Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 62
Tổng truy cập: 1356389
HÃY TRỖI DẬY
HÃY TRỖI DẬY
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Thiên Chúa tạo dựng sự sống nơi thực vật, động vật, con người và thiên thần. Chúng ta thấy được sự sống gắn liền nơi các tao vật. Mọi tạo vật đều nhận hơi thở sự sống. Rút hơi thở, chúng sẽ tan biến. Ngay chương đầu của sách Khôn Ngoan, tác giả được linh lứng viết rằng: Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong (Kn 1,13). Sự sống ở mọi tạo vật sinh động sẽ tiêu vong, nhưng sự sống thật sẽ tồn tại muôn đời. Chúng ta có nhiều kinh nghiệm về sự sinh, lão, bệnh và tử. Con người sinh ra và từ từ đi về cõi chết. Đã là người, ai cũng bước qua lúc sinh lúc tử.
Từ muôn thế hệ, dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia để truyền sinh sự sống. Sự sống mà Thiên Chúa trao ban cho tổ tông của loài người vẫn được tiếp tục phát triển và sinh xôi nẩy nở. Sự sống của từng cá nhân sẽ chấm dứt ở đời này, nhưng sự sống của con người sẽ tiếp tục. Với niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh, chúng ta tin rằng sự sống thay đổi chứ không mất đi. Người ta thường nói: Sinh ký tử qui, sống gởi thác về và từ trần hay qua đời. Qua đời này để vào đời khác. Chết không phải là chấm hết mà bước qua một cuộc sống mới.
Sự sống và sự chết là một mầu nhiệm. Chúng ta không hiểu được mầu nhiệm của sự sống, mà chỉ chiêm ngắm và sống mầu nhiệm này. Biên giới giữa sự sống và sự chết là một hơi thở. Có những người được sống cả trăm năm. Có những thân phận bé bỏng chỉ được nương nhờ sự sống nơi cung lòng mẹ ít ngày tháng. Cuộc đời dài vắn của mỗi sinh linh đều khác nhau. Chúng ta không thể so sánh hay phân bì. Mỗi một sự sống là một huyền nhiệm. Sự sống như nhau, nhưng sự sống đi vào cụ thể trong những định mệnh hoàn toàn khác nhau. Mỗi một cá nhân được trao ban một số mệnh cuộc đời. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta được mở mắt chào đời và được hiện hữu trên thế gian. Chúng ta hãy trân quí từng giây phút trong cuộc đời. Cuộc đời dù ngắn hay dài đều có một sứ mệnh, một ý nghĩa và cùng đích. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa để sống vĩnh viễn:Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người (Kn 2,23).
Chúa Giêsu là Ngôi Hai và là Con Thiên Chúa. Nhờ Chúa Ngôi Hai mà muôn vật được tạo thành.Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1, 3-4). Thánh Gioan đã thâu tóm chân lý sáng tạo vũ trụ muôn loài qua một lời tròn đầy ý nghĩa: Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành. Ngôi Lời là trung gian của tất cả vạn vật hữu hình và vô hình. Ngài có quyền năng sáng tạo, biến đổi và tái tạo. Chúa Giêsu đã chứng minh quyền năng bằng các phép lạ và lời uy quyền. Biến đổi vật chất như nước thành rượu, bánh cá hóa nhiều, cho sóng gió im lặng, mẻ cá đầy, chữa các loại bệnh hoạn tật nguyền, cải đổi tâm hồn và quyền cho kẻ chết sống lại.
Suy về cuộc đời vô thường, là người ai trong chúng ta cũng có lúc khỏe mạnh và khi yếu đau, khi vui vẻ và lúc buồn sầu, khi hạnh phúc và lúc bất hạnh, khi may mắn và lúc hiểm họa. Sự sống sự chết cận kề. Ai cũng sợ đau yếu bệnh họan và chết chóc. Ông trưởng hội đường tên Giairô đến sụp lạy và van xin Chúa Giêsu: Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống. Trên đường về nhà ông, có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết. Bà cũng cực khổ tìm thầy chạy thuốc. Bà tự nhủ: Miễn sao tôi được chạm tới áo Người thì tôi được lành. Bà đã chạm và bà đã cảm nhận sự chữa lành trong thân thể bà.
Chúa Giêsu chính là nguồn sự sống và có quyền trên sự sống. Con người là loài thụ tạo, khi đã tắt hơi thở hoàn toàn thì thân xác đi vào cõi tiêu diệt. Không có một quyền lực hay loại thuốc nào có thể cứu gỡ. Đã ra đi là ra đi vĩnh viễn. Con người đành bó tay trước sự chết. Chúa Giêsu nhìn vào sự chết như một giấc ngủ. Thánh Marcô diễn tả về quyền năng của Chúa:Người bước vào nhà và bảo họ: "Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! (Mc 5, 39). Nhiều người cười nhạo Ngài vì họ đã biết em bé đã tắt thở và đã chết. Nhưng Chúa Giêsu cầm lấy tay nó và nói: "Ta-li-tha kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!(Mc 5, 41).
Chỉ Đấng trao ban sự sống mới có quyền ban lại sự sống. Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho em gái sống lại trước mặt đám đông. Sự kiện cho kẻ đã chết được sống lại hoàn toàn mới lạ, vượt ra ngoài sự hiểu biết và suy nghĩ của con người. Đôi khi chúng ta nghe nói có những người đã chết nhưng được hồi sinh. Có những trường hợp con người đã chết lịm đi, hơi thở qúa yếu và các cơ quan lưu chuyển trong cơ thể hầu như ngưng đọng. Tin rằng sự sống vẫn còn hiện diện trong thân xác và họ từ từ được hồi sinh. Khi chúng ta có cơ hội chứng kiến những người trong lúc lìa trần, họ cố gắng hít khí vào phổi, nhưng chỉ thở hắt ra đôi lần. Sự cách biệt giữa sự sống và sự chết chỉ là hơi thở. Khi con người trút hơi thở là vĩnh viễn ra đi.
Chúng ta bước vào đời với hình hài một trẻ thơ bé bỏng. Chúng ta được nuôi nấng dưỡng dục, được học hỏi trau dồi kiến thức, được học làm người và học làm con Chúa. Mỗi người lãnh nhận những khả năng và nguồn vốn khác nhau. Điều quan trọng là chúng ta sinh lời không riêng cho chính mình mà chung cho đồng loại. Thánh Phaolô tông đồ trong thơ gởi tín hữu Corintô đã nhắc nhở rằng: Kẻ được nhiều thì cũng không dư, mà kẻ có ít, cũng không thiếu. Phaolô đã khích lệ tín hữu rằng anh chị em vượt trổi về mọi mặt về sự hiểu biết, lòng tin, sự nhiệt thành và lòng bác ái. Trồng người như trồng cây. Ai mà không mong cây trồng phát triển và sinh hoa trái. Con người có sứ mệnh cao qúi. Mỗi cuộc sống con người cũng phải sinh hoa kết trái cho đời. Người ta thường nói: Cọp chết để da, người chết để tiếng.
Chúng ta sẽ ra đi với hai bàn tay trắng nhưng không thể thiếu hành trang. Cuộc sống bên kia cần có nhiều phước báo và việc thiện như là hoa qủa cuộc đời. Phải tạo nhân tốt mới có qủa tốt. Có lòng bác ái vị tha, chúng ta mới có sự yêu thương ràng buộc. Sự sống rất quí giá và đáng sống. Mỗi giây phút sống trong cuộc đời đều là hồng ân. Chúng ta không có quyền tiêu diệt hay hủy hoại sự sống của người khác hay của chính mình. Ai cũng muốn sống hạnh phúc nhưng đôi khi chúng ta làm ngơ trước những hạnh phúc mà chúng ta đang thừa hưởng. Niềm vui và sự bình an nằm ngay trong cuộc sống hằng ngày. Hạnh phúc ví như một chiếc khăn tinh sạch, đôi khi có điểm vài vết nhơ sầu khổ. Vì quá chú trọng đến những chấm nhỏ buồn phiền của cuộc sống, để rồi có nhiều người bi quan cho rằng cuộc đời là bể khổ. Thực sự đời chỉ buồn khổ đối với những ai chấp ngã không dám buông bỏ.
Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống, xin cho chúng con biết sống xứng đáng với danh phận của con người. Chúa tác thành mọi sự cho có. Chúa tạo dựng con người để được sống hạnh phúc và thông phần sự sống vĩnh cửu.
44."Ai chạm đến Ta?"
(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CRM)
"Không ai có thế đến với tha nhân nếu chính mình không sẵn sàng chạm đến thân thể của họ. Nếu bạn không sẵn sàng chạm đến một người vô gia cư, một người say rượu hoặc một người thật dơ bẩn, thì chính bạn không sẵn sàng phục vụ cho những người đó." (Nhà Tâm Lý Học Charles Gerkin, Đại Học Emory)
Một cử chỉ chạm, một cái ôm và những cử chỉ êm dịu trực tiếp đụng đến thân thể của tha nhân bày tỏ tình yêu thương và chấp nhận họ cách mãnh liệt hơn những lời nói ngọt ngào có thể đem lại được. Cử chỉ chạm là con đường hai chiều: nó ảnh hưởng đến người thụ động cũng như người chủ động.
Trong cuộc sống, chúng ta, ai cũng đã từng đóng vai chủ động và thụ động; nghĩa là ta đã từng chạm đến người khác cũng như được người khác chạm đến. Tôi nhớ lại những lần viếng thăm nhà dưỡng lão cũng như những tháng làm Tuyên Úy trong nhà thương. Mỗi khi đến thăm những người cô đơn cũng như bệnh nhân, họ đều muốn nắm tay tôi khi nói chuyện. Có những lần tôi cầm tay họ cho đến hơn một tiếng mà họ vẫn chưa muốn buông thả. Qua đó, tôi nhận thấy rằng một cử chỉ nhỏ mọn như cầm tay hoặc xoa nhẹ trên vai đều mang lại cho người được chạm cũng như chính tôi một sự bình an, niềm vui và sức sống mới.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô cũng tả lại hai cử chỉ chạm. Trước hết, người đàn bà bị bệnh xuất huyết hành hạ 12 năm chạm đến Chúa Giêsu. Kế đến là Chúa Giêsu chạm đến em bé gái 12 tuổi. Cả hai cái chạm đều mang lại sự sống và niềm vui cho người chạm cũng như người được chạm. Người đàn bà bệnh đã 12 năm chạm đến Chúa và được chữa lành. Em bé 12 tuổi được Chúa chạm đến được hồi phục sự sống. Trong hai câu truyện, Marcô có đề cập đến một chi tiết giống nhau mà ta cần chú ý, đó là chi tiết 12 năm.
Theo phong tục thời đó, tuổi 12 là tuổi được lập gia đình. Cô bé đã chết trước khi được trở nên một người vợ và người mẹ. Người đàn bà bị bệnh hành hạ làm cho không thể sinh con. Cả hai đều có khả năng cộng tác với Chúa để mang sự sống vào thế gian, nhưng một người bị bệnh hành hạ và một người bị cướp mất chính sự sống. Nhưng, nhờ hai cử chỉ đụng chạm, Chúa Giêsu đã không chỉ cứu hai người nữ này khỏi chết, nhưng đã hồi phục chọ họ khả năng sinh con, một khả năng ban sự sống.
Ta cũng nên nhớ là không phải ai chạm đến Chúa cũng được khỏi. Đám đông chạm đến Chúa nhưng không gì xảy ra. Ngược lại, người đàn bà chạm đến Chúa đã mang lại một phép lạ. Điều khác biệt giữa hai cái chạm là mức độ ĐỨC TIN. Người đàn bà tin mạnh nên được khỏi và đám đông chỉ chạm đến Chúa vì hiếu kỳ nên không gì xảy ra.
Trong cuộc sống hằng ngày, ta chạm đến nhiều người cũng như được nhiều người chạm đến ta. Nhưng, thử hỏi ta chạm đến tha nhân bằng cách nào? Cử chỉ chạm của ta đem lại cho họ một niềm vui, sự bình an và an ủi hay chỉ là một cái chạm thông thường?
Đặc biệt hơn nữa, nếu Chúa Giêsu xuất hiện, đi ngang qua và ta có cơ hội để chạm đến gấu áo của Ngài, ta sẽ chạm đến Ngài với một thái độ hiếu kỳ như đám đông hay với một ĐỨC TIN, như của người đàn bà trong Tin Mừng, là mình sẽ được biến đổi? Thật sự, Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta và chúng ta có cơ hội không chỉ chạm đến gấu áo Ngài, nhưng là chính thân thể Ngài. Đây chính là đặc ân ta được hưởng mỗi khi dự Lễ và rước Chúa vào lòng. Chúng ta đã rước Chúa với thái độ nào?
Xin Lời Chúa hôm nay giúp ta ý thức được đặc ân này và tham dự Thánh Lễ chăm chỉ, dọn mình sốt sàng để rước Chúa vào lòng. Nguyện xin Mẹ Maria, người đã không chỉ được chạm đến Chúa nhưng còn được mang chính Chúa trong lòng, giúp ta luôn biết đặt hết tâm hồn và tấm lòng vào những lời ta đọc trước khi rước Chúa, "Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh."
45.Đừng sợ, chỉ hãy tin
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Hai câu chuyện chữa hai “con gái” (thygatèr) (5,34.35) được lồng vào nhau: một người được xem như đã chết (5,2-24. 35-43), một người mang bệnh băng huyết (5,25-35). Người con gái nhỏ ở tại nhà và người cha là trưởng hội đường đến cầu cứu Chúa Giêsu; trong khi, người phụ nữ bị bệnh băng huyết đích thân tìm đến Người và được Người chữa lành tại chỗ. Trong cả hai người, quyền năng phục hồi sự sống của Người đã tỏ hiện; và chỉ có họ - và những người rất thân thiết - được chứng kiến hiệu quả lạ lùng của quyền năng nầy (x. 5,29.40), tuy dân chúng ở bên Người rất đông. Cấu trúc của hai đoạn nầy: Câu chuyện chữa lành người phụ nữ bị bệnh băng huyết (5,25-34) được xen giữa câu chuyện Chúa Giêsu làm cho người con gái của ông Giairô chỗi dậy (5,21-24;35-43). Việc Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ bị băng huyết là dấu hiệu đi trước tiên báo Chúa sẽ cho người con gái của Giairô sống lại.
Bệnh tình của người phụ nữ bị băng huyết là vô phương cứu chữa. Đã “mười hai năm” bà “khổ sở nhiều”, “chạy nhiều thầy thuốc”, nhưng kết qủa là bệnh càng “thêm trầm trọng”. Con người đã bất lực. Điều nầy làm nổi bật quyền năng của Chúa Giêsu khi Người chữa bà lành bệnh. Người có thể làm điều không thể thực hiện đối với con người. Tuy nhiên, để được chữa lành, bà cần có hy vọng và lòng tin vào Người. “Nghe nói về Người” là hy vọng thúc giục bà tìm đến Người (c. 27). Việc bà chạm đến áo Người biểu lộ lòng tin của bà vào Người; rất khác và rất phân biệt với việc dân chúng chen lấn và đụng chạm vào áo của Người, mà các tông đồ không thể nhận ra (x. 5,31). Chúa Giêsu đã nhận ra điều nầy và biết cả quyền năng chữa bà lành bệnh phát xuất ra từ Người. Người đã không đặt tay trên đầu bà để chữa bà lành bệnh (x. 5,23; 3:10, 6,56), nhưng chính lòng tin của bà đã kéo đến trên bà quyền năng chữa lành bệnh từ Chúa Giêsu. Lúc nầy đức tin đã cứu bà một cách dứt khoát không phải là khỏi tội, mà khỏi hậu quả của nó. Cũng bởi lòng tin nầy mà bà được gọi là “con gái”, nghĩa là được kể như là một thành phần trong gia đình Thiên Chúa; chữ nầy cũng được dùng để nối kết phần tiếp theo.
Tình trạng của người con gái của ông Giairô cũng không thể cứu vãn được. Trên đường Chúa Giêsu đến nhà ông thì nghe tin về cái chết của người con gái. Câu “không muốn làm phiền Người” tỏ lộ sự thất vọng và bất lực của những người đến báo tin (c. 35). Điều ấy càng được thấy rõ hơn trong sự náo động và than khóc của họ (cc. 38-39). Chính vì thế mà Chúa Giêsu nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, nhưng hãy tin” (c. 36). Điều nầy hàm ý là ông trưởng hội đường vì đã chứng kiến người phụ nữ bị băng huyết đã được chữa lành nhờ tin vào Chúa Giêsu, ông cũng phải tin vào Người để người con gái của ông được chữa lành. Và bởi thấy ông bị xao động, Chúa Giêsu đã ra lệnh ông “hãy tin”. Thêm một lần nữa, quyền năng của Chúa Giêsu được tỏ hiện trong sự tuyệt vọng của con người. Người phục hồi lại sự sống cho đứa bé gái bằng cách cầm lấy tay và nâng dậy; như thể em vẫn còn sống. Người làm việc nầy cùng một cách thế như Người đã làm cho bà mẹ vợ của ông Phêrô (1,31), cho em bé trai bị quỷ ám (9,26-27). Việc phục hồi sự sống đầy quyền năng nầy có hiệu quả “tức thì”, không cần nhiều thời gian để được thực hiện (1,42; 2,12; 7,35). Đi lại được là dấu hiệu đã được chữa lành (x. 2,9). Kết luận cuối cùng của Marcô là những người chứng kiến phép lạ đều đầy kinh ngạc (c. 41; x. 1,27; 4,41).
Chúa Giêsu tiếp tục tỏ mình ra cho các môn đệ của Người bằng những việc quyền năng để họ có thể tin vào Người. Việc quyền năng lớn lao hơn cả là chính Người sống lại từ cõi chết; nhờ đó họ tin Người chính là Con Thiên Chúa.
46.Căn nguyên ‘sinh lão bệnh tử’
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Trong đời sống, chúng ta thường tự hỏi một số câu hỏi căn tính như: Sống để làm gì? Sự chết từ đâu mà ra? Chết rồi sẽ ra sao? Tại sao phải gian nan khốn khó?…Và nhất là ngay thời điểm dịch bệnh cô-vi còn đang hoành hành khắp nơi, mọi nghi vấn, vấn nạn lại trở nên gay gắt hơn!
Lắm lúc, là người Công Giáo, chúng ta cũng hiểu sai, hiểu lầm rằng: sự chết cũng được Thiên Chúa tạo dựng chăng? Mọi bất trắc, đau khổ do Thiên Chúa làm ra để thử thách chúng ta?…Tuy nhiên, khi đọc bài đọc I trích sách Khôn Ngoan, chúng ta dám khẳng định: “Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết” (Kn 1, 13). Ý định nguyên thuỷ của Ngài chẳng phải những gì đang diễn ra, vì “Ngài tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian” (Kn 1, 14). Tác giả sách Khôn Ngoan đã xác tín, chỉ ra cho tất cả chúng ta thấy được Thánh ý của Chúa từ khởi nguyên: “Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn” (Kn 2, 23). Dù là Thiên Chúa quyền năng, cao cả, giàu sang phú quý, nhưng Ngài muốn chia san chân-thiện-mỹ nơi mình cho con người, và đã tạo dựng phàm nhân theo hình ảnh của Ngài, đồng thời giống như Ngài, cụ thể: con người có tự do, mọi quyền căn bản, lý trí để truy tầm sự thật, tìm ra Chân lý tối thượng chính là Thiên Chúa; và con người được ban cho ý chí, ngõ hầu biết yêu thương, cảm nhận được yêu thương, để ôm trọn chính Tình yêu tuyệt đối (là Thiên Chúa).
Thế nhưng, hạnh phúc nguyên thuỷ ấy bị tan vỡ do sự khước từ, bất trung, tính kiêu ngạo muốn trở thành chúa của bản thân để quyết định thiện-ác, tốt-xấu, sống-chết,…vốn là quyền hạn của Thiên Chúa mà thôi. Do đó, tội lỗi đã xâm nhập vào thế giới thiện lành, con người tốt lành thuở ban đầu, và sự chết, đau khổ, bệnh tật…cũng không nằm ngoài hậu quả của tội lỗi, “bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó” (Kn 2, 24). Thiên Chúa thấu hiểu sự yếu đuối, hay sa ngã của con người, nhưng Ngài vẫn tin tưởng con người vốn là hình ảnh của mình, nên đã không bỏ mặc họ, hoặc trao án phạt nhãn tiền muôn đời, như Ngài đã trừng phạt Lu-ci-phe và các thiên thần sa ngã một lần mãi mãi. Thiên Chúa trung thành với lời hứa ban Đấng Cứu Độ, và Ngài chuẩn bị một cách công phu chu đáo cho chương trình yêu thương, cứu rỗi con người, bằng cách “…vào thời ấn định, Ngài đã sai Con Một đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ…” (x. Ga 3, 17). Với sứ mệnh đó, dù đi tới đâu, Đức Giê-su luôn mang niềm vui giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi bệnh tật, khỏi khổ đau, khỏi những gì con người phải chịu do tội lỗi gây ra: già cỗi, bệnh tật, đau khổ, cái chết. Vì vậy, khi Đức Giê-su làm phép lạ chữa lành, không vì mục đích cho bản thân nổi tiếng, hoặc mọi người biết tới, nhưng qua giáo huấn và phép lạ, Ngài muốn cho tất cả biết rằng: Thiên Chúa hằng yêu thương, hằng nâng đỡ, chở che, tha thứ, giải thoát, cứu độ con người, dù họ chẳng xứng đáng với tình yêu ấy, “vì tôi tự trời mà xuống không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi…Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy Người Con và tin vào Người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (x. Ga 6, 38. 40).
Thưa anh chị em, hôm nay, điều này được minh chứng rõ ràng trong bài Tin Mừng: trên đoạn đường đến nhà ông trưởng hội đường Giai-rô, để chữa lành cho con gái ông đang nguy tử, Đức Giê-su chứng kiến lòng tin mạnh mẽ của một người đàn bà bị bệnh băng huyết mười hai năm, và Ngài đã chữa lành cho cả hai, mang lại sự sống cho họ, mang lại niềm vui khôn tả cho họ. Mở ra con đường biết tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa, thì mọi việc, dù vô vọng đối với con người, nhưng “không có gì là không thể đối với Chúa” (x. Lc 1, 37). Con người chúng ta dường như tuyệt vọng khi đứng trước giới hạn của mình, của khoa học dù phát triển vượt bậc tới đâu! Tuy nhiên, nếu chúng ta biết tín thác, ký thác đường đời cho Chúa, thì vẫn hy vọng, cậy trông, chờ mong thực thi theo Thánh ý, theo thời điểm của Ngài. Cụ thể, ông trưởng hội đường Giai-rô chẳng tuyệt vọng như những người xung quanh tụ họp nơi nhà ông thốt lên rằng: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa” (Mc 5, 35), và còn tệ hơn “họ chế giễu Ngài” (Mc 5, 40) khi nghe Đức Giê-su nói: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó” (Mc 5, 39). Ông đặt niềm tin tuyệt đối nơi Đức Giê-su, “trông thấy Ngài, ông sụp lay và van xin: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống” (Mc 5, 22-23). Còn bà bị bệnh xuất huyết ròng rã mười hai năm, tin chắc khi tự nhủ với bản thân rằng: “Miễn sao tôi chạm tới áo Ngài thì tôi sẽ được lành” (Mc 5, 28). Dù phải chịu cực khổ đến nỗi thất vọng, tìm thầy thuốc chữa trị, tiền hết mà bệnh chẳng thuyên giảm chút nào, trái lại càng trầm trọng, nhưng bà vẫn một lòng tin tưởng vào Đức Giê-su. Khi nghe nói về Ngài, bà liền hoà mình trong đám đông, thầm ước chạm tay đến gấu áo Ngài thì sẽ được chữa lành. Đức tin vào Đức Giê-su đã khiến hai con người này vượt thắng tuyệt vọng, vốn dễ bị rơi vào khi đối diện với sự đau khổ tột cùng, bệnh tật hiểm nghèo và cái chết. Hơn nữa, lời xác quyết của Đức Giê-su khi nói với bà: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh” (Mc 5, 34), và tiếng Ngài gọi khi chữa lành con gái ông Giai-rô đang hấp hối: “Talithakum", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy trỗi dậy!” (Mc 5, 41) cho chúng ta thấy, khi chữa lành, Đức Giê-su không đòi hỏi bất cứ điều gì ngoài niềm tín thác và lòng cậy trông vào Ngài, đồng thời phải trở nên nhân chứng bác ái-tha thứ-chia san với tha nhân.
Hành động yêu thương này phải được chứng thực cụ thể qua việc sống quảng đại, thực thi phúc đức trong dịp lạc quyên như Thánh Phao-lô nhắc nhở giáo đoàn Cô-rin-tô: “…anh em vượt trổi về mọi mặt: về lòng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết, về mọi hình thức nhiệt thành, cũng như về lòng bác ái của anh em, thì anh em cũng phải vượt trổi trong dịp lạc quyên này nữa” (2Cr 8, 7). Chẳng phải do sáng kiến rộng lượng của chúng ta mà thôi, nhưng tiên vàn vì Đức Giê-su, Chúa chúng ta đã nên thân phận nghèo khó, mặc dù giàu sang, để nhờ việc nghèo khó của Ngài, chúng ta nên giàu có, ngõ hầu chia sẻ với anh chị em khác. Sau cùng, “kẻ được nhiều, thì cũng không dư; mà kẻ có ít, cũng không thiếu” (2Cr 8, 15) bắt nguồn từ bản chất ân ban-chia sẻ của Thiên Chúa đối với nhân loại, chứ chẳng giống như bao khẩu ngữ sáo rỗng của một số triết thuyết xã hội rêu rao. Thiên Chúa - Đấng rộng lượng, khoan nhân, Ngài hướng đến và chia san với con người; vì vậy, là những người tin vào Ngài, chúng ta cũng trở nên quảng đại cho đi với cả tấm lòng, và không mong đền đáp, vì “ai lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không” (Mt 10, 8b). Ước gì, đức tin được lớn lên dựa trên đức cậy, và được biểu lộ sống động qua đức ái nơi đời sống thường nhật.
Cảm tạ Chúa với lòng tín trung
Cảm tạ Chúa với niềm trông cậy
Cảm tạ Chúa với cả yêu thương
Cảm tạ Chúa tận sâu thẳm hồn con. Amen!
47.Chúa Nhật 13 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta nghe hai phép lạ của Chúa Giêsu: Phép lạ Chúa làm cho một người phụ nữ bị bệnh băng huyết 12 năm được khỏi và phép lạ cho em bé gái 12 tuổi chết được sống lại: hai con số 12: 12 năm bệnh và 12 năm tuổi - Cả hai phép lạ Chúa thực hiện đều do lòng tin. Tuy là hai phép lạ lớn nhưng Chúa cố gắng thực hiện cách kín đáo. Xin nói rõ hơn về lòng tin của họ như sau:
- Ông Trưởng hội đường: Ông tới gặp Chúa Giêsu và sụp lạy dưới chân Chúa đồng thời nói lên lời van xin: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay lên nó để nó được khỏi và được sống". Chúng ta thấy ông xưng ra lòng tin Chúa Giêsu một cách công khai trước mặt mọi người đồng thời chúng ta cũng thấy lòng khiêm tốn của ông khi ông sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu - Nhưng khi người nhà tới bá cáo: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa". Lúc này lòng tin của ông bị thử thách trở nên nao núng chới với, nhưng Chúa Giêsu an ủi ông: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin" Nhờ đó mà điều ông xin vẫn được như lòng ông tin tưởng. Cũng như sau này Chúa Giêsu an ủi bà Matta vì Lazarô chết, trước khi Chúa cho Lazarô sống lại thì Chúa cũng nói với Matta: "Nếu con tin thì con sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa" (Ga 11, 40).
- Người đàn bà bệnh rong huyết. Theo luật Do thái, đàn bà mắc bệnh này bị coi là ô uế, do đó bà chen lấn vào đám đông và không dám đụng chạm tới Chúa, chỉ mong sao được rờ đến gấu áo Chúa cách kín đáo thôi thì bà tin mình sẽ được khỏi và bà đã làm được điều bà mong muốn là chạm được gấu áo từ phía sau lưng Chúa. Đám đông chen lấn Chúa chắc chắn có nhiều người đụng vào Chúa như các tông đồ nêu lên nhận xét đó nhưng chỉ có đàn bà này được khỏi chứng bệnh nan y bà đã phải chịu suốt 12 năm vì bà có lòng tin. Khi bà đụng vào gấu áo Chúa thì Chúa Giêsu thấy có sức mạnh phát xuất từ Chúa, nên Chúa quay lại hỏi: "Ai đã chạm tới Ta?". Bà run sợ vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình. Chắc chắn bà đã sẵn sàng nhận lời quở trách của Chúa Giêsu, nhưng: không những Chúa không mắng bà mà Chúa còn đề cao đức tin của bà, an ủi bà khi Chúa nói với bà: "Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh". Như vậy bà được chữa lành không phải vì đã sờ gấu áo Chúa mà vì đức tin của bà vào Chúa Giêsu khi Chúa nói: "Đức tin của con đã cứu chữa con".
Như thế chúng ta thấy cả ông Giarô trưởng hội đường và người đàn bà bị bệnh nan y đều có lòng tin chân thành đối với Chúa và cũng có lòng khiêm nhượng nữa khi làm cử chỉ sụp lạy trước chân Chúa, người đàn bà thì sụp lạy sau lưng Chúa.
Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao Chúa Giêsu lại nói: "Con bé không chết đâu, nó ngủ đó" trong khi bà con mọi người đều biết nó đã chết nên họ mới kêu la khóc lóc om sòm và khi nghe CG nói nó ngủ đó thì họ cười nhạo Chúa. Cũng như sau này khi Chúa Giêsu nghe tin Lazarô chết, thì Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Lazarô, bạn chúng ta đang ngủ tuy vậy Ta sẽ đi đánh thức anh ấy dậy"(Ga 11,5). Các môn đệ thưa: "Nếu anh ấy ngủ thì anh ta sẽ khỏe lại" vì các môn đệ không hiểu ý Chúa nói nên Chúa phải nói rõ: "Lazarô đã chết rồi"(Ga 11, 14) Như vậy theo quan niệm của Chúa Giêsu thì cái chết được coi như là giấc ngủ và ngủ thì sẽ có ngày chỗi dậy. Con người chúng ta ai nấy đều phải chết. CG cũng phải chịu chết nhưng đến ngày thứ ba Chúa chỗi dậy, chúng ta chết nhưng sẽ có ngày Chúa cho sống lại đó là ngày sau hết, ngày tận thế khi Chúa cho xác loài người được sống lại như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Khi Chúa Giêsu cho bé gái sống lại: Chúa làm một cử chỉ đơn giản là cầm tay em và nói: "Talitha Koumi nghĩa là: Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy". Thánh sử Maccô ghi lại tiếng Aram là chính ngôn ngữ Chúa Giêsu nói khi đó rồi mới dịch ra tiếng Hi lạp.
Qua hai phép lạ này, chúng ta thấy CG có quyền ban sự sống và chữa lành bệnh tật. Chết chóc bệnh tật là hậu quả của tội lỗi và kiếp sống con người, Chúa nâng đỡ chúng ta chứ Chúa không phá hủy chết chóc bệnh tật khỏi cuộc sống nhân thế. Chúng ta đến với Chúa để được Chúa nâng đỡ bổ sức cho nhưng điều cần thiết Chúa đòi là ta phải có lòng tin và khiêm nhường như ông Giarô trưởng Hội đường và người đàn bà bị bệnh băng huyết hôm nay đã bày tỏ trước mặt Chúa.
Mẹ Têrêsa Calcutta được giải thưởng Nobel về Hòa bình nên có những nhà báo tìm đến phỏng vấn Mẹ. Có một phóng viên vô thần và không có cảm tình với giáo hội Công giáo đến gặp Mẹ. Mẹ mở đầu nói ngay với ông: - Ông nên có đức tin - Ông đáp: tôi phải làm gì để có đức tin - Mẹ đáp: Ông hãy cầu nguyện - Tôi không biết cầu nguyện và không thể cầu nguyện - Tôi sẽ cầu nguyện cho ông nhưng ông phải cố gắng mỉm cười với những người xung quanh ông. Nụ cười sẽ đánh động được tâm hồn người khác và điều này sẽ giúp người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời chúng ta.
Ông phóng viên đón nhận những lời chân tình Mẹ Têrêsa nói và có lẽ sẽ có sự chuyển biến trong cuộc sống của ông.
Nguyện xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết đến với Chúa với lòng tin và khiêm tốn để chúng ta nhận được nhiều hồng ân phần hồn phần xác Chúa ban như Chúa đã ban cho người đàn bà bị bệnh nan y và ông Giairô trong Tin Mừng hôm nay. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam