Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 66
Tổng truy cập: 1362795
HÃY SỐNG YÊU THƯƠNG VÀ NÊN TRỌN LÀNH
HÃY SỐNG YÊU THƯƠNG VÀ NÊN TRỌN LÀNH
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Kết thúc "Bài giảng trên núi", căn tính của người kitô hữu là muối là ánh sáng được Chúa Giêsu tiếp tục mạc khải cho khi dạy chúng ta về thái độ cần phải có cũng như thực hành trong đời sống: "Các con đã nghe bảo... Còn Thầy, Thầy bảo các con ". Vậy nghe bảo gì, và Chúa Giêsu bảo các môn đệ mình ra làm sao?
Khi Chúa Giêsu khi trích dẫn câu nói của người xưa về luật công bằng khi trả thù đã được ghi rõ trong Cựu Ước "Mắt đền mắt, răng đền răng " (Xh 21,24). Chúng ta phải thừa nhận rằng, đây là một bước tiến lớn trong tương quan hành xử giữa người với người so với thời Lamek, bởi Lamek đã từng nói với hai vợ: "Vì một vết thương, ta giết một người, (Ta) trầy da, một nam nhi toi mạng. Vì Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy!" (St 4,23-24) Vậy là trả thù mãi mãi. Luật "Mắt đền mắt, răng đền răng" (Xh 21,24) giúp con người khỏi rơi vào tình trạng thái quá. Trái lại, Luật của tình yêu phủ nhận sự đồng nhất với kẻ thù: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác" (Mt 5, 39).
Theo Chúa Giêsu, yêu thương là vượt ra khỏi vòng tròn luẩn quẩn của cái ác và sống tình huynh đệ đại đồng, nên khi Ngài bảo chúng ta "đưa má bên kia cho nó nữa," là Ngài muốn chúng ta xây đắp tình hiệp thông anh em. Đưa má bên kia là cố tình giúp đối phương khám phá ra tình yêu và rằng thực hành bác ái là điều có thế. Đưa má bên kia còn muốn nói với kẻ ác rằng nó đã nhận được người anh em như nó là anh em. Một hành động đáng tin cậy như thế sẽ phá tan bạo lực.
Chúa Giêsu yêu cầu gia tăng thêm tình yêu và lòng tha thứ càng nhiều càng tốt! Vì tình yêu có sức mạnh giúp đối phương xích lại gần ta hơn bằng tình người. Như thế, bằng cách trao ban, chúng ta nhận nó là anh em.
Cho nó cả áo choàng, đi với nó hai dặm không phải một mà áp đặt, nhưng chứng minh con người luôn có sáng kiến về tình yêu. Vì đó là điều đẹp lòng Chúa, nên chúng ta từ bỏ điều có đi có lại và chủ động xây đắp tình sự hiệp thông trong tình yêu. "Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ". (Mt 5, 44)
Tình yêu phải được thực hiện theo châm ngôn: "Hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con" (Mt 5, 44). Chúa Giêsu không chỉ lên án một hệ thống dùng bạo lực để trả thù cho cân, Ngài còn muốn chúng ta hủy bỏ luật ăn miếng trả miếng xưa. Tình yêu không gia tăng theo kiểu có đi có lại - người ngươi yêu mến là một người anh em ngươi, một người ngươi yêu mến là người bạn ngươi. Tình yêu là quà tặng, nhưng không dựa trên sự khác biệt tối thiểu. Sự khác biệt của tình yêu là không giống nhau, là người khác chứ không phải là người họ hàng, nhưng là người chúng ta cảm thấy gần. Như Chúa Giêsu đã nói: đó là người thân cận của ngươi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không bác bỏ sự phân biệt của chúng ta. Người khác không phải luôn là một người bạn, nó có thể trở thành kẻ thù. Điều quan trọng là tất cả mọi người là anh em với nhau. Chúng ta có kẻ thù, đó là một thực tế.
Thật phù hợp để người kitô hữu khẳng định căn tính là con Thiên Chúa của mình khi thực hành lời Chúa Giêsu dạy để trở nên con cái Cha các con ở trên trời. Giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu để lại mạc khải rõ về hồng ân yêu thương. Là con cái Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương ngay cả kẻ thù kẻ muốn cắt đứt tương quan là con Thiên Chúa và anh em với ta. Luật ăn miếng trả miếng không còn tồn tại. Chỉ có tình yêu mới biến đổi được hận thù, tình yêu làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa và thể hiện chức phận là con đối với Người.
Như thế, chúng ta đi đến cùng lời Chúa Giêsu dạy về thánh ý Thiên Chúa trong đời sống: "Các ngươi hãy thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh" (Lv 19,1). Bằng những lời này, Thiên Chúa mời gọi dân Israel và cả chúng ta ngày hôm nay thể hiện lòng trung thành với giao ước Thiên Chúa đã thiết lập, đồng thời đặt luật lệ xã hội trên giới răn "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình" (Lv 19,18). Nếu chúng ta sống lời dạy Chúa Giêsu, chúng ta lại tìm thấy lời mời gọi trên đây với cùng một mức độ mãnh liệt, Ngài nói: "Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5,48).
Nhưng ai có thể nên trọn lành? Sống trọn lành là thi hành thánh ý Chúa trong tư cách là con. Thánh Xip-ri-a-no từng viết: "Cách hành xử của con cái Thiên Chúa phải tương hợp với tình phụ tử của Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa được tôn vinh và ca tụng từ những việc tốt lành của con người" (De zelo et livore, 15: CCL 3a, 83). Như thế, con người có thể trở nên trọn lành khi sống tròn đầy cương vị làm con cái Thiên Chúa. Chúa Cha làm khác chúng ta là những người bỏ người này chọn người kia. Chúa Cha làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Chúa Cha quan tâm đến cả hai, người lành cũng như kẻ dữ; con cái Thiên Chúa cũng phải trở nên trọn lành "như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành"(Mt 5, 48).
Xem ra có thể khó, những Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta trước khi nói: "Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5, 44-45). Ai đón nhận Thiên Chúa trong đời sống mình và yêu mến Người hết lòng, người ấy có khả năng bắt đầu một chặng đường mới, có thể chu toàn thánh ý Thiên Chúa hầu hiện thực hoá một hiện hữu mới được nuôi sống bởi tình yêu và hướng đến sự vĩnh cửu. Tình yêu là điều vĩ đại, chúng ta đọc thấy trong sách Gương Chúa Giêsu, một điều tốt làm nhẹ đi những nặng nhọc và nâng đỡ những điều khó khăn. Tình yêu thôi thúc ta hướng lên cao mà không còn bị vướng bận vào bất cứ điều gì thuộc trần thế.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp chúng con luôn sống xứng đáng là con Cha trên Trời. Amen.
51.Tuân giữ luật Chúa với lòng mến Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Thiên Chúa ban cho con người sự sống và sự chết, con người có quyền lựa chọn thích thứ nào thì được thứ ấy" (Hc 15, 17). Lời trên là một minh họa cụ thể cho Cây biết biết lành biết dữ và Cây Sự Sống trong sách Sáng Thế (x. St 2 ##, 9). Chúng ta không "quyết định" chọn cái ác, tội lỗi là điều không thể tránh khỏi, nhưng dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta được mời phân biệt sự lành và sự dữ cách tự do nhờ sức mạnh Người đã trao ban: "Nếu ngươi muốn tuân giữ các giới răn: việc trung thành giữ các giới răn là tuỳ ở ngươi" Đây là tin mừng do Đức Khôn Ngoan công bố, Đức Giêsu thực hiện, Người chết cho tội lỗi và sống lại trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Khi tội lỗi bị bẻ gẫy, sự chết bị đập tan, Thiên Chúa ban lại cho chúng ta ơn gọi làm con cái Chúa, đồng thừa tự với Chúa Giêsu (x. 2 Pr 1, 4). Đó là kế hoạch khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đối với loài người " sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa vẫn được giấu kín, mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn thuở để làm nên sự hiển vinh của chúng tôi… Thiên Chúa đã mạc khải điều đó cho chúng tôi do Thánh Thần của Người " (x. 1 Cr 2, 6-10).
Vì thế, nếu sự thật về thân phận con người là sống kết hiệp với Đức Giêsu và hiệp nhất với Ngài trong đức tin, tình yêu và lòng mến là con đường duy nhất dẫn đến Cây Sự Sống, phục hồi phẩm giá làm con Thiên Chúa và mở ra cho chúng ta tình huynh đệ phổ quát. Thì Đức Giêsu đến "kiện toàn Lề Luật và lời các Ngôn Sứ”, với mục đích soi đường chỉ lối cho chúng ta về với Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu và là Cha chúng ta nhờ sự vâng phục Lời Ngài. Tuy nhiên, sự khôn ngoan đầy nhiệm mầu của Thiên Chúa, khác với "sự khôn ngoan của thế gian" (x. 1 Cr 2, 6), như Thánh Phaolô nói với chúng ta.
Khi con người cố gắng bằng mọi cách để bảo vệ "quyền lợi" cá nhân trong công lý, nhưng dưới cái nhìn của Đức Giêsu là chưa đủ: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu" (Mt 5, 20). Vậy thế nào là công chính hơn các luật sĩ và biệt phái?
Đức Giêsu giải thích qua một loạt các phản đề giữa các giới răn cũ và kiểu Ngài đề nghị. Mỗi lần bắt đầu: "Các con đã nghe người xưa nói rằng... ", rồi Ngài khẳng định: "Còn Thầy, thầy bảo các con... ". Chẳng hạn: "Các con đã nghe người xưa nói rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy Thầy bảo các con: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra tòa" (x. Mt 5,21-22). Và sáu lần như vậy. Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý định thêm các điều răn, nhưng Ngài tuyên bố cần phải có bước nhảy về chất lượng, Ngài chứng tỏ Ngài chu toàn các giới răn với tình yêu của Chúa Cha, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở trong Ngài. Đến lượt chúng ta, với niềm tin nơi Ngài, để Chúa Thánh Thần hoạt động, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta sống tình yêu của Thiên Chúa. Vì thế, mỗi điều răn trở thành thật sự như đòi buộc của tình yêu, vì tất cả các giới răn đều tóm về hai điều này là: trước kính Đức Chúa Trời hết lòng hết sức, và sau là yêu người như mình ta vậy. Như Thánh Phaolô quả quyết: "Yêu thương là chu toàn Lề Luật" (Rm 13,10).
Đức Giêsu tiếp tục mời gọi chúng ta dứt bỏ tận căn: "Nếu con mắt phải của con nên dịp tội cho con, thì hãy móc nó mà ném xa con; vì thà mất một chi thể còn lợi hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con nên dịp tội cho con, thì hãy chặt mà ném nó xa con; vì thà mất một chi thể còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục" (Mt 5,29-30). Hình ảnh thân thể người kitô hữu bị cắt xén cho thấy cuộc chiến khốc liệt này và báo trước những gì không phù hợp với sủng. Chỉ có Thần Khí mới có thể giúp chúng ta thực hiện việc hoán cải và lựa chọn dứt khoát, cứu mạng sống ta và ném xa ta những gì ngăn cản ta với Thiên Chúa, thậm trí tách ra khỏi chính thân mình như con mắt chẳng hạn. Liệu chúng ta có thể cân nhắc chọn lựa giữa ngọc trai quý hiếm với kho bạc duy nhất là Sự Sống đời đời không?
Thánh Phaolô nói: "lòng người cũng chưa từng mơ ước tới, đó là tất cả những điều Thiên Chúa đã làm cho những ai yêu mến Người" (1 Cr 2, 10). Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta vượt qua quán tính của con người cũ, và sống trong tình yêu, nếu chúng ta tin kính Chúa, "Chúa nhìn đến những kẻ kính sợ Người, và thấu suốt mọi hành động của con người" (Hc 15, 19); "Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng" (Lời nguyện nhập lễ).
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hoán cải tận căn, chúng ta là con một Cha trên Trời và là anh em với nhau. Chúng ta không đứng trước bàn thờ Chúa một mình, nhưng cùng anh em dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Vì vậy, Cha trên Trời làm sao vui mừng được, khi con cái dâng lễ vật mà đang chia rẽ nhau? Đó là lý do tại sao Đức Giêsu bảo: "khi ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với ngươi, thì ngươi hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ngươi trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ" (Mt 5,23-24). Ai trong chúng ta là xứng đáng với lời đề nghị trên?
Lời Chúa Giêsu gửi đến mỗi người trong chúng ta, không có chuyện cắt chân cắt tay, hay là móc mắt, nhưng là cam kết dấn thân trong tình bác ái. Với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể vứt bỏ hay ném xa những gì đe dọa chúng ta kết hợp với Chúa và tha nhân, chọn Chúa làm gia nghiệp của đời ta. Amen.
52.Thứ bậc các giá trị theo Đức Giêsu.
(Chú giải của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta đang ở trong Bài Giảng trên núi (Bài diễn từ thứ nhất của Tin Mừng Mt). Hôm nay, chúng ta đi vào Phân đoạn chính, có thể gọi bằng nhan đề “Sự công chính của Nước Trời hay là Sống như con cái của Chúa Cha” (5,17–7,12). Riêng bản văn được đọc hôm nay (5,17-37) thuộc về phần đầu của phân đoạn này, mộtphân đoạn được các nhà chú giải mệnh danh là “Đức công chính dồi dào” (5,20-48). Bản văn nói đến bốn cặp đối nghĩa (trong số sáu cặp đối nghĩa: 5,20-48).
Phần này như đang ngầm trả lời một số câu hỏi: Những việc tốt nào phải rạng sáng lên nơi các môn đệ Đức Giêsu? Qua những việc tốt lành này, cách thức hiện hữu nào của Cha trên trời được người ta biết đến?
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu mạc khải ý muốn của Thiên Chúa (5,17-20);
2) Đức Giêsu dạy về cách cư xử với người thân cận (5,21-48)
a) Các hành động trực tiếp làm cho người thân cận (5,21-37):
- các xung đột với người thân cận (5,21-26),
- cách cư xử đối với phụ nữ (5,27-32),
- tương quan với sự thật (5,33-37),
b) Các phản ứng trước cách cư xử của người khác (5,38-48).
Bản văn dùng trong Phụng vụ hôm nay không đọc đoạn 2.b).
3.- Vài điểm chú giải
- Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ (17): Đây là cách người Do Thái gọi bộ Kinh Thánh của họ (tức Cựu Ước theo quan điểm Kitô giáo). Xem 7,12; 11,13; 22,40.
- kiện toàn (17): Khi nói về mộtlời nói hay mộtlời loan báo, plêroô có nghĩa là “hiện tại hóa”; khi nói về mộtlệnh truyền, plêroô có nghĩa là “thi hành”. Mt dùng động từ này (plêroô / plêrôsai) 16 lần, mà có 12 lần là để đưa vào các câu trích Kinh Thánh. Các đoạn văn Kinh Thánh ấy được coi như được hiện tại hóa trong biến cố Giêsu, vì biến cố này vén mở cho thấy mộtý nghĩa mới của bản văn. Đức Giêsu khẳng định rằng Người hoàn tất Kinh Thánh, có nghĩa là Người đưa Kinh Thánh dến chỗ hoàn chỉnh, đạt ý nghĩa trọn vẹn. Người thực hiện Kinh Thánh không phải bằng cách “thi hành” những khoản luật sát mặt chữ, nhưng bằng cách vượt quá Kinh Thánh, đưa lại cho Kinh Thánh mộtý nghĩa mới (x. cc. 20-48). Như thế, câu 17 khẳng định có sự tiếp nối sâu xa từ Cựu Ước sang Tân Ước, đồng thời cho thấy Tân Ước vượt quá những giới hạn và những bất toàn của Cựu Ước.
- một chấm một phết (18): dịch sát là “không mộtchữ i hoặc mộtcái sừng”, tức là con chữ yod trong bảng chữ cái Híp-ri. Đây là con chữ nhỏ nhất.
- ai bỏ … ai dạy … ai tuân hành (19): Câu này khiến ta có thể giả thiết là trong Hội Thánh sơ khai có nhiều khuynh hướng hoặc phong trào thiêng liêng liên hệ đến việc tuân giữ Luật mới.
- không ăn ở công chính hơn các kinh sư (20): dịch sát là “sự công chính của anh em không dồi dào/vượt (perisseuein) hơn (pleion, “more”) các kinh sư.
- ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp (32): “ngoại trừ trường hợp porneia” (x. 19,9). Có hai cách giải thích từ porneia này: (1) Đây là những nố hôn nhân bất hợp pháp, chẳng hạn do họ máu, mà Luật Môsê cấm (Lv 18,6-18). Các kinh sư gọi các hôn nhân này là zơnouth, Bản LXX dịch là porneia. Bởi vì các hôn nhân loại này không thành pháp, nên hai người phối ngẫu phải rời xa nhau. Đây là cách giải thích của giới Công giáo. Nhưng có những tác giả cho rằng có thể áp dụng nghĩa ấy cho Cv 15,20, chứ ở trong Mt thì không có gì chắc chắn cả. (2) Hiểu porneia theo nghĩa thông thường là sự hư đốn về tính dục, tức ngoại tình (moikeia). Đây là cách giải thích của Tin Lành và Chính Thống, và mộtsố tác giả Công giáo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu mạc khải ý muốn của Thiên Chúa (17-20)
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa cho biết ý muốn của Ngài qua Luật và các ngôn sứ: những gì chính Ngài muốn thực hiện (sấm ngôn và lời hứa: x. 11,13) và những gì loài người phải làm (Luật). Đức Giêsu tuyên bố rằng ý nghĩa của việc Người ngự đến, của tư cách của Người là Đấng được Thiên Chúa cử đến, là đưa Luật và các ngôn sứ, mạc khải về ý muốn của Thiên Chúa, đến chỗ hoàn tất. Không có gì trong Luật và các ngôn sứ lại bị triệt tiêu và loại bỏ, mà cũng chẳng phải chỉ được xác nhận trong hình thức cũ. Đức Giêsu đưa đến sự hoàn tất; nơi Người, Thiên Chúa thực hiện lời Ngài đã hứa (x. 1 ,22t; 2,15…). Như thế, Đức Giêsu chính là Nhà Lâp pháp đích thật mà Thiên Chúa đã cử đến cho loài người mọi thời; so với Người, Môsê chỉ là người tiền hô thôi. Qua Người, Thiên Chúa cho thấy cách vĩnh viễn họ phải sống như thế nào. Lề Luật chưa được kiện toàn không phải vì nó không diễn tả ý muốn của Thiên Chúa, nhưng vì diễn tả cách bất toàn hoặc cách không thích đáng.
Điều Ngài đã yêu cầu qua Luật và các ngôn sứ được gom lại thành điều này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (7,12), và có thể được tóm lại trong điều răn yêu mên Thiên Chúa và yêu thương người thân cận (22,37-40). Đức Giêsu nêu bật rằng, trước mọi sự, Thiên Chúa muốn lòng từ bi thương xót (9,13; 12,7). Với các “cặp đối nghĩa” (5,21-48), câu “Còn Thầy, Thầy bảo anh em” được nhắc lại 6 lần (5,22.28.32.34.39.41), qua đó Đức Giêsu nói với uy quyền của Thiên Chúa, để giải thích đâu là lối cư xử phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ngài muốn họ phải sống mộtsự công chính “dồi dào” hơn các kinh sư và người Pharisêu (5,20).
Vì Đức Giêsu là Đấng truyền đạt vĩnh viễn ý muốn của Chúa Cha, ta không thể không cần đến Người. Cuộc sống cá nhân phải hình thành từ các giáo huấn của Người. Ta thuộc về Nước Trời hay không là tùy ta tuân giữ sự công chính Người đã dạy hay không.
* Đức Giêsu dạy về cách cư xử với người thân cận (21-37)
Trong các giáo huấn, Đức Giêsu quan tâm đặc biệt tới ba đề tài: các xung đột với người thân cận, cách cư xử đối với phụ nữ, tương quan với sự thật. Cứ mỗi lần, Người lại đặt giáo huấn của Người đối lập với giáo huấn của Cựu Ước. Các luận điểm Người đưa ra phải được hiểu như làm mẫu, chứ không phải là những trình bày rốt ráo về các đề tài.
Đoạn 5,21-26 liên hệ đến việc thắng vượt các xung đột. Chỉ đến c. 26, ta mới biết đây là thứ xung đột gì: mộtchủ nợ không kiên nhẫn được nữa, đã muốn đưa con nợ ra tòa để ép người ấy trả nợ. Loại xung đột này là điển hình cho mọi thứ căng thẳng và cho các lối xử sự phát xuất từ đó. Theo cách triệt để nhất, người ta giải quyết mộtxung đột bằng cách loại trừ người kia. Cựu Ước đã kết án cách xử sự này bằng lệnh cấm: “Không được giết người”. Cách giải quyết xung đột kiểu này là sai; để chứng tỏ như thế, luật pháp đã quy định hình phạt xử tử. Nhưng có những hình thức xử sự khác khi có xung đột: nổi giận, thù hằn sâu sắc và sỉ nhục, tấn công hay đả thương bằng lời nói. Đức Giêsu kết án cả các kiểu cư xử này. Phải tránh không những hành vi xấu xa, mà cả sự xấu xa trong tim và những lời nói xấu xa. Đừng để xung đột đẩy tình yêu ra khỏi con tim, đầu độc con tim, hoặc đưa đến chỗ đầu độc cộng đoàn bằng những lời độc địa. Đức Giêsu nhắc đến các tòa án để cảnh giác; Người nhắc theo thứ tự tăng dần: từ tòa án địa phương, đến tòa án cao nhất ở trần gian (Thượng Hội Đồng), và cuối cùng là tòa án của Thiên Chúa. Ở đây Đức Giêsu không hề muốn công bố mộtquy định pháp lý phải theo sát mặt chữ: trong trường hợp nổi giận thì phải theo cách này mà tính; trong trường hợp chửi bới thì phải theo cách kia… Người muốn nói rằng sự thiếu sót đối với người thân cận và giải pháp sai lầm người ta lấy trong các xung đột không chỉ bắt đầu với việc giết người, nhưng bắt đầu trước đó. Người muốn nói người ta phải ra sức tránh không những hành vi xấu xa, mà cả trái tim xấu xa và lời nói xấu xa. Người cũng muốn nói rằng các xung đột và căng thẳng không làm suy yếu tình yêu đối với người thân cận ở bất cứ mức độ nào và bất cứ cách nào.
Phải chứng tỏ tình yêu này không những trong việc ngăn cản sự dữ, mà còn trong việc tích cực tìm hòa giải. Người vừa nói đến việc tránh để cho các xung đột kịch phát. Bây giờ bằng các ví dụ (5,23-25), Đức Giêsu trình bày hình thức tích cực nên theo để vượt qua các xung độ, đó là sự hòa giải, và Người nêu bật ý nghĩa của việc hòa giải. Để hòa giải, Người nói thậm chí phải ngưng dâng lễ vật, điều này cho thấy tầm quan trọng, tính ưu tiên của việc hòa giải. Nếu người ta phải nhắm hòa giải cho được trong khi đi đường tiến về tòa án, điều này cho thấy hòa giải là chuyện cấp bách và cần thiết, và bõ công để người ta ra sức đạt cho được. Tiến trình mà Đức Giêsu đề nghị để thắng vượt các xung đột là tiến trình của tình yêu và hòa giải. Dĩ nhiên, để hòa giải được, cần phải có hai hoặc nhiều người, và không phải chỉ cần mộtbên đồng ý là được: nó giả thiết có sự sẵn sàng của cả bên kia. Mỗi bên phải ra sức làm tối đa để đạt được sự hòa giải. Phần nói về đức công chính mới chính là mộttiếng gọi duy nhất thúc bách người ta đi tới hòa giải và tình bằng hữu với người thân cận.
Đoạn văn tiếp theo nói đến cách cư xử đối với phụ nữ, đối với vợ người khác (cc. 27-30) và với vợ của mình (cc. 31-32). Quyền lực chung quyết trong lãnh vực này không thể nào lại là những sức mạnh tự nhiên và bộc phát của ham muốn và khoái lạc tính dục. Cựu Ước đã đặt ra mộtgiới hạn rõ ràng cho các sức mạnh này, khi cấm ngoại tình. Theo Lv 20,10, tội ngoại tình sẽ bị xử tử. Cùng với sự sống của người thân cận, người ta cũng phải tôn trọng vô điều kiện sự hiệp thông sự sống người đó có với vợ họ. Và cũng như đối với sự sống của người thân cận, ở đây Đức Giêsu cũng đặt mộtgiới hạn thật ra đã có từ trước và yêu cầu mộtsự tôn trọng sâu xa hơn nữa. Sự tôn trọng này phải có không những trong hành động mà cả trong ước muốn. Đức Giêsu cũng đang xác định mộtthứ bậc rõ ràng các giá trị. Nếu trước đây, Người đã nói rõ là sự giận dữ, chua cay, lời nói thâm độc… phải luôn luôn nhường bước cho sự hòa giải và hiệp thông huynh đệ với người thân cận, thì bây giờ Người tuyên bố rằng không những thú vui tính dục, mà cả các ước muốn tính dục cũng cần được chế ngự, nghĩa là vùng hiệp thông sự sống của người khác không được vi phạm bất cứ cách nào.
Lời khuyến khích thà móc mắt phải và chặt tay phải cho thấy giá trị này quan trọng đến đâu. Dĩ nhiên, không được hiểu các lời này sát mặt chữ: bởi vì không phải là con mắt phạm tội, nhưng là con người với ý ngông và ý chí của mình! Đức Giêsu muốn nói rằng chúng ta không được bỏ mặc các giác quan của chúng ta cho chúng, nhưng phải hướng dẫn cách sử dụng chúng cho có trách nhiệm. Người cho thấy rằng bảo vệ được các giá trị ấy không phải là chuyện dễ, có khi phải chấp nhận những can thiệp sâu xa và từ bỏ đau đớn. Nhưng điều này rất quan trọng: chỉ khi ta tôn trọng sự hiệp thông sự sống của người khác, Thiên Chúa mới nhìn nhận chúng ta trong ngày phán xét.
Liên hệ đến cách cư xử với vợ người khác và tôn trọng sự hiệp thông sự sống của người khác, có việc cư xử đối với vợ của chính mình và đối với sự hiệp thông sự sống với vợ mình. Trong Cựu Ước, có quy định là người ta có thể ly dị vợ, nhưng phải có chứng thư ly dị, để chứng tỏ rằng người phụ nữ đã có mộttư cách dân sự mới, không còn là người kết hôn nữa. Ở đây Đức Giêsu cũng xác định một thứ bậc mới cho các giá trị. Sự hiệp thông sự sống với vợ mình là mộtđiều thiện hảo không thể chuyển nhượng; người chồng phải bảo vệ, duy trì và vun đắp sự hiệp thông ấy. Người chồng không được rẫy vợ mình: tương ứng với sự tôn trọng tuyệt đối sự hiệp thông sự sống của người khác là sự bảo vể tuyệt đối sự hiệp thông sự sống với vợ mình. Dưới ánh sáng của lệnh cấm rõ ràng không được ly dị do Đức Giêsu công bố theo Mc 10,11t; Lc 16,18; 1 Cr 7,10t, câu thêm “ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp” không thể hiểu là mộtngoại lệ. Đức Giêsu không muốn nói: anh em không được rẫy vợ anh em trong bất cứ trường hợp nào, ngoại trừ trong trường hợp ngoại tình. Chữ “hôn nhân bất hợp pháp” ở đây rất có thể có nghĩa là những dây hôn bất hợp pháp do mộtquan hệ họ hàng rất gần (Lv 18,6-18; x. Cv 15,29; 1 Cr 5,1). Giải gỡ những dây liên kết này không phải là vi phạm lệnh cấm ly dị.
Đề tài thứ ba liên hệ đến sự thật (5,33-37). Trong lãnh vực này, vấn đề phát sinh do sự kiện là mỗi người lệ thuộc những khẳng định của người thân cận, và đồng thời, chúng ta là những con người, chúng ta không trong suốt với nhau. Cá nhân không thể tự mình biết tất cả những gì là quan trọng đối với mình hoặc biết bằng sức riêng của mình; người ấy lệ thuộc những khẳng định và lời hứa của người thân cận. Tuy nhiên những khẳng định này có thể không tương hợp với các sự kiện và khác nhau trong vô vàn sắc thái. Lời nói và mọi hình thái truyền thông có thể được sử dụng không những để truyền tải sự thật, mà còn để lừa dối. Sự thiệt hại cho người thân cận do những lời dối trá, lừa đảo và không giữ lời hứa là không thể tiên liệu và trầm trọng. Để ngăn chặn được thiệt hại này, người ta thề. Nhưng bởi vì ở đây cũng lại có thể phát sinh vấn đề dối trá, mới có lệnh cấm nghiêm khắc không được thề gian. Qua việc thề, người ta muốn diễn tả là chính Thiên Chúa, là Đấng tuyệt đối chân thật và chắc chắn không lừa dối,c ó thể làm chứng cho sự thật của lời khẳng định của chúng ta hoặc sự khả tín của lời chúng ta hứa; do đó người ta có thể tín nhiệm. Đồng thời ai nại dến Thiên Chúa để làm chứng cách dối trá, thì bị phạt. Việc nại đến Thiên Chúa phải khiến người ta nói sự thật và điều này khiến ta có thể tin tưởng những ai lệ thuộc những khẳng định này.
Ngược lại, Đức Giêsu bảo “hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không"” (x. Gc 5,12); Người yêu cầu mộtdây liên kết vững bền và trực tiếp với sự thật, không cần nại đến bất cứ hình thái lời thề nào. Thiên Chúa không có việc gì mà phải đóng vai làm chứng và càng không đóng vai người hù dọa kẻ khác bằng hình phạt. Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối chân thật và tuyệt đối xứng đáng với niềm tin của ta, tỏ mình ra như là điển hình cho chúng ta (x. 5,48). Nơi chúng ta, không được có sự khác biệt giữa những gì đang có trong thâm tâm ta dưới dạng kiến thức, ý kiến, ý hướng… và những gì chúng ta tỏ ra bên ngoài. Như thế ta công nhận sự thật, và người thân cận tránh khỏi thiệt hại.
+ Kết luận
Bằng uy quyền đầy đủ của Người, Đức Giêsu không áp đặt những luật võ đoán, nhưng cho thấy mộtthứ bậc mới các giá trị. Mỗi khuynh hướng ích kỷ duới dạng hiềm khích hoặc không chấp nhận giao hòa, dạng các ước muốn tính dục, tìm kiếm lợi lộc cá nhân qua việc lừa dối, đều phải biến mất. Mỗi cung cách xử sự phải phục vụ tình huynh đệ với người thân cận, phục vự sự hiệp thông sự sống, quan tâm bảo vệ sự thật. Một cung cách xử sự như thế coi người thân cận là anh em và chị em và thật sự đưa họ về với Cha chung.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đọc bản văn này, chúng ta nhận ra Đức Giêsu khẳng định tư cách tối cao của Người, Người là Thiên Chúa. Người có quyền trên “Luật dạy người xưa”, tức chính Cựu Ước, bởi vì Luật đó là bản văn Thiên Chúa dùng trung gian con người mà viết ra, còn Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời, trực tiếp đến dạy dỗ loài người. Chúng ta có thực sự sẵn sàng đón tiếp Người chăng?
2. Những gì Đức Giêsu đã nói không được hiểu như là mộtdanh mục đầy đủ các quy định, càng không phải là một luật phải theo sát mặt chữ. Chẳng hạn, Người chỉ nói đến cách cư xử của phái nam đối với phái nữ, chứ không nói đến cách cư xử của phái nữ đối với phái nam; điều này không có nghĩa là phái nữ không có thiếu sót gì trong lãnh vực này. Người không muốn nói rằng ta chỉ phải tránh những kiểu cư xử đã được nhắc đến minh nhiên. Người đã nêu đặc tính của mộtthái độ tổng quát, và ta phải dựa theo đó mà cư xử trong lãnh vực liên hệ.
3. Đức Giêsu đặc biệt giáo huấn về ba lãnh vực: các xung đột giữa anh em, cách cư xử với phụ nữ và tôn trọng sự thật. Chúng ta được mời gọi xét lại cách chúng ta sống dưới ánh sáng của ba giáo huấn này. Thiếu tôn trọng các nguyên tắc của ba lãnh vực này, con người vừa thiếu kính trọng đối với Thiên Chúa vừa thiếu kính trọng đối với anh chị em mình. Nếu chúng ta sống giáo huấn của Đức Giêsu, chúng ta giữ được “Luật và các ngôn sứ”, tức là giữ được nòng cốt giáo huấn của Kinh Thánh.
4. Đây là mộtđòi hỏi của Đức Giêsu với các môn đệ: Họ phải có mộtlối sống “dồi dào hơn” sự công chính của giới kinh sư và Pharisêu. Đây là mộtsự trổi vượt về “lượng”: các môn đệ phải “làm hơn”. Nhưng “hơn” đây là đi xa hơn trong việc tuân giữ cốt lõi của Luật (x. cc. 38-48: điều răn yêu thương). Đây cũng là một sự trổi vượt về “phẩm”: các môn đệ không hoàn tất Luật theo cách vị luật, nhưng bằng con tim (Mt 23,25-28; x. 5,27-28), như những người con của Cha trên trời (5,45-48).
53.Chú giải của Noel Quesson
Sau các mối Phúc thật, là phần dẫn nhập. Bài giảng trên núi được tiếp tục trong ba chương dài trong đó Matthêu trước hết tập họp sáu phần đề giữa Luật của Môsê (“Anh em đã nghe Luật dạy rằng”) và Luật mới của Đức Giêsu (Thầy bảo thật cho anh em biết...). Chúa nhật này, chúng ta, đọc bốn phân đề đầu tiên, đi trước bằng một soạn mở đầu đem lại định hướng tổng quát cho cả bài đọc.
Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ lề luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn.
Đức Giêsu không phải là một nhà cách mạng muốn thay đổi mọi sự như thế quá khứ đã không tồn tại, để bắt đầu lại từ con số không? Cũng không phải là một nhà bảo thủ không muốn thay đổi gì cả như thể mọi việc trong quá khứ luôn luôn hoàn hảo. Chúng ta chớ quên rằng Tin Mừng của Thánh Matthêu được gởi đến các cộng đoàn Kitô hữu, ở Pa-lét-tin và Ki-ri theo Kitô giáo từ đạo Do Thái. Những câu hỏi về các sự “tiến hóa" được trình bày với nhiều sự kịch liệt: có nên bảo vệ các tập tục cắt bì cho các em nhỏ không bởi vì giờ đây đã có phép rửa tội? Có nên tiếp tục tôn trọng ngày Sabát không? Có nên tiếp tục chỉ ăn thức ăn "theo đúng nghi lễ" không? Vấn đề tiến hóa, tiến bộ lịch sử ấy vẫn còn là một trong những vấn đề quan trọng nhất của mọi thời đại. Trong những thời kỳ lịch sử biến động, những cuộc xung đột giữa "cũ và mới", giữa "truyền thống" và "tiến bộ" trở nên quá khích. Và điều đó được đặt ra ở khắp nơi: trong Giáo Hội, trong thành phố, trong chính trị trong nghề nghiệp, trong gia đình. Đối với Đức Giêsu, không có vấn đề bãi bỏ quá khứ, cũng không có việc bảo tồn nguyên xi mà phải cho nó một sự sống mới, trong một thành tựu. Không phải vì truyền thống cổ xưa mà nó tốt. Không phải vì một ý tưởng mới mà nó tốt hơn: Đức Giêsu sẽ cho chúng ta sáu ví dụ trong phần nối tiếp của Bải giảng trên núi.
“Vì Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm, một phết trong Lề Luật cũng không thể đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế thì sẽ bị gọi là bé nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời”.
Theo Đức Giêsu, Kitô giáo đến để hoàn thành Do Thái giáo. Tân ước là một chồi ghép hoàn toàn mới được nuôi bằng nhựa của cây ô-liu cũ tức "Cựu ước", để làm cho cây sinh ra nhiều quả (Rm 11, 17-24). Vâng, Đức Giêsu là Đấng được loan báo và chuẩn bị, Đấng đến để kiện toàn Luật và lời các ngôn sứ nghĩa là toàn bộ Kinh Thánh, Abraham, Môsê, Đavít, Isaia, các Thánh vịnh, các Hiền nhân, toàn bộ lịch sử và tư tưởng của Israel sẽ trổ hoa và phát triển trong Đức Giêsu.
Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sê chẳng được vào Nước Trời.
Công thức này phát triển nguyên tắc tổng quát mà sáu phản đề mà Đức Giêsu sắp triển khai sẽ đem lại sự minh họa.
Sự công chính là một từ ngữ Kinh Thánh rất phong phú mà Matthêu ưa thích một cách rất đặc biệt (Mt 1,19; 3,15; 5,6.10-20; 6,1.33; 9,13; 10,41; 11,19; 12,37; 13,17.43.49; 20,4; 21,32; 23,28.29.35; 25,37.46; 27,19.24). Từ “công chính" này không chỉ có ý nghĩa hạn hẹp mà ngôn ngữ hiện đại cho nó: sự công bằng xã hội điều hành những tương quan giữa con người với nhau "sự công chính" theo nghĩa Kinh Thánh chủ yếu là "theo đúng điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành". Một người công chính là người hoàn toàn đồng ý, cộng sinh,liên minh, hòa hợp với Thiên Chúa, Đấng suy nghĩ và thiết lập vũ trụ và điều hành nó với sự thông minh kỳ diệu. Người công chính, bởi “sự tương ứng" của đời sống người ấy với ý muốn của Thiên Chúa, sẽ tham dự vào Thiên Chúa và đi đến hạnh phúc, nghĩa là đến "mục đích vì đó mà người ấy được sinh ra". Vả lại Đức Giêsu đề nghị một sự "công chính mới", một sự hoàn thiện con người mới. Đức Kitô nói phải vượt qua sự công chính... vậy của ai nào?
- Các kinh sư những nhà thần học của thời đại ấy, những nhà chú giải Kinh Thánh, những vị thầy có chục vị, những giáo trưởng dạy đạo một cách chính thức… Các người ‘Pharisêu’ (Biệt phái) những giáo dân dấn thân của thời đại ấy, liên kết với nhau trong một "phong trào" của những người nhiệt thành, cố gắng sống mọi yêu sách của đức tin thuần túy nhất không để thanh danh bị tổn hại.
Làm thế nào các môn đệ của Đức Giêsu, những con người nghèo khổ và đơn sơ, không học vấn lại có thể so sánh với những học giả và các chuyên viên nhiệt tình của Lề Luật?
Ba ví dụ đầu tiên về sự "trội hơn" mà Đức Giêsu đề nghị là hoàn toàn có ý nghĩa và chủ yếu cho cả đời người:
1) Bạo lực, những mối tương quan sức mạnh giữa con người.
2) Tính dục, những tương quan tình cảm và thể xác giữa đàn ông và đàn bà.
3) Chân lý, những tương quan lắng nghe và đối thoại trong sự truyền thông.
BẠO LỰC:
"Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: “Chớ giết người". Ai giết người thì đáng bị ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: “ ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy nếu khi anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã; rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho, quan tòa, quan tòa lại giao cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng..."
Đây là “môi trường" thứ nhất mà con người phải trội hơn; môi trường của những mối tương quan nhân loại có xung đột và gây gỗ. Đức Giêsu biết rõ lòng dạ con người, trước khi trở thành những hành động xấu thì thù hận, sự khinh khi, bản năng thống trị đã làm hư hỏng tâm hồn con người. Bạo lực không chỉ là quả bom của kẻ khủng bố làm cho bạn kinh hoàng... bạo lực đã ở trong lòng bạn, khi bạn tức giận trong lòng chống lại những người không suy nghĩ như bạn. Và Thiên Chúa bảo đảm:cho phẩm chất các mối quan hệ của bạn: bạn phải "hòa giải" với kẻ thù của mình trước khi cầu nguyện! đó là cái mới mẻ, cái triệt để của Tin mừng... trong tương quan với luật cũ.
TÍNH DỤC:
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: "Chớ ngoại tình Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngọai tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi, vì thà mất mộ phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục... Luật còn dạy rằng: "Ai rẫy vợ thì phải cho họ chứng thư ly dị". Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường.hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại mình, và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình..”
Những quan hệ giữa "đàn ông" và “đàn bà" là "môi trường" thứ hai trong đó Đức Giêsu mời gọi chúng ta "trội hơn" Lề Luật. Trước tiên chúng ta hãy ghi nhận rằng lời của Đức Giêsu nói ra là theo "quan điểm" của đàn ông, bởi vì xã hội thời Người, là một xã hội của đàn ông. Rõ ràng ngày hôm nay phải đọc những lời ấy trong sự hỗ tương trọn vẹn. "Mọi người đàn bà bỏ rơi chồng mình …
Những lời này của Đức Giêsu, liên quan đến tính dục của bạn, vợ chồng bạn, đời sống độc thân của bạn... bạn hãy đọc lại những lời ấy, như thể Đức Giêsu nói với chính bạn, mặt đối mặt. Những lời này đụng đến nhiều vết thương còn đau nhức, nhiều lý tưởng bị nhạo báng, nhiều ước mơ không được thực hiện đến nỗi có lẽ cần được giải thích đôi chút. Những cuộc tranh luận về "ngoại lệ của Mat-thêu” trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp) rất khó chỉ rõ, và tốt hôn hết là tham khảo đến những lời ghi chú của Kinh Thánh có ghi nhận về các cách hiểu về ngoại lệ ấy.
Tuy nhiên mỗi người chúng ta phải đón nhận lời yêu cầu của Đức Giêsu như một lưỡi gươm: Trong thế giới sự phi nhân mà chúng ta đang sống; những lời ấy của Đức Giêsu quả là thúc bách và dường như đi ngược lại với sự phát triển của đàn ông và đàn bà. Thật vậy, trong đáy lòng, chúng ta nhận biết những lời ấy xác định đường lối duy nhất và thật dũng cảm của việc phát triển thật sự. Cũng không nên hiểu những lời ấy như những điều quy định về luật pháp: Sự "'trội hơn" Luật mà Đức Giêsu đề nghị chỉ có thể sống... với Người, với ân sủng và tình yêu của Người.
CHÂN LÝ:
“Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa". Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ…”
Đây là những lệnh truyền của Đức Giêsu mang tính hiện đại rất cao. Đây hoàn toàn là vấn đề hiệp thông giữa con người với nhau. Những tương quan của con người bị làm hư hỏng từ bên trong bởi sự lừa bịp, bởi thủ đoạn, sự giả vờ, sự giả mạo, quỷ quyệt, dối trá… sự quảng cáo và thông tin thương mại… Đức Giêsu mời bạn đến với chân lý của cuộc “đối thoại”, các cuộc đàm luận của chúng ta. Tìm một sự bảo đảm bên ngoài trong một lời thề là một điều vô ích (tôi thề với anh tôi nói sự thật!) lời nói của một con người, lời nói của bạn tự nó phải có một giá trị: hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không… Đức Giêsu tạo ra một “nền đạo đức” mới. Người không bãi bỏ gì cả, người “kiện toàn” từ trong nội tâm điều mà tự nền tảng là lý tưởng của mọi chủ nghĩa nhân bản chân chính.
54.Chú giải của Fiches Dominicales
“TA KHÔNG ĐẾN ĐỂ BÃI BỎ NHƯNG ĐỂ KIỆN TOÀN”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Nguyên tắc chung: “không bãi bỏ, nhưng kiện toàn”.
Leo lên ngọn núi Sinai mới, Đức Giêsu, trong các mối phúc của nình, trước tiên, tán tụng cảnh sống hạnh phúc của các môn đệ qua lời mở đầu của bài giảng trên núi: "Phúc cho những tâm hồn nghèo khó: vì nước trời là của họ”. Đoạn ngài, minh định sứ mệnh trao phó cho họ: "Các con là muối đất... các con là ánh sáng trần gian" tiếp đến trung tâm bài Hiến chương, Ngài mạc khải cho các người của mình sự mới mẻ hoàn toàn của Tin Mừng. Bản văn mang đậm dấu ấn của thánh Mátthêu này gợi lên áp lực lưỡng diện đang đè nặng trên những cộng đoàn Kitô giáo.
Trước tiên, là áp lực ngoại tại của hội đường, nhân danh lề luật bắt bớ các môn đệ của Đức Giêsu. Sau đó, là áp lực nội tại của các cộng đoàn tín hữu bất nguồn từ Do thái giáo, "truyền thống hơn " đôi khi co vào sự tuân giữ lề luật theo nghĩa ngữ, đối lại với các tín hữu xuất thân từ đa thần giáo, luôn tìm cách gièm pha lề luật Giáo huấn của Đức Giêsu sẽ sửa lưng cả hai. Quả thật, Ngài tuyên bố rằng mình "không đến để bãi bõ lề luật hay các tiên tri, mà để kiện toàn" nghĩa là thể hiện một cách viên mãn, hoàn hảo trong tình yêu và tự do của Con cha trên trời. Vì thế, từ nay "sự công chính" mới hệ tại không phải ở chỗ khép mình một cách bề ngoài vào các tập tục, nhưng là "khuôn mình" theo thánh ý Chúa Cha như Đức Giêsu. Sống trong cộng đoàn với tình yêu và tự do của con cái có thể, mới “công chính" hơn các luật sĩ và biệt phái được Thánh Irênê thành Ly-on, vào thế kỷ thứ hai đã hỏi: như vậy, khi đến trần gian này, Chúa đã mang theo những gì? Ngài đã mang theo sự mới mẻ hoàn toàn bằng chính con người của Ngài.
2. Những áp dụng cụ thể
Tiếp sau là năm phản đề cụ thể hóa "sự công chính mới" sẽ là bài học áp dụng nguyên lí tổng quát này vào cuộc sống tín hữu, vì chính toàn thể lề luật Phúc âm phải bao bọc toàn thể cuộc sống các môn đệ. Năm hình ảnh, mà chúng ta sẽ theo dõi trong bài đọc chúa nhật tới, đều bắt đầu với công thức "Anh em đã nghe biết người xưa dậy rằng... còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết... " Một kiểu nói trống để tránh dùng tên Thiên-Chúa, có nghĩa là "Thiên-Chúa đã phán ", "anh em đã nghe biết khi lời Chúa được công bố long trọng trong hội đường", đối lại, Chúa đưa ra những xác quyết của riêng mình "Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết". Theo Jean Potin, "Đức Giêsu tự giới thiệu như là một Môse mới, không chỉ đủ thẩm quyền giải thích luật lệ của Thiên Chúa, mà còn cách tân: luật Chúa đã bảo anh em...nhưng Thầy, Thầy bảo anh em...ngài còn hơn cả luật Môsê mới nữa vì Ngài không chỉ bằng lòng nói về lề luật mới như một nhà làm luật, mà còn cắt nghĩa cho người cụ thể để họ gắn bó ngày càng mật thiết hơn với Thiên-Chúa Cha, là Đấng mà họ phải nên hoàn thiện như Người. " (Đức Giêsu, lịch sử đích thực, Centurion, tr. 198) Minh họa đầu tiên là “mối tương giao huynh đệ” Thập giới truyền bảo "ngươi không được giết người'? Còn Chúa Giêsu, đi đến cùng chung đòi hỏi cua lề luật, đã tuyên bố rằng, nguyên việc không phạm tội sát nhân thôi: chưa đủ, mà còn phải loại bỏ nỗi oán hận và giận hờn khỏi lòng mình nữa. J.Potin viết “Trong thập giới của Môsê, lên án tội giết người thuộc giới răn thứ năm. Ở đây, nó được nói đến đầu tiên, chắc chắn vì nó bao hàm một cách tiềm ẩn giới răn tràn đầy bài diễn từ trên núi tình yêu tha nhân, thực tế trong tình yêu tha nhân...trở thành giới răn đầu tiên: Đức Giêsu đã thấy mầm mống của giới luật yêu thương này trong điều răn lên án việc giế người. Kính trọng sự sống người khác mở đường cho việc bày tỏ tình yêu ân cần hơn đối với tha nhân. Cả hai đều phải được xem xét trước mặt Thiên-Chúa là Đấng mà Đức Giêsu sẽ là quan án và hiền phụ”. (Sách đã dẫn, tr. 198-l99)
Hai ví dụ ở ngôi thứ hai số ít "anh" tiếp nối mình hoạ thứ nhất "vì thế, khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ…”xung đột là mầm mống sát nhân, và hòa giải là một bổn phận cấp thiết hơn cả việc dâng của lễ cho Thiên-Chúa: "hãy đi làm hòa với người anh em trước đã rồi hãy trở về dâng lễ vật của mình" hãy mau mau dàn xếp với đối phương": thù oán dây dưa, ngày sau sẽ vô phương cứu chữa trước tòa án Thiên-Chúa.
Minh họa thứ hai nói về mối tương giao nam nữ trong đời sống hôn nhân. Trong Do Thái giáo, thủy chung là nền tảng của đời sống hôn nhân: nó được chứng thực bằng sự thủy chung của Thiên-Chúa đối với giao ước và với dân riêng người. J.Potin cắt nghĩa: "Hôn nhân không chỉ là một khế ước có tính luật pháp. Nó ràng buộc con người tự đáy lòng họ. Vì thế khi người đàn ông đã có vợ thèm muốn vợ người khác là đã phạm vào dây hôn phối. Trái tim đã chệch khỏi Giao ước của nó. " (Sách đã dẫn, tr. 199).
Minh họa thứ ba nói đến những lời thề hứa mà người ta cho rằng sẽ mạnh hơn khi nại đến những thực tại ít nhiều thánh thiêng: "Chỉ trời, chỉ đất, chỉ Jerusalem... " Đức Giêsu xác quyết, đừng thề gian không thôi chưa đủ còn phải diệt trừ khỏi lòng ta sự lập lờ, bất chính, đa nghi nữa, không được đi xa hơn lời nói chân thực gian dối: "khi các ngươi nói có" là phải "có '! Mức qui định mà Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ là: biến đổi tấm lòng để có thể hiệp thông với những tình cảm của Thiên-Chúa được biểu hiện trong Đức Kitô con Ngài. Như đức cha L.Daloz viết "Đối với các môn đệ, kiện toàn lề luật khác hẳn việc thực thi các mệnh lệnh. Đúng hơn, đây chính là việc để cho các luật kiện toàn chính mình, đưa mình đi tới cùng ("Nước Trời đến gần", Desclée đe Brouwer, tr. 51)
BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Hãy để cho lề luật kiện toàn chính chúng ta” (Đức cha L. Daloz. trong nước Trời đến gần! Desdée de Brouwer, 1994, tr 51).
"Đức Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách trả lại cho nó tất cả sự trong sáng của lời Thiên Chúa, khi nhấn mạnh đến điều cốt lõi: "Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải hi tế." Khi được hỏi về giới răn trọng nhất. Ngài không do dự trả lời rằng toàn bộ lề luật và tiên tri đều qui về giới răn trọng nhất là yêu mến Thiên-Chúa hết lòng, hết linh hỗn, hết trí khôn và yêu thương anh em chính mình.(Xem 22,34-40). Chính Ngài đã kiện toàn giới răn cao cả ấy bằng cách tự hiến đời mình. Phần các môn đệ, kiện toàn lề luật khác hẳn việc tuân thủ các mệnh lệnh. Đúng hơn, chính lề luật kiện toàn ta, đưa ta đi cùng. Có thế mới đáng để ta tuân giữ giới răn nhỏ bé nhất thậm chí cho tới một nét phẩy - không phải vì tỉ mỉ hay cầu toàn, nhưng vì tự hiến hoàn toàn, mở lòng trọn vẹn, để lời của Thiên-Chúa thấm nhập và biến đổi tận đáy lòng ta, và biến ta nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo. Đây không phái là sự nô lệ ma là tình nguyện. Nó không bao giờ kết thúc vì ta luôn bất toàn. Đây là sự rèn luyện trường kì về tính sáng suốt và lòng can đảm. Trước tiên, đây là một hồng ân, một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn và thực hiện nơi ta điều đó đây chính là tác phẩm của Chúa Thánh Thần, Đấng đến để sản sinh trong ta những hoa trái của người, như vậy kiện toàn lề luật là ghi khắc nó vào tận đáy lòng ta..."
2. “Sự cấp tiến của bài giảng trên núi”. (J. Guillet, Đức Giêsu trong niềm tin của các môn đệ tiên khởi. Desclée de Brouwer, 1995).
Tính cấp tiến này không hề nệ luật. Điều hay nhất của bài giảng là không có thêm một điều khoản bổ túc, một đòi buộc mới nào. Nhưng là không cho phép bất cứ ai tự tin mình đã đạt đến sự công chính cao siêu cả. Nó bắt mọi môn đệ tự do tưởng tượng, tiến xa hết mức trong việc phục vụ và trong tình yêu tha nhân. Giới luật đặc thù của Tin Mừng luôn có tính tích cực. Tại chỗ mà luật cũ mang tính tương đối và hạn định một giới hạn không thể vượt qua "Ngươi không được giết người, không được phạm tội ngoại tình " thì Đức Giêsu lại công thức hóa chúng theo đường hướng tích cực: trước hết, hãy đi làm hòa đã, hãy móc mắt phải mà nén đi. Ta phải biết nhận ra nguyên lí nền tảng đàng sau những phóng đại quen thuộc theo kiểu nói Phương đông, anh không được đặt giới hạn cho tình huynh đệ, cho việc tôn trọng phụ nữ."
3. “Cuộc cách mạng tôn giáo vĩ đại nhất từ trước tới nay” (H. Denis 100 từ nói lên niềm tin: Desclée de Brouwer, 1993).
"Bạn có biết thập giới không? Có lẽ bạn có thể đọc thuộc mười điều răn bằng văn xuôi hay văn vần, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng hơn, đó là biết được điều Đức Giêsu đã làm đối với thập giới. Ta có thể nói với Ngài rằng Lề Luật, không bị hủy bỏ, nhưng được thăng tiến để được kiện toàn. Nói cách khác, ta cũng phai để ý kẻo khi vượt lên lề luật, ta lại khinh thường nó bằng cách bám víu vào đó như Đức Giêsu chưa từng kiện toàn nó vậy. Với cái nhìn này, bài giảng trên núi có lẽ là cuộc cách mạng tôn giáo vĩ đại nhất của mọi thời. Một con người, một vị tiên tri, một sứ giả của Thiên-Chúa dám nói lên những lời chưa từng nghe, anh em đã nghe Luật dạy "người xưa rằng, còn thầy, Thầy bảo cho anh em biết”: Vị Giêsu này vượt trên cả lề luật. Bạn hãy tưởng tượng xem Luật dậy người xưa. Luật ở đây là ai? Thật đơn giản. đó chính là Thiên-Chúa của Cựu ước, Đấng đã ban Lề Luật. Vì thế mà đối với người Do thái, không ai có thể vượt hơn Lề Luật, hơn được Lời Thiên-Chúa đã trao ban một lần cho đến muôn đời được: Vậy mà, có một người đã dám vượt trên Lề luật, bạn hãy lần lượt xét kỹ từng giới răn rồi sẽ thấy, quả thật, khi đã biết Đức Giêsu là ai rồi, người ta sẽ thấy các giới răn thiêng liêng này thật tương đối so với một điều cao cả hơn nhiều là nhận ra Tình yêu được biểu lộ nơi Đức Giêsu, con Chúa Cha. Luật dạy người xưa rằng, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết. Có lẽ các bạn đã biết đây là một trong ba luận cứ mà thần học đã rút ra từ Tin Mừng, coi như để mạc khải thiên tính của Đức Giêsu (một Đức Giêsu, may thay không bao giờ tự xưng: ta là Thiên Chúa, nhưng anh em bảo Thầy là ai? Các bạn cũng biết hai luận cứ kia là gì rồi. Thứ nhất đó là việc gọi Thiên Chúa là Cha, người Cha (Abba) thân thương thực sự. Sau đó là lời yêu sách quá quắt. Mọi tội con đã được tha ‘chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội mà thôi’.
Bạn thấy lề luật được kiện toàn này đưa ta đến đâu vào những lúc nghi nan, hay những giây phút mỏi mòn vì phải trung thành với Lề luật, bạn hãy nhớ đến sự can đảm của Đức Giêsu: “Luật dạy người xưa rằng, còn Thầy, bảo cho anh em biết."
55.Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
KIỆN TOÀN LỀ LUẬT VÀ ĐỨC CÔNG CHÍNH MỚI
CÂU HỎI GỢI Ý
1. “Làm trọn Lề luật" (5, 17) có nghĩa là gì? Phải hiểu thế nào các "tương phản" (5, 21. 27. 31. 33. 38. 43) sau khi đọc đoạn khai triển về việc làm trọn Lề luật (5, 17- 20)? Chúa Giêsu kiện toàn “điều đã được nói cho người xư'a "ở điểm nào? Đâu là sự “dư dật" của đức công chính được đề ra (c. 20)?
2. Hãy nêu lên trong Tin Mừng những cử chỉ Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người không đến bãi bỏ Lề luật: ví dụ đối với Đền Thờ, việc nộp thuế, lễ Vượt Qua, việc chúc lành các bữa ăn, kinh nguyện hằng ngày, chính quyền, việc hành hương Giêrusalem v.v...
3. Theo nghĩa nào Chúa Giêsu đã giải phóng Lề luật khỏi các khoản thêm thắt của Biệt phái đã khiến mục đích chân chính của Lề luật bị đổi hướng?
4. Có thể ly dị vợ trong trường hợp gian dâm không? Khoản luật này có nghĩa gì? Phải chăng đây là một luật trừ?
*******
1. Sau khi kêu gọi môn đồ và dân chúng, trong các câu dẫn nhập vào Diễn từ, bằng cách phác họa cho họ thấy dung mạo con cái Nước Trời, Chúa Giêsu lập tức đề phòng một ngộ nhận: điều Người loan báo có thể xem như bãi bỏ Cựu ước (được gọi dưới cái tên Lề luật - tức bộ Ngũ Thư - và các Ngôn sứ tức là toàn thể các sách linh ứng khác), nhưng kỳ thực là không: Người không đến bãi bỏ, song để làm trọn, kiện toàn. Việc hoàn tất ấy nhắm lới Thánh Kinh xét như là tuyển tập các sấm ngôn mà Chúa Kitô đến thực hiện, và xét như là tuyển tập các luật lệ diễn tả thánh ý Thiên Chúa, mà Chúa Kitô đến kiện toàn.
2. Một trong các bản tuyên tín cổ xưa nhất, có lẽ từ khoảng năm 35- 40, quả quyết như sau: "Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Thánh Kinh. Người đã bị chôn cất, đã sống lại ngày thứ ba, theo lời Thánh kinh" (1Cr 15, 3- 5). Niềm xác tín Chúa Kitô hoàn tất Thánh Kinh như vậy đã ăn sâu vào tâm thức Kitô hữu. Nó cấu thành niềm tin của cộng đoàn nguyên thủy, và là trọng tâm của việc họ hiểu Lời Chúa. Nhờ việc hoàn tất này, Giáo Hội xuất hiện như là đích điểm của chuyển động lịch sử mà Thiên Chúa đã lèo lái, và Chúa Kitô tỏ ra như là trung tâm bảo đảm sự duy nhất của Thánh Kinh. Người là Đấng "đã được nói đến trong Lề luật Môisen và các ngôn sứ ” (Ga 1, 45): Tin lời Thánh Kinh tức là tin và Người: Vì chính về Ta mà Môisen đã viết" (Ga 5, 45). Và suốt cuốn Tin Mừng, Mt đã chú tâm làm nổi bật việc Chúa Kitô hoàn tất Thánh Kinh như vậy.
3. Nhưng nếu Chúa Giêsu đến hoàn tất các sấm ngôn, thì Người cũng đến trình bày một cái nhìn đúng đắn hơn về tinh thần được tiềm ẩn dưới các giới lệnh chính thức của Lề luật. Ngoài ra, công cuộc kiện toàn này còn có đặc điểm là tinh thần Tin Mừng nay thấm nhập vào pháp chế cổ xưa, là cái có mục đích chuẩn bị sự nẩy nở của Tin Mừng. Như nụ hoa kết liễu và biến mất trong đóa hoa, Cựu ước cũng nở ra trong Tân ước. Thay cho văn tự ngột ngạt đè nén, này đây tinh thần đến giải phóng con người.
Các kiểu so sánh Chúa Giêsu dùng - không một chấm một phết của Lề luật sẽ bị biến mất - thoạt nhìn tưởng là có nghĩa duy trì hoàn toàn bộ luật Cựu ước bao lâu còn vũ trụ (“trời và đất", thành ngữ cổ điển). Nhưng các ví dụ đưa ra đi ngược lại và cho thấy Người không nhằn bảo tồn chất thể tính của các giới lệnh. Người chỉ duy trì chúng bằng cách vượt trên chúng. Không phải bằng cách chồng chất thêm điều khoản, như nhóm Biệt phái và tiến sĩ luật đã làm, song là đưa vào một não trạng có tính cách tôn giáo hơn, khả dĩ làm nổ tung các khuôn khổ cũ (9, 16- 17) mà vẫn không hủy diệt các giới răn. Đây chẳng phải là việc phá hủy, song là đổi mới canh tân. Toàn bộ đóng góp tích cực về tôn giáo của Cựu ước đều được duy trì, gạn lọc khỏi các thể chế lỗi thời và thối nát.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Không một chấm một phết": Phải giải thích câu này trong cái nhìn toàn bộ Tin Mừng Mt. Nếu Chúa Giêsu muốn đề nghị ở đây một sự tuân hành mặt chữ Lề luật, Người sẽ trực tiếp mâu thuẫn với thái độ của chính mình, vì xem ra Người đã chẳng giữ đúng các khoản luật nhỏ nhặt của Cựu ước, nhất là khoản về thu nhập và tinh sạch theo lễ nghi (15,3; 19,17; 22, 36. 38. 40 v.v...), hơn nữa Người sẽ mâu thuẫn với lời giảng huấn của mình, vì trong các ví dụ sau đó, Người sửa đổi Lề luật trên nhiều điểm quan trọng như khoản luật về ly dị của Đnl 24,1. Do đấy phải xem thành ngữ của Chúa Giêsu là một kiểu nói Do thái, đặc biệt của các giáo sĩ, nhằm làm nổi bật uy quyền tuyệt đối và trường tồn của Lề luật, nhưng là một Lề luật đã được giải thích lại, được gạn lọc khỏi các yếu tố lỗi thời, được kiện toàn nhờ tinh thần tình yêu sinh dộng nó. Thứ Lề luật đã được chú giải lại như thế phù hợp với chủ ý nguyên thủy của Thiên Chúa, là Đấng đã ban nó cho Môisen đầu tiên. Chính trong chiều hướng ấy mà ta có thể xác quyết tính cách bền vững của Lề luật: trời đất sẽ qua đi nhưng thánh ý Thiên Chúa sẽ không qua bao giờ.
"Một trong những điều răn nhỏ hèn nhất": Một lần nữa, đây không phải là bắt chước việc giữ luật theo mặt chữ của Biệt phái. Khi đã lưu ý đến văn mạch của Diễn từ, chớ quên rằng từ đây Luật chẳng phải là luật Môisen đối nghịch với tinh thần mới, nhưng là Luật Thiên Chúa với sự viên mãn mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Nên so với Lề luật diễn tả thánh ý Chúa Cha và được Chúa Giêsu giải thích lại như thế, thì các điều răn phụ tùy cũng có giá trị riêng của chúng. Ở đây nhấn mạnh đến việc thực hành Luật Tin Mừng, có lẽ vì muốn ám chỉ tới nhóm Biệt phái "nói mà không làm" (23, 3). Lối giải thích này được xác nhận bởi cách đặt tiếp liên các động từ ("phạm - dạy... làm- dạy"); đặt việc vi phạm hay thi hành điều luật trước, và việc dạy dỗ ra sau trong cả hai lần.
Câu 20 phát biểu chủ đề của những điều sẽ nói: "Nếu đức công chính của các ngươi không dư dật hơn ký lục và Biệt phái...". Lời tuyên bố long trọng này sau đấy được minh giải qua 6 ví dụ cụ thể, trong đó Chúa Giêsu đối chiếu lời Người tái giải thích Lề luật với giáo huấn chính thức của Do thái giáo. Tất cả các ví dụ đều được kết cấu theo một kiểu như nhau: trích dẫn một điều luật đoạn đề ra các yêu sách mới ("Ta bảo các ngươi..."). Sáu ví dụ này là: giết người (cc.21- 26), ngoại tình (cc. 27- 30), ly dị cùng tính cách bất khả phân ly của hôn nhân (cc.31- 32), thề thốt (cc.33- 37), báo thù (cc.38- 42) và yêu kẻ thù nghịch (cc.43-47). Trong cả 6, sự công chính mà Chúa Giêsu rao giảng tỏ bày ra một cách sâu xa và hiện thực.
Từ luật cấm giết người (c. 21), Chúa Giêsu đi qua các yêu sách của bác ái: không nhục mạ tha nhân (c.22), song hãy làm hòa với họ. Đối với Mt, tính cách mới mẻ của Kitô giáo phát xuất từ trực giác căn bản Chúa Giêsu đã mặc khải cho môn đồ: đó là sự kiện tất cả chúng ta đều là con cái của Cha trên trời. Và sự kiện chủ yếu này đưa tới một hệ luận quan trọng: mọi người là anh em. Trước đó Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến điểm thứ nhất, đã luôn luôn quy chiếu về Thiên Chúa như là Cha từ đầu đến cuối Diễn từ. Ở đây Người chạm tới điểm 2, khi dùng chữ anh em 4 lần trong các câu 22- 24.
Trong mấy câu 22-24, chở đi tìm các phân biệt theo kiểu giải nghi học xa lạ với não trạng của Chúa Giêsu. Thực ra, Người chỉ muốn sử dụng những phạm trù pháp lý của môi trường mình và kiểu nói của các giáo sĩ, để kết án sự giận hờn như là một hành động giết người, dù nó xuất hiện dưới hình thức nào đi nữa. (Về ý nghĩa các chữ "đồ ngốc", "đồ khùng", "tòa án", "công nghị", xin xem chú thích của BJ)
"Khi ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ": Câu này không rõ ràng mấy về chi tiết. Có thể là người sắp dâng hy lễ đã làm phật lòng tha nhân, hay tha nhân đã tức giận người dâng lễ (có duyên cớ hay không, bản văn chẳng xác định gì). Giả thuyết thứ hai có vẻ đúng hơn, vì người dâng lễ đã ở bên bàn thờ khi sực nhớ lại: điều này minh chứng cơn giận không ở trong lòng anh ta nhưng cái đó chẳng quan trọng; điều đáng kể là trong hai trường hợp, thiện ích của sự bình an đòi hỏi ta phải tìm cách giải hòa với nhau, trước khi trình diện trước mặt Thiên Chúa. Đó là sự tế nhị của lòng bác ái Chúa Giêsu mà ta không mấy thích, vì nhiều khi mình là đối tượng của một sự hờn oán bất công. Câu tiếp theo (c. 25) trình bày một dụ ngôn tiềm ẩn nhằm cụ thể hóa lời giảng huấn đi trước: cũng như người ta tìm cách thỏa thuận với chủ nợ để khỏi gặp cảnh khốn khổ hơn, thì cũng vậy phải tìm cách giải hòa gấp với nhau để tránh thoát hình phạt của Thiên Chúa. Ý tưởng sau chỉ được hiểu ngầm thôi, tuy nhiên cung cách long trọng của c. 26 gợi lên điều đó.
Về vấn đề ngoại tình (cc. 27- 30), tính cách triệt để của Lề luật được đặc biệt nhấn mạnh: người Kitô hữu chẳng những sẽ không phá vỡ tổ ấm của anh em mình qua việc lấy vợ anh em, mà còn không được để phát sinh trong lòng mình ý muốn phá vỡ đó. Sự toàn vẹn của tổ ấm gia đình phải vượt lên ngay cả trên sự toàn vẹn thể lý, là cái gì rất quý đối với con người, vì con mắt giúp đi đứng, còn tay chân lại giúp hành động. Đây là kiểu nói đại ngôn cho thấy phải coi trọng đến độ nào yêu sách tuyệt đối của Lề luật. Truyền thống giáo sĩ cũng đi theo chiều hướng ấy.
"Trừ phi là nố dâm bôn": Câu này (được Mt 19, 9; Mc 10, 11-12; Lc 16,18 bổ túc) không phải là dễ hiểu, vì nó nại đến nhiều ý niệm pháp lý mà ta chẳng còn quán triệt được ý nghĩa đích xác. Dù sao đại ý vẫn rõ ràng: sự bao che của luật Môisen, được bảo đảm nhờ ly thư, trở nên thất liệu trong lời Chúa Giêsu tái giải thích Lề luật. Kết luận tổng quát này dựa trên các lý chứng sau đây:
1. Toàn bộ Diễn từ cho thấy Chúa Giêsu muốn vượt quá Lề luật cho đến bây giờ hãy còn hiệu lực. Thế mà trong trường hợp hôn nhân, dù công nhận sự vô hạnh (gian dâm) như là luật trừ, Người vẫn không đi xa hơn mấy lập trường của Shammai, một giáo sĩ Do thái đương thời.
2. Trong Mt 5-7, cũng như các chỗ khác, ta chẳng hề thấy Mt phát biểu một sự chế hạn nào đó khi ghi lại một huấn thị luân lý của Chúa Giêsu; thực vậy, các bản văn ấy cho thấy Người rõ ràng không muốn sa vào lối phân biệt các nố đặc biệt như các giáo sĩ thường làm, mà chỉ nhắc lại cách đại cương trật tự sáng tạo Thiên Chúa đã thiết lập.
3. Mc và Lc không nói đến điều khoản này. Khó mà nghĩ rằng hai ông đâ bỏ qua một lời tuyên bố thật sự biến đổi nguyên tắc bất khả phân ly của hôn nhân.
4. 1Cr 7, 10-11, lời giải thích xưa nhất về câu nói của Chúa mà Phaolô cũng biết, xác nhận luật cấm tuyệt đối không được ly dị (tuy nhiên câu 11 nói đến trường hợp ly thân mà không tái giá).
Do đó không thể chủ trương rằng trong tâm trí Chúa Giêsu, việc ngoại tình làm thành một luật trừ, như người Tin lành và Chính thống giáo vẫn kết luận từ điều khoản đó (tuy nhiên có nhiều thần học gia Tin lành mới đây đã chấp nhận cách đại cương lời kết luận của chúng tôi). Thế nhưng các nhận xét trên đây không phải là lời chú giải điều khoản của Mt. Muốn tìm hiểu, xin khảo cứu các sách chú giải chuyên môn và các bài đăng trong tạp chí.
"Ta bảo các ngươi đừng thề thốt chi cả": Lời nghiêm cấm này xem ra tuyệt đối đến nỗi nhiều giáo phụ đã lên án mọi sự thề hứa, cũng như có nhiều giáo phái Tin lành từ chối không tuyên thệ bất cứ điều gì. Để không lại ý kiến họ, ta có thể trưng ra sự kiện thánh Phaolô (Rm 1, 9; 2 Cr 1, 23; 11,31; Ga 11, 20; Pl 1,8) và việc thực hành trong Giáo Hội: Giáo Hội không những cho phép thề trước các tòa án, mà còn buộc phải thề trong một vài trường hợp nữa (vd thề chống Duy tân chủ nghĩa). Điều đó giả thiết lời nghiêm cấm của Chúa Giêsu không có tính cách tuyệt đối. Người muốn nói (thánh Agustinô) trong lời thề tự nó không phải là một điều tốt. Nó phải biến mất khỏi một cộng đoàn xã hội được tổ chức theo tư tưởng của Chúa Giêsu. Chỉ khi gặp trường hợp đáng tiếc và nghiêm trọng mới nên thề. Để quán triệt tư tưởng của Chúa Giêsu, ta phải xét nó trong hoàn cảnh cụ thể của nó. Các thính giả của Chúa Giêsu là những người không phải bận tâm về tính cách chính đáng trên lý thuyết của một lời thề quy định bới quyền bính dân sự hay tôn giáo. Họ sống trong một môi trường mà văn từ của Lề luật, theo lối chú giải của Biệt phái, coi như đi đôi với một sự lạm dụng quá trắng trợn, với một sự biến đổi rõ ràng tâm tình đạo đức. Chúa Giêsu đưa ra một hướng đi quyết liệt, Người trình bày điều duy nhất phù hợp với danh dự của Thiên Chúa và phẩm giá con người, làm quy luật mà các môn đồ Người phải theo trong các hoàn cảnh sống thông thường. Nền tảng của quy luật thực tiễn này là: con người không được dùng lời mình để cam kết cái điều thuộc về Thiên Chúa; đó sẽ là một toan tính bắt Thiên Chúa phục vụ mình, một toan tính rõ ràng là vô ích phù phiếm, vì con người không thể thay đổi ngay cả màu sắc tóc mình, theo nghĩa là không thể làm mình trẻ hơn hay già hơn được.
KẾT LUẬN
Việc Chúa Giêsu tái giải thích Lề luật luôn luôn được thực hiện trong cùng một chiều hướng: khi triệt để hóa Lề luật, vượt trên mọi toan tính phân tích từng nổ nhằm giảm thiểu yêu sách của nó, Người hoàn lại cho nó chiều hướng nguyên thủy là làm cho con người trở nên huynh đệ hơn, tôn trọng nhau hơn, trung thành hơn với các lời cam kết và tình yêu, ngay chính hơn đối với anh chị em mình.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Con người luôn luôn bị cám dỗ rơi vào não trạng nệ luật, là não trạng bao giờ cũng dễ dàng vì gây cho ta môi sự an lòng: ta vững tâm cho rằng mình sống đúng luật đối với Thiên Chúa và tha nhân, một khi làm tròn một quy luật nào đó. Nhưng Chúa Giêsu mời ta vượt qua các tính toán so đo ấy để đi vào bình diện tình yêu. Và mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.
2. Chúa Giêsu không chỉ hài lòng với việc chu tất hay kiêng cữ bên ngoài. Người đi tìm con người tận trong căn nguyên hành vi của họ, tận trong tư tưởng, ước muốn, ý hướng của họ: "Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức hết linh hồn ngươi ".
3. Khi ban Thập điều cho Israel, Thiên Chúa đã dẫn Israel bước một bước dài trong quá trình tiến bộ về mặt luân lý: so sánh với luật rừng hay tình trạng man rợ, luật Môisen tượng trưng cho một bước tiến đáng kể cho lương tâm con người. Tuy nhiên Thiên Chúa cũng lưu ý đến sự yếu đuối của dân Israel và đến các phong tục hãy còn thô lậu của thời đại: như một nhà sư phạm khôn ngoan, Ngài đã thích ứng các yêu sách của Ngài với não trạng hãy còn thô lỗ của dân, chấp nhận nhượng bộ việc ly dị, trả thù v.v... Đó là thời kỳ thơ ấu của Israel, thời kỳ tập luyện. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương tạo vật đến nỗi không muốn duy trì nó trong sự sống tầm thường. Vì thế Ngài đã sai phái Con Một Ngài để Người hoàn tất công trình Ngài và dẫn đưa con người đến tình yêu hoàn hảo. Đây là một sự liên tục đáng khâm phục trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam