khiêm nhường của Thiên Chúa biểu lộ rõ nơi Chúa Giêsu, một tấm gương khiêm nhường tuyệt hảo. Từ khi nhập thể, Ngài đã biểu lộ rõ sự khiêm nhường: đến ở trong một gia đình nghèo, trong một làng nghèo miền Galilê xa thủ đô. Ngài sinh trong dòng tộc vua Đavid nhưng là một dòng tộc lúc đó đã hết quyền và nghèo khổ. Ngài còn chấp nhận sinh ra trong hang chiên lừa, bị bắt bớ, bị coi thường. Lúc đi giảng đạo, chắc Chúa phải nghe nhiều lần câu: Ông ấy là con bác thợ mộc Giuse, ở Nazarét nào có cái chi hay, còn ông này chúng ta biết rõ từ đâu tới... (x.Mt 13,55). Chúa Giêsu đã khiêm tốn chịu sự hiểu lầm đó và phó thác hoàn toàn cho Chúa Cha định liệu. Ngài đi rao giảng nhưng kết quả trước mắt không được mỹ mãn, Ngài lại bị kết án oan do sự phạm thượng của con người. Ngài lại chẳng oán phạt. Ngài trở nên con chiên hiền lành trong tay Chúa Cha và để cho loài thụ tạo mặc sức hành xử! Đó không phải là gương khiêm tốn và phó thác vô cùng của Thiên Chúa sao?
Noi gương Chúa, chúng con sẽ sống đạo trong tinh thần khiêm hạ và nhận ra sự thật về chính mình. Chúng con chỉ là loài hay chết, đầy giới hạn và yếu đuối. Tất cả là nhờ ơn Chúa. Do đó, chúng con cần hạ mình, chấp nhận cuộc sống nghèo, biết cộng tác với ơn Chúa và nổ lực đáp trả lời Ngài mời gọi. Chúng con xin cám ơn Chúa đã hiện diện và ban ơn từng giây phút trong cuộc sống của mỗi người chúng con. Chúng con là loài thụ tạo, chẳng đáng là gì trước mặt Chúa vậy mà nhiều lúc lại quá ngạo mạn khi cho rằng Chúa phải cho mình điều này điều kia. Chúng con thật quá vô tình khi đi lễ và giữ điều luật cách bó buộc: để khỏi bị phạt chứ không vì thương mến Chúa. Chúng con chưa biết học hỏi sự khiêm tốn và tình thương Chúa biểu hiện nơi Đức Kitô mà chỉ biết có mình! Chúa đã yêu thương hết mình vì chúng con, chẳng tiếc gì kể cả Người Con Một, vậy mà khi làm được chút việc lành (mà nhiệm vụ chúng con phải làm), chúng con đòi Chúa phải đáp ứng những yêu sách của chúng con; khi Chúa nhờ vác chút thập giá, chúng con đôi co với Chúa và tìm cách thoái thác dù biết rằng điều chúa muốn là tốt cho chúng con.
Lạy Chúa, rất nhiều khi chúng con tỏ ra nông nổi, không biết nhận ra và đáp trả tiếng Chúa, xin Chúa thứ tha và ban ơn trợ giúp cho đức tin yếu hèn của chúng con. Chúng con sẽ noi theo tinh thần khiêm tốn của Người mà phục vụ và chu toàn trách nhiệm được giao trong tình yêu Chúa.
69.Hiền lành
Trước hết, chúng ta biết hiền lành là một trong những đức tính Chúa Giêsu đã đặt vào số tám mối phúc: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. Rồi hôm nay, chúng ta lại thấy Chúa nói: “Hãy học với tôi vì tôi hiền lành”. Có lẽ không ai dám khuyên một lời như thế. Chúa Giêsu đả đưa ra lời khuyên đó, vì chính Ngài đã sống gương mẫu và kêu mời mọi người hãy sống như thế để chính mình được an bình, hạnh phúc, và đồng thời cũng đem lại bình an và phúc lộc cho những người chung quanh.
Quả thực, Chúa Giêsu đã sống hiền lành và làm gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta có thể nêu ra một số trường hợp cụ thể: Chẳng hạn, khi những người Pharisêu nhục mạ Ngài là bị quỉ ám, Ngài vẫn bình thản và nhắc nhở họ: “Đừng xét đoán theo bề ngoài. Hãy xét đoán cho công minh”. Chúa rao giảng giáo lý của Chúa một cách hiền hòa, không chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài. Nhiều khi thấy đương đầu với họ không có lợi, Ngài tự ý lánh đi, để cho sự tức giận hay ghen ghét của họ dần dần lắng xuống. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối, bực tức, phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Ngài đã tắt thở và an nghỉ trong sự suy phục sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài một cách toàn vẹn: “Mọi sự đã hoàn tất”, “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”.
Đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã sống hiền lành một cách trọn vẹn, nên Ngài dám nói, dám kêu gọi chúng ta hãy học, hãy sống như Ngài. Ngài thực sự là mẫu gương cho mọi người. Qua mẫu gương hiền lành của Chúa, chúng ta rút ra được ý nghĩa của sự hiền lành là tự chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng.
Người hiền lành là người làm chủ được chính mình, chiến thắng được chính mình, tức là thắng được cái tôi kiêu hãnh, ganh tị, giận hờn, tự ái, nóng nảy, tham lam của mình. Trong mỗi người có hai phần: phần thượng là ơn thánh, lý trí và ý chí. Còn phần hạ là cái dục vọng. Chiến thắng được chính mình là biết dùng ơn Chúa, dùng lý trí và ý chí điều khiển các dục vọng của mình, không để ngoại cảnh hoặc người khác chi phối, không phản ứng theo niềm vui nỗi buồn để đưa mình lên hay hạ người khác xuống.
Cũng thế, người hiền lành thì kiên nhẫn, chịu đựng mọi hoàn cảnh bất trắc hay những điều ngoài ý muốn của mình. Không tự mãn hay phóng đại công việc của mình, khoe mã, cầu danh, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, bắt bẻ hay bực tức về chuyện sơ suất của người khác. Chúng ta mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi sở thích, và có những khả năng, tài năng khác nhau, không ai giống ai. Chúng ta sống với nhau, chúng ta phải biết kiên nhẫn, chịu đựng để hòa hợp với nhau, chia sẻ cho nhau. Vì thế, đòi hỏi chúng ta phải biết chịu đựng nhau, chấp nhận nhau. Chịu đựng chấp nhận cái hay cái tốt của người khác thì dễ nhưng chấp nhận chịu đựng cái xấu cái dở của người khác mới khó và đó mới là nhân đức. Có những trường hợp chúng ta phải chịu đựng, chấp nhận không phải một hai lần mà rất nhiều lần. Chấp nhận và chịu đựng được mới thực sự là người hiền lành.
Lại nữa, bao lâu còn là người, chúng ta còn lỗi lầm, còn cần được sửa sai, còn cần được tha thứ, và tha thứ mãi. Tha thứ nhiều là dấu chúng ta chịu đựng nhiều. Tha thứ nhiều sẽ chứng tỏ được tấm lòng quảng đại bao dung làm cho thêm bạn bớt thù. Tha thứ không phải là yếu thế hơn người được tha thứ, nhưng chính là tấm lòng rộng lớn hơn họ. Càng tha thứ sẽ làm cho đối phương nhận ra lỗi lầm của họ và họ sẽ thấy cần được tha thứ hơn. Cho nên, người nào muốn tập đức tính hiền lành là phải tập tha thứ.
Có lẽ tất cả chúng ta đều phải thú nhận mình còn thiếu rất nhiều đức tính hiền lành. Sống trong gia đình và sống trong bất cứ tập thể nào, chúng ta vẫn còn nhiều lần tỏ ra thiếu hiền lành, chưa hiền lành hoặc không hiền lành. Cho nên, Lời Chúa hôm nay thực là một bài học hữu ích, một lời kêu gọi chúng ta hãy sửa chữa hoặc cố gắng hơn nữa, để sống hiền lành. Nếu lịch sự được coi là bông hoa của đức ái, thì huống nữa là hiền lành. Vì thế, Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy sống theo gương mẫu hiền lành của Ngài.
70.Chúa Cha
Biết được một người quan trọng đem lại niềm vui cho chúng ta. Tuy nhiên, biết thường chỉ có nghĩa là biết những sự kiện về người đó. Không biết một người khác theo cách đó chỉ có được một kiến thức nông cạn về người ấy.
Thật sự biết một người là phải có một quan hệ với người ấy, một quan hệ có nền tảng là yêu thương và tin cậy. Và cũng thế khi chúng ta muốn biết mình có được người khác hiểu biết và yêu thương không.
Trong cuốn sách viết về tiểu sử của George Washington, Richard Brookhiser nói:
“George Washington ở nơi chúng ta mỗi ngày, trên những tờ đô la và các khu phố. Từ núi Rushmore, ông nhìn xuống chúng ta. Trong thủ đô mang tên ông, ông có một đài tưởng niệm nổi tiếng nhất. Hơn bất kỳ người Mỹ nào, tên ông được dùng để đặt tên cho các trường học, đường phố, thành phố. Các nhà sử học xếp ông vào số những Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ”.
“Tuy nhiên, sự hiện diện của Washington không biến thành sự thân mật. Ông có mặt trong sách giáo khoa, trong ví tiền, nhưng không hiện diện trong tâm hồn chúng ta. Khuyết điểm này một phần do Washington, khi ông có khuynh hướng giữ khoảng cách giữa mình với dân chúng”.
Một số người coi Thiên Chúa như xa xôi cách biệt, không thật sự liên quan đến chúng ta và những đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, những người khác coi Thiên Chúa như một quan tòa, hoặc một thám tử sẵn sàng tóm lấy chúng ta để trừng phạt.
Đức Giêsu biết Chúa Cha và Chúa Cha biết Người. Điều này làm Người đầy tràn niềm vui. Vì Đức Giêsu biết Chúa Cha nên Người có thể mạc khải Chúa Cha cho người khác, đặc biệt cho những ai sẵn sàng cởi mở và đón nhận như con cái. Đức Giêsu mạc khải Chúa Cha như một người Cha yêu thương, từ bi hay tha thứ. Một Thiên Chúa âu yếm, quan tâm đến chúng ta. Người quan tâm đến chúng ta không phải để xét đoán và lên án chúng ta nhưng để chữa lành và cứu chuộc.
Nhiều người được gọi là thông thái đã từ bỏ Đức Giêsu, nhưng những người đơn sơ đã chấp nhận Người. Những người trí thức không cần đến Người, nhưng Người khiêm nhu lại chấp nhận Người. Sự kiêu ngạo trí thức là một điều nguy hiểm. Người đơn sơ gần gũi Thiên Chúa hơn người thông thái.
Đức Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”.
Đức Giêsu không lên án khả năng trí thức nhưng tính kiêu ngạo tri thức. Không thể gọi là thông minh, sáng suốt khi khước từ Thiên Chúa, đó là lòng kiêu ngạo. Và không phải ngốc nghếch khi để cho Thiên Chúa bước vào đời sống mình. Đó là sự khiêm nhu.
Vì Đức Giêsu đã đến với chúng ta nên chúng ta không còn coi Thiên Chúa như một Đấng xa vời. Chúng ta nhìn thấy Người như một Đấng rất gần với chúng ta, biết rõ mỗi người chúng ta và quan tâm đến từng người một, vì chúng ta là con cái của Người. Người là Thiên Chúa đặc biệt cho người yếu đuối, nghèo khó và gánh vác nặng nề.
Khi đức tin là vấn đề của chỉ cái đầu, đức tin trở thành một việc lạnh lùng tri thức. Kết quả là Thiên Chúa vẫn ở bên ngoài chúng ta, một hình ảnh xa xôi, cách biệt. Nhưng đức tin không phải là vấn đề của cái đầu. Đúng ra nó là vấn đề của tâm hồn. Khi đức tin cắm rễ trong tâm hồn, Thiên Chúa trở nên gần gũi và âu yếm. Như thế đức tin trở thành một quan hệ ấm cúng với Thiên Chúa. Biết Thiên Chúa theo cách này, và có một liên hệ thương yêu với Người, sẽ tạo ra cho chúng ta một niềm vui cao cả. Thiên Chúa giống như một mùa xuân ở giữa chúng ta để mọi người trở nên tươi tỉnh và nâng ly chúc tụng.
71.Mang lấy ách của Chúa
Cuộc sống nơi miền quê cho chúng ta kinh nghiệm về làm đồng, nơi đó chúng ta chúng kiến cảnh những con trâu, bò mang lấy ách để cày những thửa ruộng, liếp vườn. Nên ngay khi chúng ta nghe Chúa Giêsu kêu gọi: "Hãy mang lấy ách của Ta,... vì ách của Ta thì êm ái, còn gánh của Ta thì nhẹ nhàng". Đã là ách thì làm sao mà êm ái, đã là gánh thì làm sao mà có thể nhẹ nhàng được. Kinh nghiệm trong thực tế cuộc sống không dễ cho con người chúng ta cảm nhận được lời nầy của Chúa Kitô.
Theo truyền thống Do thái, lề luật được xem như là một cái ách đè nặng trên dân chúng mà họ không thể thoát ra được. Thiết tưởng chúng ta cũng nên biết, Lề Luật của Thiên Chúa ban cho dân Do thái là vì tình thương họ, hướng dẫn họ sống đẹp lòng Chúa. Nhưng qua dòng lịch sử, người ta đã thêm vào đó những giải thích theo ý con người làm cho lề luật trở thành một gánh nặng mà người theo đạo khó gánh vác nổi. Như thế ách là một cái gì đang đè nặng là cho phải nặng nhọc hơn cho những ai phải vác lấy nó.
Tuy nhiên chúng ta cũng nên biết rằng cái ách không chỉ là một cái gì đè nặng mà còn là cái gì đó để liên kết và chia sẻ. Hai con trâu, hai con bò cần có cái ách để nó chia sẻ nỗi khổ nhọc. Trong chiều hướng này chúng ta sẽ thấy và hiểu rõ hơn câu nói của Chúa Giêsu: "Hãy mang lấy ách của Ta,... vì ách của Ta thì êm ái, còn gánh của Ta thì nhẹ nhàng". Chúa Giêsu không muốn chúng ta phải vất vả gánh nặng thêm mà Ngài muốn chúng ta hãy để cho Ngài cùng chung vai sát cánh với chúng ta, chia sẻ nỗi vất vả của chúng ta. Lời Chúa dạy là những giới răn mới không phải để trói buộc con người trong sự nô lệ của tội lỗi, của lề luật mà là nô lệ trong tình yêu Thiên Chúa, mà nô lệ trong tình yêu thì chính là sống và chết cho tình yêu Thiên Chúa để đáp lại tình Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta. Vậy ách của Chúa quả là nhẹ nhàng thực sự vì nó mang lại cho ta sự tự do thực sự, tự do trong tinh thần nghĩa tử. Mang lấy ách của Chúa là để Chúa nâng đỡ bổ sức cho chúng ta.
Trong cuộc sống con người ai ai cũng sẽ gặp những khốn khó vất vả trong cuộc sống. Vì thế, người ta thường ví đời là bể khổ, đời là vũng nước mắt.... Nhưng làm sao có thể vượt qua những vất vả này. Thưa là hãy cùng Chúa vượt qua và Ngài mời gọi chúng ta. Ngài là vua hoà bình, vua bình an. Ngài sẽ quét sạch mọi đau thương khốn khó, Ngài sẽ làm khô những giọt lệ trên khoé mắt chúng ta.
Muốn được như thế mỗi người chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để Chúa cùng hành động với Chúa, chẳng những Chúa bằng lòng mà lại vui lòng nữa khi ta biết để cho Chúa hướng dẫn cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta cảm nhận được sức mạnh của Chúa trong cuộc sống để chúng ta biết phó thác cho Chúa cuộc đời chúng ta, để Chúa hướng dẫn chúng ta và để Chúa hoàn thành tất cả những gì là đẹp lòng Chúa.
72.Hãy đến với Ta
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe lời kêu mời tha thiết của Chúa Giêsu: "Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi". Mỗi người chúng ta có lẽ giờ phút này cũng mang đến đây một gánh nặng, gánh nặng của những âu lo trong cuộc sống và nhất là gánh nặng của tội lỗi đang đè nặng trong lương tâm của ta.
Tin ở tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mang những gánh nặng đó cho Chúa Giêsu để xin Ngài tiếp tục độ trì, nâng đỡ chúng ta và tin ở tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta cũng mang đến cho Ngài những gánh nặng tội lỗi của mình để xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Người đã làm một cử chỉ mang nhiều ý nghĩa cao cả, đó là Ngài đã tuyên bố phục hồi danh dự cho ông Galilê, người đã bị Giáo Hội ở thế kỷ XVII kết án là lạc đạo, vì ông cho rằng trái đất quay xung quanh mặt trời.
Từ hàng bao thế kỷ qua, nhiều người xem ông Galilê như là nạn nhân của một Giáo Hội độc đoán, áp bức đối với con người. Và hiện nay không thiếu những người vẫn tiếp tục nhìn vào Giáo Hội như một sức kéo trì trệ, ngăn cản bước tiến của nhân loại. Với việc phục hồi danh dự cho ông Galilê, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II không những nhìn nhận một lỗi tầm của quá khứ, mà Ngài còn khẳng định một nguyên tắc nền tảng về sự tự trị của tôn giáo và khoa học.
Trong sứ điệp gởi cho vị giám đốc của đài thiên văn Vatican năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định như sau: "Tôn giáo không xây dựng trên khoa học, và khoa học cũng không là một nối dài của tôn giáo". Mỗi bên có một phương pháp, một nguyên tắc, một cách giải thích và những kết luận riêng của mình. Vì thế, Kitô giáo tự biện minh cho mình mà không dựa vào khoa học.
Lời tuyên bố trên đây của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đưa chúng ta vào một trong những chân lý nền tảng của Kitô giáo, chân lý đó là: “Đức tin là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho con người". Điều đó có nghĩa là không phải tìm kiếm, lý giải uyên bác thì con người mới đạt được đức tin. Nói như triết gia kiêm nhà toán học người Pháp là Pascal: "Muốn có đức tin thì người ta phải quì gối xuống mà van xin".
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nêu bật tính cách nhưng không ấy của đức tin. Chúa Giêsu đã cảm lạ Thiên Chúa Cha vì đã giấu ẩn không cho những nhà hiền triết và khôn ngoan thông thái biết những chân lý về mầu nhiệm Nước Trời, mà chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn đơn sơ.
Lời cầu nguyện này được Chúa Giêsu thốt lên cho một loạt những thất bại của Ngài lại Bethsaida cũng như một số thành phố khác lại Galilêa, quê hương của Ngài. Cho dẫu Chúa Giêsu đã làm được rất nhiều phép lạ, nhưng nhiều người vẫn không tin Ngài, và một số thì chống đối ra mặt. Điển hình và gay gắt nhất chính là thái độ cứng lòng tin của các luật sĩ và biệt phái, tức là những hạng người được xem là khôn ngoan và trí thức trong dân. Họ dựa vào những hiểu biết uyên thâm của mình để khước từ sứ điệp của Chúa Giêsu.
Vì vậy, chỉ còn lại những dân chài lưới dốt nát được Chúa Giêsu chọn làm môn đệ, chỉ còn lại một số nhỏ những người thất học nghèo hèn bị xã hội đẩy ra bên lề, và Chúa Giêsu gọi họ là những kẻ bé mọn. Họ là những người đã đón nhận tinh thần "Tám Mối Phúc Thật". Họ là những con người nghèo khó, hiền lành và nhất là có tâm hồn trong sạcho Họ là những người có tinh thần trẻ thơ mà Chúa Giêsu đã đề ra: "Nếu các con không giống như trẻ nhỏ thì các con sẽ không được vào Nước Trời".
Thật vậy, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho, nhưng chỉ có những ai biết mở rộng tâm hồn, biết dốc cạn chính mình, biết chối từ những chỗ dựa của trần thế như tiền bạc, danh vọng, quyền bính, chỉ có những ai có tinh thần nghèo khó, đơn sơ như thế mới cảm nhận được đức tin, mới hiểu biết được mầu nhiệm Nước Trời.
Lý luận của đức tin, của luân lý và khoa học: Luận lý của đức tin là luận lý của lình yêu. Trong tình yêu người ta không lý luận, tình yêu không là số thành của một mớ những cộng trừ nhân chia. Tình yêu không là kết luận của một sự lý giải. Tình yêu là trao ban và trao ban nhưng không, trao ban không tính toán, không so đo hơn thiệt.
Kitô giáo chúng ta không chỉ là một hệ thống gồm những điều phải tin và phải giữ. Kitô giáo chúng ta thiết yếu là một con người, con người ấy chính là Chúa Giêsu Kitô. Con người ấy không ngừng mời gọi chúng ta đi vào quan hệ mật thiết với Ngài. Con người ấy không ngừng nói với mỗi người chúng ta: "Hãy đi theo Ta". Đi theo Ngài tứ là tiếp nhận sức sống củaNgài, là mặc lấy tâm tư, suy nghĩ hành động và nhất là cái nhìn của Ngài.
Thánh Phaolô đã diễn tả một cách chính xác cái nhìn ấy của Chúa Giêsu như sau: "Những gì con người cho là yếu nhược thì lại là sức mạnh của Thiên Chúa. Những gì con người cho là ngu dại thì đó lại chính là lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa". Tựu trung đó chính là lý luận và lẽ khôn ngoan của Thập giá. Lý luận và khôn ngoan ấy cũng là lý luận của tình yêu. Bởi vì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một cái chết của tình yêu.
Chúng ta đang tham dự vào mầu nhiệm Thập giá của Chúa Giêsu, khi Ngài đã đoan hứa với chúng ta: "Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức nâng đỡ các ngươi".
Nguyện xin sức sống của Ngài mà chúng ta tiếp nhận trong Thánh lễ mỗi ngày bổ sức cho chúng ta, để chúng ta bước đi theo Ngài và mãi mãi được thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
73.Chú giải và suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Chúa Nhật 14 Thường Niên năm A này trổi lên cung giọng hân hoan. Bài Đọc I và Tin Mừng ca ngợi giá trị cao cả của con người. Bài Đọc II ca mừng cuộc chiến thắng của Thần Khí trên xác thịt, sự sống trên sự chết.
Dcr 9, 9-10
Bài Đọc I, được trích từ sách Da-ca-ri-a, là một lời mời gọi hãy vui lên, được gởi đến dân thành Giê-ru-sa-lem, vì Vua của họ sẽ trở lại viếng thăm họ, cỡi trên một con lừa con: Vua Mê-si-a là một vị vua khiêm tốn và hòa bình.
Rm 8, 9. 11-13
Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô công bố rằng người Ki-tô hữu sống theo Thần Khí thì chiến thắng tính xác thịt và tội lỗi, vì Thần Khí là sự sống và là sự sống lại.
Mt 11, 25-30
Đoạn Tin Mừng Mát-thêu là bài “thánh thi ngợi ca”. Đức Giêsu vui mừng vì Cha Ngài mặc khải những điều bí nhiệm của mình cho những người bé mọn và khiêm hạ.
BÀI ĐỌC I (Dcr 9, 9-10)
Bản văn này được trích dẫn từ phần thứ hai của sách Da-ca-ri-a, nhưng tác giả không phải là ngôn sứ Da-ca-ri-a. Ngôn sứ Da-ca-ri-a thật sự sống vào thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên vào thời kỳ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết (521-515 trước Công Nguyên) sau thời lưu đày Ba-by-lon. Trong khi phần thứ hai của sách mang tên của vị ngôn sứ thì khoảng hai thế kỷ sau đó. Phần này bao gồm từ chương 9 đến chương 14 được gán đúng hơn cho nhiều tác giả dưới danh xưng là Da-ca-ri-a đệ nhị. Tác phẩm hỗn hợp này quy tụ nhiều mảnh văn khác nhau, vô danh và không có niên biểu. Nó được định vị vào thời kỳ giữa truyền thống ngôn sứ biến mất và sự khai sinh các sách khải huyền. Vào lúc đó, người ta đọc lại những tác giả thời quá khứ, giải thích và làm mới lại sứ điệp của họ. Bản văn mà chúng ta đọc thì đầy những hồi ức của I-sai-a, Xô-phô-ni-a, Mi-kha, hai sách Các Vua, vân vân.
Đề tài về Đấng Thiên Sai nối kết những yếu tố rời rạc giữa chúng. Đấng Thiên Sai được tuyên sấm qua ba dung mạo, cả ba dung mạo này đều có âm vang lớn lao mà các tác giả Tin Mừng: 1- dung mạo vị vua thiên sai, khiêm hạ và hòa bình; 2- dung mạo người mục tử nhân lành bị các lãnh tụ của dân Ngài loại bỏ; 3- sau cùng dung mạo của một Đấng Bị Đâm Thâu mầu nhiệm.
Trong phần thứ nhất này, bản văn gợi lên cho chúng ta dung mạo của Vua Thiên Sai:
1. Vua Thiên Sai tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem:
“Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng rao hò!
Vì kìa Đức Vua đến với ngươi” (Dcr 9: 9)
“Thiếu nữ Xi-on” và “thiếu nữ Giê-ru-sa-lem” là hai diễn ngữ Do thái được dùng để chỉ dân cư thành thánh Giê-ru-sa-lem và ngọn đồi Xi-on.
Bài hoan ca, loan báo Vua Thiên Sai ngự đến, được gợi hứng bởi những tiếng hoan hô phụng vụ tán dương vương quyền của Đức Chúa. Các Thánh Vịnh cung cấp nhiều ví dụ như Tv 47: 2:
“Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!
Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy,
là Vua Cả thống trị địa cầu”.
Hay Tv 95: 1-3:
“Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa,
tung hô Người là Núi Đá độ trì ta,
vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ,
cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.
Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả,
là Đại Vương trổi vượt chư thần”.
Ngôn sứ Xô-phô-ni-a cũng đã tán dương các thánh thi phụng vụ này như vậy rồi:
“Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on,
hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi.
….
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa” (Xp 3: 14-15).
2. Ngài là Vua khiêm tốn:
Vị vua tương lai này sẽ là “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Năng”. Tác giả lấy lại những phẩm chất quen thuộc trong truyền thống thuần túy về trào lưu Vua Thiên Sai (x. I s 9: 6; 11: 4; 16: 5; Gr 23: 5; vân vân). Tuy nhiên, danh xưng “Đấng Chính Trực” gợi lên sự thánh thiện của Ngài hơn là phẩm chất của Đấng Thiên Sai Thẩm Phán; còn về danh xưng được dịch “Đấng Toàn Năng”, theo nguyên ngữ có nghĩa “được giải thoát khỏi những thù địch của Ngài”. Tác giả ghi nhận sự toàn năng, vì ông muốn nhấn mạnh một phẩm chất cốt yếu khác của Vua Thiên Sai: đức khiêm tốn.
“Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa hãy còn theo mẹ” (Dcr 9: 9)
Con lừa là con vật mà các vị lãnh tụ thời xưa của dân Ít-ra-en cỡi, sau đó được thay thế bởi con ngựa vì cần thiết cho chiến binh xung trận. Thường dân vẫn cỡi lừa.
Bản văn của Da-ca-ri-a đệ nhị này là bản văn Cựu Ước duy nhất – không kể đến những gợi ý của Người Tôi Trung – trình bày Đấng Thiên Sai ngự đến dưới những đường nét của một nhân vật rất mực khiêm tốn. Sấm ngôn này sẽ được thực hiện bởi Đức Giêsu, Ngài tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên một con lừa con trong tiếng reo mừng hân hoan của đám đông.
3. Ngài là Vua bình an:
“Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ép-ra-im,
và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem;
cung nỏ chiến tranh sẽ bị bẻ gãy” (Dcr 9: 10).
Tác giả muốn nói rằng kỷ nguyên Mê-si-a sẽ là kỷ nguyên của sự thống nhất hai vương quốc. Ngài là Vua đem lại bình an, vì thế, tất cả bộ máy chiến tranh sẽ bị hủy bỏ. Nhiều ngôn từ nhắc nhớ nhiều bản văn Kinh Thánh: ngôn sứ Hô-sê đã loan báo:
“Trong ngày đó, vì dân Ta,
….
Ta sẽ bẻ gãy cung nỏ gươm đao,
chấm dứt chiến tranh trên toàn xứ sở,
và Ta sẽ cho chúng được sống yên hàn” (Hs 2: 20).
Chúng ta cũng đọc thấy tại Mi-kha:
“Ta sẽ cho ngựa của ngươi biến khỏi xứ,
sẽ hủy diệt xe trận của ngươi” (Mk 5: 9).
Hòa bình phải là điều thiện hảo tuyệt mức của thời Thiên Sai. Vua Thiên Sai “sẽ công bố hòa bình cho muôn dân” (Dcr 9: 10). Diễn ngữ này hoàn toàn kinh điển như Is 57: 19: “Bình an! Bình an cho khắp xa gần!” (x. Tv 46 và 72), tức là bình an cho cả dân Do thái (dân ở gần) lẫn muôn dân (dân ở xa). Đó cũng là vai trò của Người Tôi Trung là trở nên ánh sáng muôn dân và đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.
Bất chấp cái mâu thuẫn bên ngoài, Đấng Thiên Sai hòa bình sẽ mở rộng vương quyền của Ngài trên một lãnh địa rộng lớn:
“Người thống trị từ biển này qua biển nọ,
và từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Dcr 9: 10).
Được hiểu sát từ, những lời tiên báo này đặt nền tảng trên những niềm hy vọng của dân Chúa chọn vào sự khôi phục nền quân chủ thời Đấng Thiên Sai. Đây là niềm mơ ước bền bỉ mà Chúa Giêsu sẽ còn gặp phải khi các môn đệ hỏi Ngài sau biến cố Phục Sinh: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1: 6). Nhưng đó không là viễn cảnh của vị ngôn sứ, ông đã để cho hiểu rằng “sự thống trị” của vị vua hòa bình sẽ không thuộc lãnh vực trần thế.
BÀI ĐỌC II (Rm 8, 9. 11-13)
Với một lập luận vững chắc, thánh Phao-lô đã cho thấy rằng Thần Khí đang hoạt động ở nơi biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô, bởi vì Thần Khí là nguồn sống, Ngài bảo đảm cùng một sự sống lại cho con người phải chết của chúng ta, ở đó Ngài thiết lập chỗ ở của Ngài.
Sau khi đã gợi lên sự nghèo nàn về phương diện luân lý của nhân loại dưới quyền lực của tội lỗi, khởi đi từ chương 8 của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô phác họa đời sống mới của người Ki-tô hữu: được Chúa Ki-tô công chính hóa, từ nay họ sống dưới quyền lực của Chúa Thánh Thần.
Trong một phản đề mạnh mẽ, thánh Phao-lô đối lập bản tính yếu đuối và tội lỗi của con người mà thánh nhân gọi “tính xác thịt” với bản tính được ân sủng đổi mới thì sống theo tác động của Thần Khí. Ở đây chúng ta nên lưu ý rằng thánh Phao-lô liên tục nói về Thần Khí của Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Ki-tô trong một phương trình hoàn hảo.
Dưới sức mạnh của Thần Khí này, từ nay chúng ta có thể chiến thắng những sức mạnh của sự dữ, “diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta”. Thần Khí ở trong con người phải chết của chúng ta, chính Ngài thanh tẩy, thánh hóa và thần hóa chúng ta; chính Ngài bảo đảm sự phục sinh của chúng ta.
TIN MỪNG (Mt 11, 25-30)
Lời cầu nguyện tạ ơn này Chúa Giêsu ngỏ lời với Chúa Cha đều được thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca ghi lại. Thánh Lu-ca đặt lời cầu nguyện này vào lúc bảy mươi hai môn đệ hoan hỷ trở về từ sứ mạng của mình, vào lúc đó Chúa Giêsu cùng vui với họ và tạ ơn Cha Ngài về sứ mạng thành công. Lời cầu nguyện này xem ra được đặt vào trong bối cảnh này (Lc 10, 21-22).
Khi trình bày lời cầu nguyện này trong một bối cảnh khác, thánh Mát-thêu cho nó một chiều kích thần học có lẽ sâu xa hơn. Đức Giêsu vừa chịu những thất bại: sự chống đối của những người Pha-ri-sêu càng tăng lên, nhất là trong ba thành phố miền Ga-li-lê: Ca-phác-na-um, Bết-sai-đa và Khơ-ra-din. Chúa Giêsu báo trước án phạt đối với các thành này: chúng sẽ bị triệt hạ.
1. Thánh thi chúc tụng:
Ấy vậy, thay vì cảm thấy sự cay đắng, Chúa Giêsu lại chúc tụng Cha Ngài. Lời cầu nguyện của Ngài theo thể văn xuôi Hy-lạp có vần có điệu, cũng được gọi là “thánh thi chuc tụng”. Nên nghĩ rằng những lời nói của Đức Giêsu, được thốt lên bằng tiếng A-ram, bao gồm một sự cấu trúc tương tự, theo văn phong nói thông thường của người Do thái, ở đó vần điệu giúp cho việc ghi nhớ được dễ dàng.
2. Tán dương “những người bé mọn”:
Chúa Giêsu ngợi khen Cha Ngài vì đã khai lòng mở trí cho “những người bé mọn” hiểu, trong khi lại giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời. Chúa Giêsu chủ yếu nhắm đến những giới kinh sư và nhóm Pha-ri-sêu, họ tự phụ về sự hiểu biết của mình và giam hãm mình vào trong sự khôn ngoan nhân loại. Các ngôn sứ đã loan báo điều này, như I-sai-a:
“Vì thế, Ta sẽ tiếp tục làm cho dân này phải sững sờ kinh ngạc
vì bao nhiêu dấu lạ điềm thiêng.
Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy thất bại,
và trí thông minh của người thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14)
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã ngỏ lời với các kinh sư Giê-ru-sa-lem:
“Những hạng khôn ngoan ấy
sẽ thẹn thùng, run sợ, và sa vào cạm bẫy.
Này, lời Đức Chúa thì chúng khinh miệt,
chúng khôn ngoan nỗi gì?” (Gr 8: 9).
“Những người bé mọn” trước tiên chỉ ra các môn đệ của Chúa Giêsu - sau này Ngài sẽ gọi họ như vậy nhiều lần - nhưng cũng những người khiêm hạ trong đám đông lắng nghe lời Ngài, vì họ không bị bối rối bởi tính tự hào tự phụ về sự hiểu biết của mình.
Chúa Giêsu còn nhiều lần khác sẽ ca ngợi tinh thần trẻ thơ. Chính xác thánh Mát-thêu thuật lại một sự cố có ý nghĩa. Trong khi lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: “Hoan hô con vua Đa-vít”, thì các thượng tế và kinh sư tức tối. Đức Giêsu trích dẫn Tv 8: 2 nói với họ: “Lời này các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21: 14-16).
3. Chúa Cha và Chúa Con:
Qua lời thân thưa này: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất”, Chúa Giêsu không còn có thể khẳng định địa vị Con Thiên Chúa của Ngài rõ ràng hơn nữa.
“Không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha: cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con, và người mà Chúa Con muốn mặc khải cho”. Cung giọng của đoạn văn rất gần với cung giọng của Tin Mừng Gioan, ở đó, thánh Gioan nhắc đi nhắc lại nhiều lần những mối liên hệ mật thiết hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trong sự hiểu biết và tình yêu.
Khi khẳng định: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi”, Chúa Giêsu xem ra nói trước lời khẳng định mà Ngài sẽ công bố sau khi Ngài sống lại: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28: 18). Trong bối cảnh định vị những lời này, chắc hẳn Chúa Giêsu gợi lên công trình cứu độ mà Ngài có sứ mạng thực hiện và nay các môn đệ được mặc khải cho biết. Chúa Giêsu là Đấng Trung Gian duy nhất. Về vấn đề này Tin Mừng Gioan cung cấp sự bổ túc tốt nhất, như “Thật vậy, Chúa Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17: 2).
4. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi”:
Trong Tin Mừng Mát-thêu chứ không Tin Mừng Lu-ca, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu được theo với một bản văn được liệt vào trong số những hạt ngọc Tin Mừng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
Gánh nặng và cái ách là hai hình ảnh rất nổi tiếng của đạo Do Thái để chỉ Lề Luật. Thánh Vịnh 19 công bố rằng:
“Luật Pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19: 8-9).
Nhưng vì phó mặc cho các nhà lãnh đạo Do thái quá chi ly, Lề Luật đã bị chất quá tải với những tuân giữ nặng nề. Luật của Đức Giêsu, Luật yêu thương, mang sức mạnh giải thoát:
“Quả thật, yêu mến Thiên Chúa
là tuân giữ các điều răn của Người.
Mà các điều răn của Người
có nặng nề gì đâu” (1Ga 5: 3).
Khi tuyên bố: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học gương tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”, Chúa Giêsu mượn cách nói của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:
“Hãy dừng lại trên các nẻo đường mà coi,
hãy tìm hiểu những đường xưa lối cũ
cho biết đâu là đường ngay nẻo chính, rồi cứ đó mà đi:
tâm hồn các ngươi sẽ bình an thư thái” (Gr 6: 16).
Đức Giêsu, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, kêu gọi chúng ta trở nên môn đệ Ngài. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất ghi nhận tấm lòng dịu dàng này của Đức Giêsu, cũng như thánh nhân là thánh ký duy nhất trích dẫn bức chân dung Người Tôi Trung của I-sai-a: “Người không lên tiếng giữa phố phường, không đành bẻ gảy cây lau bị giập, chẳng nở tắt đi tim đèn leo lét”, và áp dụng vào Đức Ki-tô (Mt 12: 18).
74.Suy niệm của John Nguyễn
1. Giải thích một vài từ ngữ khó hiểu trong bài Tin Mừng
Đức Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Ngài "đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn". Trong câu Kinh Thánh này, có ba điều ta cần tìm hiểu: (a) "Những bậc khôn ngoan thông thái" là những ai? (b) "Những người bé mọn" là những ai? (c) "Biết những điều này" là biết những gì?
a) "Những bậc khôn ngoan thông thái": Không nên hiểu từ ngữ này theo nghĩa đen. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, nó có nghĩa là những người tự cho mình là khôn ngoan thông thái, là hơn người, là vĩ đại, những người thích tự đề cao mình, thích được coi là quan trọng. Nói chung nó ám chỉ những người coi "cái tôi" của mình quá lớn, muốn "cái tôi" của mình là trung tâm của vũ trụ, được mọi người coi trọng, qui phục, muốn ý kiến và ý muốn của mình được mọi người luôn tôn trọng, chấp hành. Từ khuynh hướng "qui kỷ" ấy, họ dễ trở nên coi thường và khinh chê người khác. Nhiều khi tệ hơn nữa, họ muốn đạp trên đầu trên cổ người khác để tiến lên, sẵn sàng bắt người khác phải hy sinh cho mình.
b) "Những người bé mọn": Từ ngữ này cũng không nên hiểu theo nghĩa đen là những kẻ nghèo, còn nhỏ tuổi, thuộc hạng cùng đinh trong xã hội. Nhiều người tuy nhỏ bé trong xã hội, nhưng lại rất cao ngạo và coi "cái tôi" của mình to lớn không kém gì "nhưng người khôn ngoan thông thái" kể trên. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, "những người bé mọn" ám chỉ những người tự coi mình là nhỏ bé, coi "cái tôi" của mình không là gì cả, không đáng kể, không khao khát được mọi người quan tâm hay chú ý tới mình, không coi ý kiến hay ý riêng mình là quan trọng. Đó là những người sống tinh thần tự hủy theo gương Đức Giêsu (x. Pl 2,6-8), biết "lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình, không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác" (Pl 2,3-4), sẵn sàng chịu thiệt thòi mất mát vì yêu thương tha nhân.
Muốn biết ta thuộc hạng người nào, hãy xét xem phản ứng của ta thế nào khi ta bị xúc phạm, bị chạm tự ái, bị trái ý. Nếu ta tỏ ra bực bội, tức tối, có phản ứng mạnh, đồng thời cảm thấy đau khổ, muốn trả thù, muốn làm to chuyện, đó là dấu chứng ta thuộc hạng người trước, là hạng coi "cái tôi" của mình quá lớn. Trái lại, nếu ta cảm thấy đó là chuyện bình thường, chuyện nhỏ, không làm mình khó chịu, bực tức hay đau khổ, thì ta thuộc hạng người sau.
c) "Biết những điều này" là biết những gì? Chữ "biết" trong Kinh Thánh thường có nghĩa là cảm nghiệm chứ không chỉ là có kiến thức hay hiểu biết xuông. Người ăn trái táo thì có cảm nghiệm về mùi vị của trái táo, khác với người được học hỏi về trái táo một cách tỉ mỉ, khoa học, nhưng chưa hề được cầm trái táo trong tay mà ăn. "Những điều này" trong ngữ cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là những bí nhiệm về Thiên Chúa, về Chân Lý Tối Hậu. "Biết những điều này" là cảm nghiệm về Thiên Chúa, nếm được sự ngọt ngào êm dịu của Thiên Chúa, nhờ đó cảm thấy hạnh phúc, tràn đầy sự sống và sức mạnh của Thiên Chúa.
2. "Những người bé mọn" dễ cảm nghiệm về Thiên Chúa
"Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,8). Vì là tình yêu, nên Ngài sẵn sàng tự hủy, hy sinh, phục vụ, quên mình, vì thế, Ngài mới chính là "Người Bé Mọn" tuyệt hảo nhất, là gương mẫu tuyệt vời cho tất cả "những người bé mọn". Vì "những người bé mọn" của Tin Mừng giống Thiên Chúa ở điểm căn bản này là sự yêu thương, nên họ hiểu Ngài và cảm nghiệm được Ngài dễ dàng hơn ai hết theo định luật "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Chính Ngài cũng dễ dàng tỏ mình ra cho hạng người này nhiều hơn ai hết. Các vị thánh được Thiên Chúa tỏ mình ra đều là những người sống tinh thần yêu thương hay tinh thần "bé mọn" hơn ai hết.
3. Tính chất kỳ diệu và nghịch lý của "cái tôi"
"Cái tôi" là một hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người. Nó chính là bản thân ta, là cái ta yêu quí nhất trên đời. Nhưng vì chúng ta được tạo dựng nên giống Thiên Chúa là tình yêu, nên "cái tôi" ấy chỉ lớn mạnh, chỉ trưởng thành, chỉ đạt được giá trị hoàn hảo khi nó thật sự yêu thương, nghĩa là trở nên tình yêu như Thiên Chúa. Mà yêu thương chính là ra khỏi bản thân để hướng đến và sống cho một đối tượng khác. Điều đó đòi hỏi ta phải quên mình, từ bỏ mình, hy sinh chính mình, để chỉ lo cho hạnh phúc và lợi ích của đối tượng ta yêu. Vì thế, càng tự coi mình là nhỏ bé, là không quan trọng để coi đối tượng mình yêu thương là quan trọng, là lớn lao, thì càng thực hiện được khả năng yêu thương. Và như thế là thực hiện được chính bản thân mình, là làm cho "cái tôi" của mình trở nên cao cả, vĩ đại.
Do đó, có một nghịch lý kỳ diệu: ta càng quên "cái tôi" của mình đi, càng làm nó nhỏ bé lại, thì nó lại càng trở nên có giá trị và cao cả. Ngược lại, càng quan trọng hóa nó, càng tự đề cao nó, càng làm cho nó phình lớn, thì càng làm cho nó kém giá trị, càng làm nó nhỏ bé đi trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Sự nghịch lý này đã được thánh Phan-xi-cô Khó Khăn cảm nghiệm: "Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời" (Kinh Hòa Bình).
Đối với việc cảm nghiệm Thiên Chúa cũng có sự nghịch lý đó. Sự nghịch lý đó được thánh Gio-an Tẩy giả nói đến: "Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi" (Ga 3,30). Nghĩa là muốn Ngài lớn lên ở trong tôi, thì tôi phải nhỏ đi; hay nếu tôi tự làm cho mình nhỏ bé lại thì Ngài sẽ tự động lớn lên trong tôi. Còn nếu tôi làm cho "cái tôi" của mình phình to ra, thì Ngài sẽ tự động nhỏ lại trong tôi. Ngài có lớn lên trong tôi, tôi mới cảm nghiệm được Ngài, mới hiểu được Ngài, mới cảm nhận được những chân lý của Ngài, mới hấp thụ được sự khôn ngoan của Ngài. Đó chính là ý nghĩa của câu: Thiên Chúa "giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn". Thực ra Thiên Chúa chẳng muốn giấu gì về Ngài, nhưng những kẻ coi "cái tôi" của mình quá lớn đã tự bịt mắt mình lại trước những chân lý hay sự khôn ngoan của Thiên Chúa, để chỉ nhìn thấy những "giả lý" hay sự khôn ngoan của thế gian.
4. "Hãy mang lấy ách của tôi", vì "ách tôi êm ái..."
Khi ta coi "cái tôi" của mình là không quan trọng, là thấp kém, ta sẽ cảm thấy mình có vẻ như bị thiệt thòi, bị mất mát đủ thứ, và như bị quàng vào cổ mình một cái ách. Nhưng ách ấy chính là ách của Đức Giêsu, là thứ ách mà chính Ngài đã mang lấy suốt cuộc đời Ngài. Đã là ách thì khi mang vào tất nhiên sẽ cảm thấy nặng và khó chịu. Nhưng không có ách nào nhẹ nhàng và êm ái cho bằng ách của Ngài.
Thật vậy, khi một người coi nhẹ "cái tôi" của mình, không coi nó là quan trọng, tự nhiên người ấy sẽ thấy cuộc sống trở nên rất nhẹ nhàng: vì không cảm thấy bị chạm tự ái, vì không hề tức tối hay đau khổ khi bị xúc phạm, vì sẵn sàng tha thứ không chấp chiếm ai. Nhờ thế, cuộc sống giữa mình với tha nhân không còn vấn đề gì đáng mình phải buồn phiền đau khổ.
Thử đưa ra một trường hợp cụ thể. Giả như có ai đó làm thiệt hại hay xúc phạm đến ta, đó là một sự thiệt hại khách quan, không do ta gây ra. Nếu ta coi "cái tôi" của mình là quan trọng, ta sẽ bực tức buồn phiền và tâm ta sẽ đau khổ. Thế là ta đã tự mình làm cho mình đau khổ và thiệt hại thêm. Nếu ta cứ nghĩ đến chuyện bị xúc phạm đó, ta sẽ đau khổ hoài, và rất có thể vì thế ta tự làm cho mình mắc một chứng bệnh nan y nào đó. Như thế, sự thiệt hại do chính ta tự gây ra cho mình do sự bực tức còn lớn hơn sự thiệt hại ban đầu do người khác gây cho ta. - Nhưng nếu ta không coi "cái tôi" của mình là quan trọng, ta sẽ tha thứ ngay cho người xúc phạm hay làm ta thiệt hại, rồi quên ngay đi. Như thế ta chỉ bị sự thiệt hại ban đầu do người khác gây ra mà thôi. Điều đó khó mà tránh được trong cuộc sống chung với mọi người. Nếu ta coi thật nhẹ "cái tôi", ta sẽ thấy sự xúc phạm hay thiệt hại chẳng đáng kể, tâm hồn ta lập tức được bình an, nhẹ nhàng, vui tươi. Như thế chẳng phải ta đã hành động một cách khôn ngoan hơn rất nhiều sao?
Cách sau chính là cách của Đức Giêsu, là "mang lấy ách" của Ngài. Ách đó là ách êm ái và nhẹ nhàng nhất mà người khôn ngoan tất nhiên sẽ chọn khi đứng trước hai thứ ách: ách của Ngài và ách của chính mình. Không có ách nào làm ta mệt mỏi và nặng nề cho bằng cái ách do chính "cái tôi phình to" của mình tạo ra, nó chính là nguồn gốc phát sinh nên muôn vàn tội lỗi và đau khổ ở trần gian này. Vì thế, Đức Giêsu khuyên ta: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề (vì "cái tôi" của mình), hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi (là cái ách của tình yêu, không có "cái tôi" nặng nề trong ấy), và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường (nghĩa là tính coi nhẹ "cái tôi" của mình). Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng".
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Tình Yêu, xin cho con trở nên tình yêu giống như Cha, để con trở nên hình ảnh trung thực của Cha. Để được như thế, xin cho con biết coi nhẹ "cái tôi" của con, nhờ đó đời sống con trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp và hạnh phúc hơn bội phần. Amen.
75.Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
THIÊN CHÚA MẠC KHẢI CHO NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN
1.- Ngữ cảnh
Vị Tẩy Giả đã sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không?” (Mt 11,3). Các đối thủ của Đức Giêsu thì đã tìm cách hạ giá Người (x. 11,18-19). Còn các thành miền Galilê thì đã không đón nhận sứ điệp của Người (x. 11,21-24). Vậy Người là ai? Tại sao lại phải tuyệt đối lắng nghe Người? Do đâu mà Người có thể đòi buộc như thế? Bản văn chúng ta sắp tìm hiểu sẽ cung cấp câu trả lời.
Đức Giêsu xác định lập trường của Người bằng những khẳng định hết sức đậm đặc và cũng vô cùng căn bản.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (11,25-26);
2) Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (11,27);
3) Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (11,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
- Lạy Cha (25): Trong Tin Mừng Mt, đây là lần đầu tiên Đức Giêsu thưa gửi với Thiên Chúa bằng danh xưng “Cha”, sau khi đã nhiều lần khuyến khích các môn đệ làm như thế (5,16.45.48; 6,1.4.8.14.15 …). Lời thưa này giống như câu đáp cho lời giới thiệu “Đây là Con yêu dấu của Ta” (3,17) mà Đức Giêsu đã nhận khi chịu phép rửa và chính Người sắp nhắc lại lúc này (x. 11,27).
- ngợi khen (25): Động từ Hy Lạp exomologoumai (praise) luôn mang những sắc thái ca ngợi chúc tụng, tôn kính, biết ơn, và hân hoan.
- bậc khôn ngoan thông thái … những người bé mọn (25): Trong ngữ cảnh Mt, “những bậc khôn ngoan thông thái” là các luật sĩ và Pharisêu, còn “những người bé mọn” (theo nghĩa chữ là “các em bé”) là đám đông dân chúng, các môn đệ, những đám thợ thuyền, những kẻ tội lỗi.
- những điều này (25): Đức Giêsu không nói rõ, nhưng dựa vào văn cảnh, có thể cho rằng “những điều này” chính là sứ mạng của Đức Giêsu, tức là mầu nhiệm bản thân Người và các hoạt động của Người.
- điều đẹp ý Cha (26): Đây là ý muốn của Chúa Cha. Ý muốn này chính là kế hoạch cứu độ.
- biết (27): Động từ Hy Lạp epigignôskein (know) dịch động từ Híp-ri yada diễn tả một quan hệ thâm sâu, một sự hiệp thông giữa hai bên; động từ này đồng nghĩa với “yêu mến”.
- trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (27): Sự hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Cha không phải là một vòng tròn khép kín, nhưng mở ra với loài người, vì họ cũng được phép gọi Thiên Chúa là Cha (x. Mt 5,45-48).
- mang gánh nặng nề (28): Ở 23,4, Đức Giêsu trách người Pharisêu đã chất những “gánh” nặng lên vai người ta. Đây là gánh nặng vác không nổi gồm những truyền thống vị luật của các kinh sư, chứ không phải là các thử thách và vất vả của cuộc đời, hay gánh nặng tội lỗi... Truyền thống này cũng dùng công thức “mang ách”: ách của Nước Thiên Chúa, ách Luật Môsê, ách các điều buộc …
- hiền hậu và khiêm nhường (29): Hai từ ngữ này có ý nghĩa tương tự. Đây là Mối Phúc thứ hai. Đức Giêsu lại tự liên kết với những con người sầu khổ của Mối Phúc thứ ba.
- ách tôi êm ái (30): Đức Giêsu cũng đề nghị “ách” của Người, tức là các huấn lệnh của Người. Người không khẳng định rằng các huấn lệnh này ít quan trọng và ít đòi buộc hơn các điều luật của các kinh sư; trái lại Người đã cho thấy là Người đưa chúng đến để hoàn tất Luật cũ, chỉ có điều là con đường Người theo không có chuyện luật lệ chi li giáo điều phức tạp nặng nề của các kinh sư và Pharisêu. Nếu “ách” của Người “êm ái” là vì nó phát xuất từ toàn bộ Tin Mừng, tức là từ những tương quan mới mà Thiên Chúa cứu độ đã thiết lập với loài người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (25-26)
Đức Giêsu đã ngỏ lời với Chúa Cha trong mộtlời cầu nguyện tạ ơn và chúc tụng. Người gọi Thiên Chúa là Cha và Chúa tể trời đất. Người đã mạc khải cho thấy là Cha, vị Thiên Chúa mà lâu nay người ta chỉ biết là Đấng Tạo hóa và Chúa tể toàn thế giới. Thiên Chúa là Đấng mà Đức Giêsu nhận biết là Cha, nhờ tương quan con cái mà Người có với Thiên Chúa. Do ý muốn của Thiên Chúa mà sứ điệp của Đức Giêsu được đón nhận cách khác nhau: những bậc khôn ngoan thông thái thì không hiểu gì, còn những người bé mọn thì hiểu. Phải chăng sứ điệp của Người chỉ được dành cho những em bé hoặc những người đã lớn tuổi mà vẫn còn ấu trĩ và chưa chín chắn? Phải chăng Kitô giáo đi ngược lại với kiến thức và khoa học và khả năng tự quyết của con người? Phải chăng Kitô giáo chỉ phù hợp với tình trạng thiếu khả năng tự cáng đáng bản thân và chỉ hỗ trợ tình trạng lệ thuộc trong cách xử sự? Thật ra, với những con người nghĩ rằng mình hiểu biết mọi sự, Đức Giêsu chẳng có gì để nói với họ cả. Người không thể mạc khải cho họ biết Thiên Chúa là Cha và Chúa tể, bởi vì họ không thể nhận được, vì họ không cần Thiên Chúa. Con người cứ việc tận dụng trí thông minh và tất cả sức lực, và hành động với tự do và trách nhiệm, nhưng cần nhận biết những giới hạn của mình. Nếu chúng ta lương thiện và biết nhìn nhận hoàn cảnh thực sự của mình, chúng ta đang mở ra đón nhận mạc khải của Đức Giêsu. Những người có tinh thần nghèo khó (5,3) là những người bé mọn. Họ sống lệ thuộc Thiên Chúa và quy chiếu về Người, họ nhận biết Người là Chúa tể trời đất và vui hưởng mạc khải bởi vì họ biết ký thác bản thân cho tình yêu và sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
* Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (27)
Trung tâm của bản văn là những khẳng định của Đức Giêsu về tương quan của Người với Thiên Chúa. Giữa Thiên Chúa và Người có một quan hệ duy nhất Cha-Con: Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và Đức Giêsu là Con của Thiên Chúa. Chỉ duy có Thiên Chúa, trong tư cách là Cha, mới biết Đức Giêsu là ai, và chỉ duy Đức Giêsu, trong tư cách là Con, mới biết Thiên Chúa là ai. Hai Đấng hiểu biết lẫn nhau do có sự hiệp thông sâu xa và chan hòa sức sống. Những con người đang phê phán Đức Giêsu với tất cả sự trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng biết rõ Người, nhưng thật ra chẳng biết gì về Người cả. Chúa Cha đã giao phó tất cả, mọi quyền bính và uy quyền trên con người, cho Đức Giêsu. Duy mình Đức Giêsu có thể mạc khải Chúa Cha, giúp người ta thực sự biết Chúa Cha. Vị trí này của Người là do tương quan của Người với Chúa Cha: vì chỉ một mình Người biết Chúa Cha, do thực tại thâm sâu của Người là Con, thì cũng chỉ một mình Người có thể mạc khải Chúa Cha trong thực tại thâm sâu của Người là Cha. Do đó, loài người không thể tránh khỏi đối diện với ý muốn của Thiên Chúa, khi quan hệ với Đức Giêsu.
* Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (28-30)
Đức Giêsu mời gọi tất cả những ai mệt mỏi chán chường và vất vả với những gánh nặng hãy đến với Người. Người ngỏ lời trực tiếp với những người đang nghe Người nói. Họ đang phải “gánh” 613 điều luật buọc mà các kinh sư đã bày ra khi giải thích Cựu Ước (23,4) và họ đang vất vưởng như đàn chiên không có người chăn dắt (x. 9,36). Người hứa ban cho họ được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Phải chăng chúng ta ngạc nhiên và thất vọng vì Người cũng mời chúng ta nhận lấy ách của Người? Từ quan điểm của Đức Giêsu, con người không “tự do” theo kiểu hoàn toàn là mình, không mắc bất cứ ràng buộc nào. Trong tư cách là thọ tạo của Thiên Chúa, do chính bản tính của mình, con người luôn ở trong thế quy chiếu về với Thiên Chúa. Hỏi về sự tự do đích thực đúng ra là hỏi về mối dây ràng buộc đích thực. Chỉ khi chấp nhận được ràng buộc với vị Chúa tể đích thực, người ta mới được tự do thật, thoát khỏi ràng buộc với mọi chủ nhân khác. Vì thật sự biết Thiên Chúa nhờ hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa, Đức Giêsu có thể chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa không phải cách méo mó giới hạn, nhưng trong thực tại đúng đắn của Thiên Chúa. Và Người ra sức dẫn đưa chúng ta về với Chúa Cha, đồng thời khuyến khích chúng ta tin tưởng tuyệt đối nơi Người và ký thác trọn vẹn nơi Người. Nhận lấy ách của Người chính là đón nhận tất cả sứ điệp của Người và sống như Người vẫn sống, đó là hết lòng yêu mến Chúa Cha và dấn thân phục vụ loài người.
+ Kết luận
Đức Giêsu tự giới thiệu là Đấng “hiền hậu và khiêm nhường trong lòng”: các từ ngữ này, chúng ta thấy có trong các Mối Phúc, không hề có nghĩa là những người nhút nhát, rụt rè, nhưng là những người nghèo và bị áp bức, những người đang chịu bất công và không sao đứng dậy được. Đây là những người nghèo mà Đức Giêsu bảo: Hãy nghe tôi, hãy tin tôi, vì tôi ở về phía các bạn, tôi là một người trong các bạn, tôi cũng nghèo và bị loại trừ!
Muốn học được sự khôn ngoan của Nước Trời, thì phải sống nghèo cùng với Đức Giêsu. Điều gây vấp phạm, chính là sự mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người: quyền năng được tỏ bày trong sự yếu đuối…
5.- Gợi ý suy niệm
1. Những kẻ phê phán Đức Giêsu cách trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng là đã biết Đức Giêsu! Thật ra, chỉ có Thiên Chúa mới biết Đức Giêsu trong tư cách là Con, trong sự quy hướng hoàn toàn về Chúa Cha trong tình yêu trọn vẹn.
2. Đọc bản văn này trong liên hệ với đoạn văn cuối cùng của Tin Mừng Mt (28,16-20), chúng ta sẽ thấy tất cả tầm mức sâu xa của các lời khẳng định của Đức Giêsu. Sau khi sống lại, Người chính là Đấng đã được Chúa Cha ban cho toàn quyền trên trời dưới đất. Chính Người hiện diện bên các môn đệ “mọi ngày cho đến tận thế” để nâng đỡ các ông trong nỗ lực chu toàn sứ mạng.
3. Hans Urs von Balthasar, một nhà thần học Thụy Sĩ, đã nói đến một thứ “thần học bàn quỳ”: chúng ta chỉ thật sự hiểu biết về Thiên Chúa không phải nhờ cứ khăng khăng dùng trí tuệ mà tìm tòi suy luận, nhưng nhờ biết quỳ xuống nhận biết quyền năng của Người trên chúng ta. Thánh Anselmô cũng nói: “Tôi tin để tôi có thể hiểu được Thiên Chúa”.
4. Thiên Chúa đã ban toàn quyền cho Đức Giêsu; do đó, trong khi hành động, loài người luôn phải đặt mình đối diện với ý muốn của Thiên Chúa về định mệnh của mình. Muốn cuộc đời mình đi đúng hướng, loài người phải quan tâm đến ý muốn này.
5. Chúng ta sẽ cảm thấy sứ điệp của Đức Giêsu về Chúa Cha và về ý muốn của Chúa Cha trở nên như một “cái ách”, khi các ước muốn, các tâm trạng và các ý tưởng của chúng ta đi ngược lại với sứ điệp ấy. Như thánh Âu-tinh đã nói: “Trái tim chúng con vẫn còn bồn chồn bất an, cho đến khi nó được nghỉ yên trong Chúa”, chúng ta chỉ được yên hàn, thanh thản, khi sống trong tình hiệp thông với Thiên Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam