Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 42
Tổng truy cập: 1362355
HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI
HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Truyền thống giáo dục trong mọi nền văn hóa đều nhấn mạnh đến sự vâng lời, trong gia đình con cái phải vâng lời cha mẹ, học trò vâng lời thày cô, người dưới vâng lời bề trên. Có người hỏi tại sao phải vâng lời cha mẹ và người trên? Thưa vì cha mẹ là người sinh ra ta và là người yêu thương ta và nhiều kinh nghiệm hơn ta. Đặc biệt với văn hóa Á đông việc vâng lời ông bà cha mẹ thày cô được nâng lên thành Đạo. Do đó một người con ngoan, thảo hiếu là người con biết vâng lời và làm theo lời dạy bảo của cha mẹ, bậc cha mẹ thì cảm thấy vui và hạnh phúc khi có những đứa con biết ngoan ngoãn vâng lời, và hãnh diện khoe với mọi người về sự thảo hiếu của con mình.
Cũng trong truyền thống văn hóa Á đông này, hôm nay có thể nói, Thiên Chúa tự hào về Người Con của mình là Đức Giêsu, Ngài đã “khoe” với mọi người: Đây là con ta rất yêu dấu, đẹp lòng ta, các ngươi hãy nghe lời Người.
Thưa quý OBACE, bước vào Chúa nhật thứ hai mùa chay, Lời Chúa mời gọi chúng ta học nơi Chúa Giêsu, đó là vâng nghe lời Thiên Chúa và trở thành người con làm đẹp lòng Thiên Chúa, có thái độ của một trẻ thơ, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa và vâng nghe lời Đức Giêsu dạy. Nghe là thái độ của một người con đối với lời dạy bảo của cha mẹ, của học trò đối với thày cô, nhưng nghe cũng có nhiều cấp độ, vì có khi tai chúng ta cố tình đóng lại thì chúng ta không thể đón nhận được âm thanh, hoặc có thể có nghe, nhưng không chú tâm, không hiểu, nên lời nói không đi vào được trong tâm hồn. Hôm nay Chúa muốn chúng ta có một thái độ chú tâm hơn đó là lắng nghe và tích cực hơn nữa, đó là biết vâng nghe lời Chúa. Lắng nghe là chú ý để nghe, để hồn tĩnh lặng đón nhận, và vâng nghe, là nghe và đón nhận trong thái độ khiêm tốn, tin tưởng và thực hành như một em bé vâng nghe theo lời chỉ bảo của cha mẹ.
Vâng nghe lời Chúa, đòi phải có một thái độ sẵn sàng, phó thác và từ bỏ ý riêng của mình, hoàn toàn tin tưởng vào lời của Chúa, và không cần biết lý do tại sao, vâng nghe là thái độ chấp nhận, thực hành, dù có nhiều điều mình chưa thể hiểu hết. Bài đọc một đã cho chúng ta một tấm gương về sự vâng nghe Lời Chúa của ông Abraham. Khi đó Abraham là một người giàu có, nhiều của cải đất đai và súc vật, thế mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với ông: Người hãy bỏ xứ sở, họ hàng nhà cha ngươi, mà đi tới đất ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, và sẽ chúc phúc cho ngươi. Với một lời mời gọi dường như mơ hồ như thế, vậy mà Abraham đã dám bỏ lại tất cả để lên đường đi theo lời chỉ dạy của Chúa, ông chấp nhận bỏ lại đàng sau ruộng đất, nhà cửa, cha mẹ, anh em, để đi đến một miền đất vô định chưa biết ở đâu, tất cà còn ở thì tương lai, vậy mà ông cũng không hỏi Chúa một câu nào, chỉ biết vâng theo để lên đường. Chính từ thái độ ngoan ngoãn vâng lời như thế mà Thiên Chúa chúc phúc cho ông, trở nên bạn hữu với ông, và còn bênh vực ông: Ta chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi, và nguyền rủa những ai nhục mạ ngươi.
Trong Tin Mừng hôm nay, trước khi bước vào cuộc tử nạn thập giá, để củng cố đức tin cho các tông đồ, Chúa Giêsu cho các môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến giây phút hiển dung, chứng kiến gương mặt thánh thiện sáng ngời của mình để động viên tinh thần và củng cố lòng tin cho các ông. Các tông đồ hết sức ngỡ ngàng, đang khi còn ngây ngất với vinh quang ấy, thì có tiếng Thiên Chúa Cha, nói với các ông từ đám mây: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài. Thiên Chúa Cha hài lòng về sự vâng phục của Đức Giêsu, vì Ngài đã không chọn theo ý riêng mình, mà chọn sự vâng phục Thiên Chúa để đón nhận con đường cứu độ bằng thập giá. Còn các tông đồ, mặc dù đã đi theo Chúa nhiều năm, nhưng các ông vẫn chọn lựa theo kiểu thế gian, tìm kiếm quyền lực theo kiểu trần gian, chưa sẵn sàng để chấp nhận một Đấng Mêsia phải chịu đau khổ nhục nhã. Trong khi đó Chúa Giêsu cũng đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa Cha dẫn dắt và định liệu cho cuộc đời mình, dù có những lúc Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ để tìm một con đường riêng cho mình, như chúa nhật tuần trước chúng ta đã suy niệm, nhưng cuối cùng Ngài đã dùng Lời của Chúa, lời Kinh Thánh để chống trả lại cám dỗ đó, và sẵn sàng bước theo con đường của Chúa Cha đã định.
Các tông đồ khi chứng kiến vinh quang của Chúa, thì các tông đồ đã hạnh phúc ngây ngất, và muốn kéo dài tình trạng hạnh phúc này và quên đi thực tế trước mắt, nên các ông đã xin dựng ba lều để được ở lại trên núi, trốn tránh những thực tại của cuộc sống: Nếu Thày muốn, chúng con xin dựng ba lều. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho các tông đồ, qua biến cố này được thêm lòng tin để đón nhận cuộc khổ hình sắp tới mà chúa sẽ bước vào. Cuộc khổ hình này chắc chắn rất kinh khủng và vượt quá khả năng tưởng tượng của các ông, và vì thế các ông cần phải có một thái độ sẵn sàng, vâng phục. Chính vì thế có tiếng Chúa Cha từ trời nói với các ông: Hãy vâng nghe lời Người. Qua lời này, Chúa Cha một lần nữa muốn các tông đồ tin và đón nhận lời của Đức Giêsu như một vị Thiên Chúa và là Đấng Mesia cứu thế, như con cái nghe lời cha mẹ, nhưng học trò vâng lời thày.
Từ trên núi xuống, Đức Giêsu bắt đầu nói với các ông về việc Con Người sẽ bị khổ hình và sẽ từ cõi chết sống lại. Chắc chắn lúc đó các tông đồ chưa hiểu hết những điều Chúa nói trước về cuộc khổ nạn, phần vì các ông không muốn nghe, phần vì dù có nghe, nhưng không muốn chấp nhận, để đón nhận và vâng nghe lời Đức Giêsu, để loan báo về Đức Giêsu và cuộc khổ nạn của Người, thì cần phải dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa. Cũng giống như ngày xưa Chúa đã gọi Apraham và làm cho ông trở thành cha của một dân tộc đông đúc, giống như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng nghe theo lời của Thiên Chúa để cứu độ nhân loại bằng con đường thập giá, thì chúng ta cũng được kêu gọi để trở thành dân thánh của Thiên Chúa, trở nên những người thuộc về Đức Kitô, làm theo gương của Đức Giêsu và lời dạy của Ngài.
Thưa quý OBACE, Vâng nghe lời Chúa luôn là một thách thức cho chúng ta, vì nhiều khi Lời Chúa không như ý chúng ta muốn, có khi còn ngược lại với ý của chúng ta, có khi Lời Chúa đụng chạm đến những góc tối, những vết thương trong tâm hồn, khiến chúng ta sợ không dám để cho Lời Chúa đụng vào. Lời Đức Giêsu luôn đòi chúng ta từ bỏ và hy sinh, trong khi cuộc sống và xã hội lại khuyến khích chúng ta chạy theo sự thỏa mãn dễ dãi, chạy theo tiền bạc và danh vọng. Trong khi xã hội cổ võ lối sống tự do hưởng thụ, thì Chúa lại đòi chúng ta vác thập giá mình hằng ngày, vì thế mà chúng ta luôn bị giằng co, và đòi chúng ta phải quyết định chọn lựa.
Trong bổn phận làm vợ làm chồng, làm cha mẹ, sinh sản và giáo dục con cái, hãy vâng nghe Lời Chúa và các giáo huấn của Giáo Hội, phó thác tương lai của mình và gia đình cho Chúa để Chúa dẫn dắt, hãy vâng nghe Lời Chúa để làm chuẩn mực cho đời sống và cho công việc của mình, đừng để sự gian dối, tham lam điều khiển cuộc sống của mình, đừng để cho sự lười biếng bê tha rượu chè, cờ bạc làm trì trệ cuộc sống của gia đình, gây ra bất hòa bất hạnh cho nhau.
Cuộc sống sung túc, tiện nghi ngày hôm nay cũng đang là một cản trở khiến nhiều bạn trẻ khó có thể nghe được Lời Chúa, những âm thanh và cuộc sống ồn ào náo nhiệt khiến cho nhiều người không còn một khoảng lặng nào trong ngày để nhìn lại cuộc sống mình, những hấp dẫn và mời chào của xã hội khiến cho nhiều người từ chối Lời của Chúa, không chấp nhận thập giá và không dám vâng theo,… tất cả những điều đó đang là thách thức cho các bạn trẻ Công giáo trong đời sống đức tin.
Đức Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc vâng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, xin Mẹ cũng giúp mỗi chúng ta biết noi gương Mẹ, tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, sống xứng đáng là những người con ngoan, thảo hiếu, vâng lời Thiên Chúa. Amen.
66.Vinh quang Thiên Chúa
Anh chị em thân mến,
Ở ngay giữa mùa buồn (Mùa Chay), Hội thánh lại cho chúng ta nghe một câu chuyện vui mang lại niềm hi vọng cho người Kitô hữu: Câu chuyện Chúa biến hình trên núi Tabor. Vậy đâu là ý nghĩa của nó? Cuộc biến hình này xảy ra khoảng tháng 8 năm 29, trên ngọn núi Tabor (theo truyền thống kể lại; giữa Nadareth và mạn Nam hồ Tibêriađê, miến Bắc Galilêa...). Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Một vài điểm chúng ta cần lưu ý.
Đây là một phép lạ hiếm hoi trong nhiều phép lạ Chúa Giêsu làm; mục đích sau khi công bố cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu, và thấy phản ứng thảm nảo của các môn đệ, Chúa Giêsu tỏ vinh quang Người qua phép lạ biến hình, để củng cố lòng tin cho các ông, để họ an tâm theo Chúa và vâng nghe lời Chúa dạy.
Điểm khác: khi Chúa biến hình, xuất hiện Môisen và Êlia, hai nhận vật trong Cựu Ước. Môisen, sống cách Chúa Giêsu đến 1250 năm. Êlia, lối 900 năm. Một người đại diện cho Luật pháp, một người đại diện cho tiên tri, như là sứ giả của Thiên Chúa. Viêc này xác nhận vai trò của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế đã được loan báo trong Cựu Ứớc, muôn dân đang trông đợi. Trong khi biến hình, câu chuyện của ba vị nói với nhau, cũng là nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sắp tới...
Khi các vị còn đang nói, thì có một đám mây bao phủ, và từ trong đám mây có tiếng phán, đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người. Đám mây nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa, như khi Môisen dẫn dân Do thái qua sa mạc. Tiếng nói của Chúa Cha, là để xác nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, luôn vâng phục và luôn đi theo chương trình cứu rổi nhân loại của Chúa Cha đề ra...
b/. Tại sao Chúa Giêsu để mình biến dạng, tỏ vinh quang Thiên tính mình ra cho môn đệ được thấy, một điều mà bao lâu nay Chúa Giêsu hằng giấu kín? Đây còn là mầu nhiệm; tuy nhiên, có điều chúng ta vẫn có thể hiểu được phần nào. Chúa Giêsu vì sứ mạng được Chúa Cha giao phó, đã che giấu tất cả uy quyền vinh hiển của một Thiên Chúa, trong thân phận của một con người bình thường. Như bao nhiêu người khác, Người vẫn gặp thử thách, cám dỗ, khó khăn. Người cũng vẫn lo buồn, sợ hãi trước ám ảnh của cái chết khủng khiếp mà Người phải chịu. Dù vậy, Chúa vẫn luôn vui lòng đón nhận và làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Chúa biết việc mình làm; Chúa quyết tâm hoàn tất chương trình cứu rổi đã được vạch ra...Lúc này đây, để củng cố niềm tin cho các môn đệ, Người tỏ một chút vinh quang Thiên Chúa cho họ thấy, để họ an tâm, xác tín vào chương trình tốt đẹp của Thiên Chúa và sẵn sàng tiến bước theo Người.
Thiên Chúa muốn chúng ta biến hình như Chúa Giêsu: rõ ràng chúng ta được sinh ra và được cứu chuộc không phải để hư mất đời đời, mà là để được biến hình vinh quang trong địa vị là con cái Thiên Chúa. Dĩ nhiên ở trần gian, người ta không thấy không hiểu được linh hồn sạch tội, đẹp đẽ thế nào, và chắc chắn nó phải đẹp đẽ, vì nó là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa tinh ròng, sáng láng, tuyệt mỹ, vô tỳ tích. Các thánh nói: nếu Chúa cho người ta thấy được một linh hồn tinh sạch hoàn toàn, đẹp đẽ và sáng láng thế nào, người ta sẽ không dám phạm tội, và cũng không còn ao ước ở trần gian nữa...Vì thế, biến cố Chúa biến hình chính là để loan báo cho chúng ta cuộc biến hình mai sau sáng láng trên nước trời.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu vì để cứu chuộc nhân loại, đã đành nhận thân phận một con người y như ta để gánh lấy tội ta, và thay ta đền tội trước mặt Chúa Cha. Dù vậy Người chính là Chúa Con, quyền năng ngang hàng như Chúa Cha. Chúng ta có tin Người là Thiên Chúa không? Câu chuyện biến hình này xác nhận điều đó.
67.Gọi điện thoại trong địa phương
Một người cao cấp trong ngành kinh tế Hoa-Kỳ sang thăm Canađa và đã gọi một cú điện thoại viễn liên (long distance) từ nơi ông ở Toronto sang tận Montreal. Sau khi nói chuyện xong, ông đã hỏi giá và được cho biết là cú điện thoại viễn liên ấy tốn mười bốn đồng, năm mươi xu tiền Mỹ-kim. Vị kinh tế gia ấy nổi sùng lên và nói: “Sao đắt quá vậy? Ở xứ tôi ở, tôi gọi đến hỏa ngục hay gọi từ đó cũng chỉ mất có mười bốn đồng năm mươi xu!” Nhân viên tổng đài điện thoại trả lời: “Đúng vậy thưa ông, nơi ông ở và chỗ ông gọi đó cùng trong vùng mà thôi!”
Có những lúc trong cuộc sống, chúng ta cảm thấy Chúa Toàn Năng là Đấng quá xa vời với chúng ta. Tuy nhiên, cũng có đôi lúc ta lại cảm thấy Thiên Đàng lại rất gần với chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay mô tả lại một mối cảm nghiệm chót đỉnh trong cuộc sống của Chúa Giêsu và ba vị Tông Đồ.
Chúa Giêsu dẫn Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan “lên một ngọn núi cao” (Mt 17:1). Các ngài lên núi cao ấy để “cầu nguyện” như Thánh Luca đã thuật lại (Lk 9:28). Chúa Giêsu và ba môn đệ đã tách biệt nhau khi cầu nguyện. Mỗi vị có một nhu cầu riêng. Chúa Giêsu đã đi đến khúc ngoặc mới của cuộc sống và công việc truyền giáo của Ngài. Các kẻ thù đang toan tính ám hại Ngài, và do đó Ngài phải quyết định xem cần phải rời bỏ Đất Thánh hay tới thẳng Giêrusalem và thẳng thắn đối đầu với những kẻ muốn giết Ngài. Lúc này đây Chúa Giêsu cần biết rõ ràng Thánh Ý Chúa Cha trong vấn đề này: Ngài có đang làm công chuyện và quyết định đúng như ý Chúa Cha không? Ngài có đang làm tròn mục đích của đời Ngài không?
Còn ba vị môn đệ kia thì đây là lúc tìm sự hướng dẫn để có thể hiểu công cuộc của Chúa Giêsu. Chỉ mới tám ngày trước đó, Phêrô đã có một ánh nhìn tuyệt vời về Chúa Giêsu là: “Thầy là Đấng Thiên Sai”. Nhưng ngay sau đó, khi Chúa Giêsu mặc khải về sự đau khổ và phải chết của Đấng Thiên Sai thì Phêrô đã từ chối không muốn nghe. Ngay còn tấm bé, Phêrô đã được nghe biết rằng Vị Thiên Sai sẽ là vị tướng anh hùng vĩ đại, bách chiến bách thắng. Bởi đó, lúc này đây thật là khó cho Phêrô có thể chấp nhận Chúa Giêsu như là “Người Đầy Tớ Đau Khổ”; và do vậy Phêrô đã nói với Chúa: “Điều ấy sẽ không xảy đến cho Thầy, lạy Chúa”. Nhưng Chúa Giêsu đã gay gắt mắng Phêrô: “Hãy lui ra sau Ta, Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta; vì ngươi chỉ theo ý loài người mà không theo ý Thiên Chúa” (Mt 17:22- 23). Chính vì thế, giờ đây ba vị môn đệ cần phải cầu nguyện xin được ơn soi sáng trong vấn đề này. Khi Chúa Giêsu và môn đệ đang cầu nguyện thì Môisê, đại diện cho Luật và 'lia, đại diện cho các ngôn sứ, hiện ra và đàm đạo với Chúa. Thánh Mátthêu muốn cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu và ba môn đệ đã phải suy ngắm sâu xa về truyền thống và quá khứ của họ hầu có thể tìm ra được Ý Thiên Chúa. Và chúng ta có thể dường như nghe được tiếng của Môisê và 'lia xác định những gì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Ngài nói đúng!... Hãy nghe lời Ngài! Hãy cùng đi với Ngài lên Giêrusalem mà đừng để ý tới những trắc trở.”
Khi mà một người được cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trực tiếp như trên núi cao xưa thì thật khó mà tìm lời để diễn tả tâm tình mình. Trong trường hợp này, các Thánh Sử Tin Mừng đã diễn tả cách hay nhất cho chúng ta. Các ngài thuật rằng kìa có một đám mây xuất hiện, và mây trong quan niệm cổ thời bấy giờ được coi là có sự trực tiếp Hiện Diện Vinh Quang Thiên Chúa. Rồi từ đám mây ấy, Thiên Chúa trực tiếp phán ra. Nôm na cho vui, đây là cú điện thoại trong vùng nhưng nó mang ý nghĩa rất quan trọng đối với chúng ta. Thiên Chúa đến với chúng ta trong muôn ngàn cách, nhưng không có cách nào quan trọng hơn khi Ngài tỏ Mình trực tiếp với chúng ta và chúng ta cảm nghiệm được sự đối diện trực tiếp ấy với Ngài cách rõ ràng mật thiết. Chúa Giêsu và ba môn đệ kia chắc chắn đã muốn trèo lên núi cao để có thể cảm nhận cách rõ ràng mật thiết sự Hiện Diện Linh Động của Thiên Chúa. Mối cảm nghiệm đó rồi nó cũng tự kết thúc, song các ngài còn trách nhiệm phải đáp trả. Phêrô đã muốn dựng mấy lều và lưu lại luôn trên núi đó. Điều này xảy ra chúng ta cũng dễ hiểu thôi, vì ngay như chúng ta chỉ mới được Thánh Thần soi sáng xoa dịu trong những cuộc tĩnh tâm thôi mà đã không muốn bỏ đi rồi. Chúa Giêsu đã tảng lờ lời đề nghị của Phêrô và dẫn các ông xuống núi trở về lại xóm làng. Khi các ngài trở lại thôn xóm đã nhìn thấy gì? Các ngài đã nhìn thấy những nhu cầu cần thiết của dân chúng. Ngay tức khắc, các ngài đã phải nghe lời van xin của một người cha cho con mình: “Xin Thầy hãy thương đến con trai tôi vì nó bị bịnh phong giật khổ sở lắm” (Mt 17:15).
Trong Giáo Hội có những dòng tu chuyên lo việc cầu nguyện và điều đó rất tốt! Song phần đông còn lại chúng ta chuyên chú trong việc cầu nguyện cần phải theo Chúa Giêsu xuống khỏi núi mà đi vào những thôn xóm đang cần sự giúp đỡ. Những người theo Chúa Giêsu phải biết trung thành và cân bằng trong việc cầu nguyện và hoạt động!
Nhiều lần Chúa Giêsu đã trách mắng đám đông theo Ngài vì họ chỉ muốn xem phép lạ. Ngài đã từ chối không muốn trở thành Vị Thiên Sai phù phép của họ. Thường xen kẽ giữa những lúc tuyệt vời của dấu lạ và phép lạ là những ngày dài khó khăn, bẩn thỉu, đói khát thực hành sự vâng phục đối với các môn đệ Chúa Giêsu. Nếu bốn cuốn Phúc Âm dài gấp ngàn lần cuốn hiện tại thì chúng sẽ ghi nhiều những công việc của Chúa Giêsu trong ba năm hoạt động công khai, và rất có thể chúng ta sẽ ngạc nhiên khi thấy những hoạt động của Chúa trong những ngày ấy thật bình thường. Chúng ta có thể chắc rằng giữa cuộc cảm nghiệm ngây ngất trên núi là những ngày gian nan khó khăn trong các xóm làng, đó là lúc các môn đệ Chúa phải vượt qua bằng đức tin chứ không phải bằng dấu lạ.
68.Chúa biến hình – Lm. Thomas Túy, OP
Năm mới nào cũng vậy, cứ vào thời gian ngay sau tết âm lịch, núi Bà Đen, Tây Ninh, nhộn nhịp hẳn lên vì khách hành hương từ các tỉnh tuôn đến xin xâm, bói quẻ ở chùa Bà, chùa Hang. Hai ngôi chùa ở lưng chừng núi, cách nhau hơn vài trăm mét. Nhưng tới được chúng quả là một hành trình vất vả, phải mất đến cả tiếng đồng hồ, leo các bậc thang bằng những viên đá đủ kích cở. Vậy mà hàng ngày có đến hàng ngàn hàng vạn khách đi xe đến viếng thăm. Những thanh niên khỏe mạnh có thể leo tới đỉnh núi, cao chừng hơn ba trăm mét. Nhưng tới được đỉnh thì quả là một phần thưởng: Không khí trong lành, mát mẻ, quang cảnh chung quanh bao la bát ngát, tầm mắt có thể phóng tới chân trời. Bên dưới là một bức tranh toàn cảnh đầy màu sắc: ruộng vườn, làng mạc, sông lạch, rừng rậm, cây cối xanh tươi, trâu bò làm đồng, người cầy cấy coi như con kiến. Quả là một bồng lai tiên cảnh. Thiết nghĩ đây là điểm du lịch hấp dẩn ngoài việc tín ngưởng, tâm linh.
Xin nhập đề như vậy để quí vị có thể tưởng tượng được nội dung biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor hôm nay, Phúc âm không định vị rỏ ở đâu. Thánh Matthêu chỉ viết: "Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông ra riêng một chổ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông". Theo Luca thì việc này xẩy ra khi Chúa còn đang rao giảng ở Galilêa (Lc 9,28). Mathêu cũng đồng ý với Luca:" Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết"(Mt 16,21). Truyền thuyết cho rằng ngọn núi đó là núi Tabor, ở giửa cánh đồng, gần Nazareth, cao chừng 750 mét, đúng như vị trí của núi Bà Đen, nhưng cao gấp đôi, vì Bà Đen chỉ hơn 300 mét cũng ở giửa đồng bằng chung quanh là làng mạc, sông ngò và rừng rậm. Ngày nay Tabor có đường xe hơi lên tận đỉnh núi. Thời Chúa Giêsu làm chi đã có, nên phải leo bộ, chúng ta cùng leo núi với Chúa.
Chiều cao này có ý nghĩa biểu tượng và khi lên được tới đỉnh, người ta cũng ở trong tiên cảnh bồng lai. Thánh Phêrô sau này hồi nhớ lại nên bảo Marcô viết: "Thưa Thầy chúng con ở đây thật là hay", nghĩa là các ông cũng giống chúng ta ở đỉnh núi Bà Đen, nhưng theo nghĩa thiêng liêng, tức là các ông đang ở trong toàn cảnh thánh thiện trước mặt Đấng là sự thánh thiện tuyệt đỉnh. Ai có thể không có ý nghĩ như vậy?
Nhưng leo lên được đỉnh núi với Chúa không phải là chuyện dể dàng. Các ông phải lao động vất vả cả về nghĩa vật chất lẩn tinh thần. Những ai muốn thử kinh nghiệm xin đi Tây Ninh và leo lên đỉnh Bà Đen. Bảo đảm nhiều người sẽ chào thua mà trở về chân núi. Leo núi thánh thiện với Chúa cũng vậy, nếu không có ơn Chúa trợ giúp, chứ không phải như thiên hạ tưởng tượng.
Chắc chắn chúng ta phải leo cực nhọc, bước những bước khốn khổ trượt ngả trên đường đi đầy sỏi đá lởm chởm mới tới được ngọn núi thánh thiện. Rồi phải liên lỉ cầu xin ơn trợ giúp như Luca kể: "Đang lúc Người cầu nguyện, thì dung mạo bổng đổi khác"(ibi). Cho nên người ta phải vất vả leo núi Tabor thiêng liêng cùng với Chúa và ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, Gioan.
Vậy thánh thiện là gì, làm thế nào tới được bậc đó? Hôm qua thứ bẩy, Chúa nói:" Anh em hảy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện"(Mt 5,48). Như thế Đức Giêsu định nghĩa thánh thiện là chính Đức Chúa Trời. Chúng ta phải rập theo khuôn mẩu đó mà sống. Cụ thể lối sống của Đức Giêsu khi còn ở trần gian. Chiều chuộng xác thịt, ăn cắp ăn trộm, lừa đảo, giả hình chắc chắn không phải là cuộc sống mà Đức Kito muốn. Chúng ta thường lấy mình ra làm "thước đo" mọi sự.
Thiên Chúa đã chỉ định cho ông Môsê ban lề luật cho tuyển dân mù quáng để họ biết đường hoàn thiện và thờ phụng Thiên Chúa cho phải đạo. Vì chính Thiên Chúa mới là "thước đo" và mẩu mực cho nhân loại. Bây giờ Môsê cũng ở trên đỉnh núi với Đức Giêsu trong cương vị ban lề luật để trao quyền lại cho Chúa mà ông đã hằng tiên tri từ lâu trước. Lúc này Đức Giêsu vừa là người trao ban lề luật vừa là luật pháp cho nhân loại. Chúng ta vâng phục lời Ngài ra sao? Thật là khó, vì Ngài là Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, làm sao loài người theo cho nổi?
Vì vậy Ngài phải "thích nghi" với điều kiện nhân loại trong biến cố nhập thể và Đức Chúa Cha đã phán: "Này là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng. Các ngươi hảy vâng nghe lời Ngài". Như thế Đức Giêsu là lời giải thích, là lề luật cho mọi hành động của con người. Nhân loại phải suy tư về Ngài, học hỏi và bắt chước Ngài để nên trọn lành đích thực, chứ không giả hình lừa dối. Chính Ngài tự xưng là đường là sự thật, sự sống để chúng ta đi về với Thiên Chúa.
Việc thay hình đổi dạng khởi sự khi mổi linh hồn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Lúc ấy chúng ta chết đi cho xác thịt để sống với Đức Kitô. Đời sống này không phải là tương lai, nhưng là hiện tại ngay lúc lãnh nhận thanh tẩy và là những nội dung chúng ta phải sống hàng ngày. Những ai suy nghĩ đời sống thánh thiện thuộc tương lai, thì hoàn toàn sai lầm và sai lầm thì phải trả giá. Chúa Giêsu không hề tuyên bố đời sống trọn lành thuộc về tương lai mà thôi. Ngài nhiều lần nhấn mạnh nó là cuộc sống hiện tại:" Xưa ta đói các ngươi không cho ăn, ta tù đày các ngươi đâu có viếng thăm ta?". Cho nên vật lộn để sống đẹp lòng Thiên Chúa như Đức Kitô dạy là cấp thiết. Sự thực thánh thiện và cuộc sống vĩnh cửu đã ở nơi chúng ta ngay trong Bí tích Thánh Tẩy. Chúng ta phải phát triển nó từ tấm bé cho đến tuổi già. Giả dụ Thiên Chúa muốn chúng ta phải sáng tỏ sự thánh thiện của mình như Chúa Giêsu hôm nay trên núi Tabor, thì chúng ta cư xử ra sao và tiếng từ trời cũng phán: ông A, chị B, em C là những con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, liệu mấy ai khoe mình được như vậy? Hay chỉ bằng môi miệng, lừa dối thiên hạ.
Nói như vậy không phải là ngoa, nếu nghĩ đến mỗi lần rước lễ xong. Bí tich Thánh Thể là chính sự hoàn thiện đang ngự trong mỗi linh hồn tín hữu, linh mục, tu, sĩ. Nó phải được chiếu sáng ra nếu các dục vọng của mỗi người không ngăn cản, phủ lấp đi. Mỗi khi chúng ta tham dự thánh lễ, làm việc bác ái, lãnh nhận các bí tích là tăng cường vẻ sáng ngời thánh thiện của tín hữu cho thiên hạ chiêm ngưỡng như một biến cố biến hình vậy. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi bằng suy nghĩ, lời nói, việc làm là lớn lên trong cuộc sống thiêng liêng. Mỗi khi cố gắng chu toàn bổn phận là leo núi Tabor.
Và con đường là thánh giá. Môsê và Êlia hiện diện trên núi thánh bàn bạc với Đức Kitô về cuộc khổ nạn của Ngài? Làm sao chúng ta tránh khỏi? Liệu chúng ta được phép xưng mình là môn đệ Chúa mà không phải vác lấy thập tự hàng ngày? Thánh Phaolô khuyên Timôteô:"Hãy chịu đựng gian khổ mà Phúc âm đòi hỏi". Qúi vị nghĩ sao? Tận hưởng cuộc đời dễ dãi đầy tiện nghi và vẫn coi mình là môn đệ Chúa rồi hùng hồn rao giảng thập giá Đức Kitô! Trớ trêu quá.
Thôi, xin bỏ ngọn núi vật chất để nói đến quả núi thánh thiện mà Đức Kitô đã leo trong suốt cuộc sống của Ngài. Quả núi ấy là gì? Chẳng phải là xe hơi nhà lầu, kẻ sai người bảo mà là yêu thương phục vụ theo ý Đức Chúa Cha cho đến chết, và chết trên thập tự, chứ không êm ái trên giường bệnh hay nhà thương sang trọng, đắt tiền. Chết nhục nhã, chịu lăng nhục chửi bới chứ không điếu văn, diễn từ ca tụng. Đó là con đường người môn đệ Chúa phải nương theo trong cuộc sống để chu toàn theo thánh ý Thiên Chúa. Cụ tổ Abraham của bài đọc 1, đã 75 tuổi lìa bỏ tất cả, quê hương, tài sản di theo tiếng gọi vô hình của Đức Chúa Trời, lang thang thiếu thốn nơi đất khách quê người, không quản ngại điều chi trước tôn nhan Đức Chúa mà ông hết lòng kính sợ. Chúa Kitô phải chịu đựng nhiều hơn khi chu toàn mệnh lệnh của Đức Chúa Cha. Ngài ở giữa một đám đông thù nghịch, phản đối, chê cười, hận thù và giết chết. Hai mẫu gương cho nhân loại noi theo mà nên thánh thiện, chứ không phải chăn ấm nệm yên, ngày ngày yến tiệc linh đình. Đây là mẫu mực để chúng ta tuân giữ mùa chay và con đường hoàn thiện. Đức Giêsu cầu nguyện, ăn chay, chống trả cám dỗ, sống trong cô tịch, phục vụ người nghèo khó bệnh tật, yêu thương, đau khổ và chết, là khuôn mẫu mùa chay của các tín hữu, xin đừng cắt nghĩa kiểu khác để trốn tránh con đường thiêng liêng. Đó là bí quyết duy nhất để leo núi Tabor của chúa. Đường lên núi thánh không đi được bằng xe hơi, ngủ trong quán trọ nhà lầu, ăn cao lương mỹ vị như thiên hạ ngày nay biện minh. Con đường của họ chỉ có thể đưa xuống hố sâu của những người mù, như Đức Kitô đã cảnh cáo.
Cho nên khuôn mẫu để sống đẹp lòng Đức Chúa Cha không bao giờ thay đổi, từ ông Abraham, các tổ phụ, các tiên tri cho đến Chúa Giêsu. Bao lâu còn có tội lỗi trên thế gian, thì bấy lâu kẻ theo con đường thánh thiện của Thiên Chúa còn phải gánh chịu khổ nạn, tử đạo, chối bỏ từ tay thế gian ngay cả từ tay bạn hữu, người thân như Chúa Giêsu đã phải gánh chịu.
Đức Giêsu tóm gọn các giới răn, bát phúc, và các tiêu chuẩn thánh thiện vào cuộc sống yêu thương và phục vụ. Liệu chúng ta được phép đi con đường khác mà vẫn nên thánh? Quả là hoang tưởng khi người ta từ bỏ ăn chay, hảm mình, làm phúc bố thí, bác ái, đau khổ và cái chết nhục nhả để giữ các hình thức khác trong mùa hồng phúc!
Đến đây chúng ta đụng đến vấn đề cốt lõi: Bí quyết để nên trọn lành. Các vĩ nhân đều có bí quyết để thành công. Thí dụ: Thương gia, buôn bán phát tài. Không có luật trừ cho việc nên thánh. Những thiên tài này đều có một cảm tính đặc biệt để thành công, nằm sâu trong trái tim họ. Riêng trong lãnh vực tôn giáo chúng ta gọi các chuyên viên này là các thánh và họ đả kín múc cảm tính của mình trong Thiên Chúa nhập thể. Vậy muốn nên trọn lành như họ, chúng ta phải noi gương họ: Học hỏi, yêu mến Chúa Giêsu. Con đường ngắn nhất để được gọi là con yêu dấu của Thiên Chúa Cha đẹp lòng Ngài mọi đàng. Ước chi mùa chay này mọi tín hữu tìm được bí quyết và con đường ấy. Amen.
69.Suy niệm của Đinh ngọc Thiệu
Câu hỏi gợi ý:
Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài như thế nào?
Việc Chúa tỏ bày vinh quang mang lại lợi ích gì cho ta? Và qua đó, Ngài muốn nhắc nhở chúng ta điều gì?
Suy tư gợi ý:
Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài như thế nào?
Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài bằng nhiều thể thức khác nhau:
Khi thì uy hùng lẫm liệt: như trong trường hợp Thiên Chúa ban bố 10 điều răn tại núi Si-nai trong tiếng sấm nổ rền vang, khói toả nghi ngút làm cho dân Do Thái phải khiếp sợ (Xh 20, 16-31); hoặc bằng cánh tay mạnh, Ngài đưa dân Do Thái vượt qua biển đỏ chân khô ráo trong khi binh hùng tướng mạnh của Ai Cập cùng với xa mã đuổi theo bị vùi dập trong làn nước biển (Xh 14, 15-31); trên đường dẫn đến Đa-mát, trong ánh sáng chói loà, Ngài đã làm cho Phao-lô ngã ngựa, mắt ông bị quáng ba ngày sau mới thấy lại được (Cv 9, 1-19)
Khi thì êm ái thân mật: trường hợp Ap-ram và Môi-sen đã gặp gỡ chuyện trò với Chúa mặt giáp mặt, Sa-mu-en được Chúa gọi ban đêm (1Sm 3,1-14), hay thánh Giu-se (Mt 1, 20; 2, 20) và các đạo sĩ Phương Đông đã được Chúa báo mộng (Mt 2,12).
Khi thì huy hoàng rực rỡ như trường hợp Đức Giêsu biến hình trên núi được diễn tả trong bài Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay.
Việc Chúa tỏ vinh quang mang lại lợi ích gì cho ta? Và qua đó,Ngài muốn nhắc nhở chúng ta điều gì?
Khi tỏ bày vinh quang bằng những dấu lạ điềm thiêng, Thiên Chúa luôn nhằm đáp lại một nhu cầu nào đó của con cái Ngài:
Để dẫn dắt: như cột mây dẫn đường cho dân Do Thái trong sa mạc (Xh 13,21-22;15,19-20).
Để cứu giúp dân khi gặp khó khăn hay khi bị quân địch vây khốn.
Để chữa lành các bệnh nhân, nâng đỡ, bồi bổ sinh lực cho những kẻ yếu đuối.
Và nhất là để củng cố niềm tin cho các tông đồ và dân chúng.
Trong bài sách Sáng Thế hôm nay, Ap-ram sở dĩ dám rời xứ sở, họ hàng và thân phụ để đi đến một vùng đất mới mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông vì ông đã được tiếp cận với Thiên Chúa. Ngài đã thiết lập giao ước với ông, và hứa sẽ làm cho ông thành một dân lớn (St 12,1-2). Nhờ lòng tin mạnh mẽ và nhờ ơn trợ giúp của Ngài, ông đã vượt qua mọi thử thách và đi đến cùng đích, để trở thành cha của những kẻ tin vào Thiên Chúa.
Trong thư thứ hai gửi ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa đã sẵn sàng chịu mọi cực hình tù tội vì danh Đức Kitô. Thánh nhân đã khuyên ông Ti-mô-thê: “Thiên Chúa đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã xuất hiện” (2 Tm 1, 9-10)
Trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, Ngài đã tỏ vinh quang bằng nhiều phép lạ: biến nước thành rượu (Ga 2,1-12), hoá bánh ra nhiều (Mt 14, 13-21; 16, 32-39), chữa lành các bệnh nhân: những người mù, què, câm, điếc (Mt 4, 23-24) phong hủi, cho người chết sống lại (Ga 11,1-44). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã biến hình trước mặt ba tông đồ thân tín: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng và kìa các ông thấy Môsê và ông Êlia hiện ra cùng đàm đạo với Người”. Nhìn thấy thế, các ông vô cùng sung sướng, nhưng khi nghe tiếng phán từ đám mây sáng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng lời Người” thì các ông đã kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất……
Mặc dầu được ở kề cận với Đức Giêsu, được Ngài trực tiếp huấn luyện, các tông đồ nhiều lần còn tỏ ra nghi ngại khi dấn thân vào cuộc sống phiêu lưu “rày đây mai đó”, “Con chồn có hang,con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,20). Và thậm chí - vì sợ bị thiệt thòi khi theo Chúa - có vị đã mạnh dạn đặt với Chúa một câu hỏi rất khó nghe: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27). Rồi khi Đức Giêsu loan báo về bí tích Thánh Thể: “ … ăn thịt và uống máu Con Người …..” (Ga 6,53), nhiều môn đệ lấy làm chướng tai nên đã rút lui, không còn đi với Ngài nữa. Dù đã quyết tâm theo Chúa, các tông đồ vẫn chưa dứt bỏ được những cố tật: tham lam chức quyền, địa vị, quyền lợi (Mt 20,20-23), thích dựa vào quyền lực, vũ khí (Mt 26,52).
Việc Chúa tỏ vinh quang là nhằm củng cố niềm tin nơi các môn đệ. Việc Đức Giêsu biến hình trở nên sáng láng, hay những dấu lạ Ngài làm, như gián tiếp nói với các tông đồ cũng như cho mọi người: “Có Thầy đây! Đừng sợ!” (Mt 10,26-31) Ngài luôn có mặt trong vũ trụ, làm chủ vũ trụ và sẵn sàng giúp đỡ những ai kêu cầu Ngài: “Hỡi những ai yếu nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho”. Ngài muốn chỉ cho chúng ta thấy giá trị của đau khổ. Đau khổ chính là cửa hẹp, là đường dẫn đến vinh quang.
NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, suốt 33 năm sống ở trần gian, Ngài đã nêu gương cho chúng con trong sự vâng lời làm theo ý Đức Chúa Cha. Và khi về trời, Ngài đã sai Đức Chúa Thánh Thần đến để giúp chúng con hiểu biết và thực thi những điều Ngài đã dạy chúng con. Xin Chúa cho mỗi người chúng con trong bất cứ tình huống nào của cuộc sống, luôn vững tin và cậy dựa vào Chúa, Đấng là chủ vũ trụ, Ngài luôn hoạt động để biến đổi thế giới.
70.“Dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời”
(Suy niệm của Lm. Giuse Võ Tuấn)
Kính thưa Quý ông bà và anh chị em,
Giáo hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng quen thuộc tả lại cảnh Chúa Giêsu biến hình trong quảng thời gian của Mùa Chay, vừa như muốn chúng ta thấy vẻ vinh quang của Chúa Giêsu, vừa muốn nhắc bảo chúng ta: cũng chính Chúa Giêsu ấy đã chịu cám dỗ và đã thắng. Đó cũng chính là con đường mà người tín hữu Kitô sẽ đi qua, nghĩa là chúng ta cũng phải trải qua những đau khổ, những hy sinh, để rồi trong Đức Kitô chúng ta sẽ đạt được chiến thắng huy hoàng.
Ngoài điểm liên hệ giữa bài Tin Mừng và Mùa Chay nói trên, chúng ta còn thấy được nhiều điểm mà thánh Matthêô đã lồng vào trong Cựu ước để minh chứng Chúa Giêsu là Đấng đến để giảng dạy như lời các tiên tri đã loan báo, và đặc biệt là ông Môsê đã nói trước khi lìa đời: “ Từ giữa các anh em ngươi, Thiên Chúa của ngươi sẽ cho chỗi dậy một tiên tri như Ta, các ngươi sẽ nghe Ngài “ (Đnl. 18, 15).
Thật vậy, để xua tan mây mù đen tối về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu đã báo cho các tông đồ ở Xêrasê Philipphê (Mt. 16, 21 – 28); thì Chúa Giêsu hôm nay đã cho các đồ đệ thân tín được thấy vẻ vinh quang của Ngài, và nhất là được nghe lời trấn an từ trời cao cùng với sự minh chứng của Cựu ước, hầu an tâm bước theo Chúa và vâng nghe lời Ngài dạy, cũng như đứng ra kế thừa sự nghiệp Ngài để lại sau nầy.
Theo trình thuật, chúng ta thấy chỉ có “các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan được Chúa Giêsu gọi riêng đi theo Ngài lên núi Tabor, là chứng nhân mục kích cuộc biến hình của Chúa hôm nay”. Thật sự, có một sự liên hệ giữa biến cố trên núi Tabor và biến cố xảy ra ở núi Cây Dầu. Trên núi Tabor, Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy Chúa Giêsu biến hình khi thần tính Ngài biểu lộ một cách đặc biệt; Thì trên núi Cây Dầu, cũng chính ba môn đệ đó đã chứng kiến Chúa Giêsu hấp hối, trong đó nhân tính Ngài được tỏ lộ một cách đặc biệt. Vậy hai biến cố nầy đã bổ túc cho nhau để cho chúng ta thấy Chúa Giêsu toàn diện: là Thiên Chúa thật và là con người thật.
Và cũng giống như ông Môsê trên núi Sinai hôm xưa, sau khi đã có cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa của giao ước: “Dung mạo Chúa Giêsu bỗng rực rỡ như mặt trời, và y phục Ngài trắng tinh như ánh sáng”. Thật ra, trong trường hợp của Môsê thì đó chỉ là sự phản chiếu trong chốc lát ánh hào quang của Thiên Chúa; còn đối với Chúa Giêsu thì lại là sự lan tỏa của chính hữu thể của Ngài, là sự chiếu giãi của vinh quang Ngài.
Chúng ta thấy cả ba Phúc Âm Nhất lãm đã ghi nhận có hai nhân vật cùng hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu, dây là hai con người đầy uy lực và là hiện thân cho cả Cựu ước. Môsê là biểu tượng của lề luật, Elia là đại diện cho hàng ngũ tiên tri. Người ta tin rằng: ông nầy sẽ trở lại vào thời sau hết, để đi trước dọn đường cho Đấng Messia ngự đến. Hai nhân chứng hiện ra rồi chợt biến mất muốn ám chỉ rằng: giao ước cũ nay đang được hoàn thành nơi Đức Giêsu Kitô.
Thánh Matthêô còn nhắc đến đám mây sáng ngời bao phủ ba môn đệ, thì trong Cựu ước đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người qua sa mạc (Xh. 13, 21). Như vậy từ nay, Chúa Giêsu sẽ là sự hiện diện đích thực ấy của Thiên Chúa giữa loài người. Cũng từ đám mây ấy vang lên một tiếng phán, chúng ta thấy ở đây lặp lại từng chữ trong tiếng phán với một mình Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người “, nhưng còn thêm: “Hãy vâng nghe lời Người “, điều nầy nhắc cho chúng ta thấy 3 điểm:
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Chúa Cha hài lòng về Chúa Con và rất yêu mến Người.
Những ai tin Thiên Chúa thì phải nghe lời Chúa Giêsu.
Kính thưa Quý ông bà và anh chị em,
Cuộc biến hình của Chúa hôm nay dạy chúng ta nhiều bài học:
Thứ nhất, chúng ta đừng thích mơ tưởng đến những mặc khải lạ lùng của Thiên Chúa vì Người chỉ dành cho những ai Người muốn. Giống như ở Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ đem theo ba môn đệ và dặn họ không được tiết lộ với ai về thị kiến cho đến khi Người sống lại. Vậy mà đến giờ phút khổ nạn, các ông vẫn là những môn đệ bỏ Thầy, thậm chí chối Thầy như thường!
Thứ hai, chúng ta thấy con đường bình thường người môn đệ Chúa phải đi, đó là con đường luôn ngang qua bóng tối đức tin của đời thường, chứ không như Phêrô cảm thấy quá sung sướng được ở trên núi và ông đề nghị dựng ngay ba lều để định cư luôn ở đây.
Còn chúng ta, chúng ta cũng thường thích ở lại nơi đâu mà mọi sự xảy ra có vẻ như ý, nơi đâu mà đức tin cũng như đời sống đạo của mình xem ra an toàn và chúng ta cảm thấy Thiên Chúa rất gần, để rồi chúng ta nghĩ rằng, chính khi đó chúng ta mới thực sự là Kitô hữu. Thật ra, Thiên Chúa không kém gần gũi chúng ta trong giờ phút khô khan của sa mạc, hơn là trong những lúc dịu êm dưới bóng mát của ốc đảo xanh tươi.
Lạy Chúa Giêsu vinh quang, chúng con xin được hiệp cùng ba tông đồ quý yêu của Chúa, chiêm ngắm Chúa trong ánh sáng thiên đàng để được ghi dấu ấn thật sâu trong Thiên Chúa Cha; đó là “ hãy vâng nghe lời Chúa “ hầu có động lực thực hiện lời Chúa trong mọi cảnh huống của cuộc đời. Cũng như ba vị đã chìm sâu trong cơn khổ sầu nơi vườn Cây Dầu sau đó, thì cuộc đời của chúng con và nhiều anh em chung quanh chúng con hầu như luôn ngụp lặn trong biển hồ rầu rĩ và oán ghét nhau.
Chúng con ước mơ ánh sáng sẽ đánh tan bóng tối, và mong chờ Lời Chúa được người người thực hiện để niềm vui lan tỏa và hạnh phúc tràn về. Chúng con tin ở Lời Chúa, chúng con nghe Lời Chúa, chúng con sẽ cố gắng thực hành Lời Chúa hầu xứng đáng là con cái Chúa. Xin Chúa chúc lành chúng con. Amen.
71.Suy niệm của JKN 2
Câu hỏi gợi ý:
1. Điều các tông đồ thấy nơi Đức Giêsu khi Ngài hiển dung trên núi khác với điều các ông thấy nơi Ngài hằng ngày ở chỗ nào? Trường hợp nào các ông thấy được bản chất của Ngài?
2. Chúng ta cần hành xử với mọi người đúng theo bản chất con người họ, hay theo những gì chúng ta thấy ở bên ngoài? Bản chất đích thực và sâu xa nhất của mỗi người là gì?
3. Bản chất đích thực của mọi người chung quanh ta – là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa – có hiện ra trước con mắt đức tin của ta không? Ta thường hành xử theo con mắt đức tin hay theo con mắt xác thịt?
Suy tư gợi ý:
1. Bản chất và hiện tượng
Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể… bất cứ triết lý nào, đông phương cũng như tây phương, đều nói đến và phân biệt hai phạm trù căn bản này: bản chất và hiện tượng.
– Hiện tượng: là những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được dễ dàng, và thường thay đổi, nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một người, thì hiện tượng là những gì liên quan đến hình dạng (khuôn mặt, chiều cao, vẻ đẹp, mầu da), khả năng (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài nghệ), tính nết (quan niệm, tư tưởng, thói quen, các khuynh hướng), sở hữu (sự giàu nghèo, của cải, nhà cửa), v.v…
– Bản chất: là cái sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ, và tương đối không thay đổi.
2. Khi Đức Giêsu hiển dung, các tông đồ thấy được bản chất của Ngài
Khi sống với Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được những hiện tượng bên ngoài của Thầy mình: thân xác, thói quen, lời nói, việc làm, với những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v… Từ đó các ông dự đoán về bản chất của Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, là người của Thiên Chúa, vì Ngài có thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ, chữa bệnh, trừ quỉ… Sự hiểu biết của các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa phải là bản chất đích thực và sâu xa của Ngài.
Nhưng vào thời điểm của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Ngài đứng giữa Môsê và Êlia, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ, là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do Thái. Đứng giữa hai ông, điều đó có nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y phục rực rỡ, mây trắng bao phủ – biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của Ngài.
3. Chúng ta cần thấy được bản chất của mình và tha nhân
Trong đời sống, chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên ngoài của sự vật, của người này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí ta tìm kiếm, khám phá ra bản chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những hiện tượng bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự vật hay của con người có thể sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người, việc, vấn đề ta gặp trong cuộc đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành xử đúng, thích hợp.
Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những hiện tượng mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Hiện tượng là cái có thể thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau nhiều năm xa cách, ta không ngờ được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá nhanh chóng và sâu xa… Nói cụ thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta không nhìn vào bản chất đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.
4. Bản chất đích thực của con người: là hình ảnh và là con cái của Thiên Chúa, được dựng nên giống như Ngài
Sự hiển dung của Đức Giêsu cho các tông đồ và cho cả chúng ta thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh Thánh, hay đức tin, cho ta biết bản chất đích thực và sâu xa nhất của ta và của những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng “theo hình ảnh của Ngài” (St 1,27; 9,6; Ep 4,24), “giống như Ngài” (St 1,26; 5,1), để trở thành “con cái Ngài” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10). Họ và ta đã được Thiên Chúa “ban tặng một điều rất quý báu và trọng đại” là “được thông phần bản tính của Ngài” (2Pr 1,4). Mà bản tính của Ngài là thần linh, nên khi “được thông phần bản tính của Ngài”, một cách nào đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi bản chất mình (x. Tv 82,6; Ga 10,35). Đức tin Kitô giáo cho chúng ta thấy phẩm giá nội tại của con người thật hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin, và thật sự hành xử đúng theo những gì đức tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi trọng chính bản thân mình và mọi người chung quanh ta biết bao!
Coi trọng bản thân đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành, cao thượng xứng với bản chất cao quí của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ là tự khinh rẻ bản thân mình, mà còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh của Thiên Chúa. Một cách nào đó, đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của một ông vua mà sống một cách hèn hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu hổ trước mặt thần dân.
Coi trọng mọi người đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với bản chất cao quí của họ. Bất cứ ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng, cho dù người đó hiện ra thế nào trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có những hành vi bỉ ổi, đáng khinh… Dù họ thế nào, hễ đã là người, thì họ đáng kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao trọng. Luật pháp các nước nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội nặng, đáng chịu hình phạt nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những hành vi hèn mạt hay tội lỗi đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã nhìn nhận phẩm giá cao quí của con người, bất chấp con người thế nào.
Là người Kitô hữu, đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều “hiển dung” trước con mắt đức tin của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất đích thực rất cao quí của mọi người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên Chúa, thì tất nhiên ta phải tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của Ngài, là những con người cụ thể chung quanh ta. Thiên Chúa thì vô hình, nhưng hiện thân của Ngài thì rất hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không tôn trọng và yêu mến những hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và yêu mến Ngài nơi ta chỉ là một ảo tưởng. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
Cầu nguyện
Lạy Cha, việc Đức Giêsu hiển dung trước mắt các tông đồ khiến các ông nhìn thấy bản chất đích thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu con mắt đức tin của con còn trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi người chung quanh con “hiển dung” trước mắt con với bản chất rất cao trọng của họ: là hình ảnh và là con cái của Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và tôn trọng Cha một cách cụ thể qua việc yêu thương và quí mến những người đang sống chung quanh con, bất chấp họ là người thế nào.
72.Hãy vâng nghe lời Người - Jude Siciliano
Một người bạn đã kể với nhóm chúng tôi về một doanh gia mà ông quen biết. Doanh gia này thường xuyên di chuyển bằng máy bay để tham dự các buổi hội họp làm ăn. Ông nói: “Tôi là khách hàng quen thuộc của một hãng máy bay, đến nỗi tôi nghĩ họ phải cho tôi một cổ phần của hãng.” Ông ta thuộc lòng các đường bay. Trước khi lên máy bay, ông mua một tờ thời báo kinh tế, một ly cà phê và rồi ở trên máy bay ông kéo hành lý của mình đến ghế dành riêng, cột dây an toàn, uống cà phê và đọc tin tức. Gần đến nơi ông coi lại các ghi chép về nội dung buổi họp sắp tới. Người nữ tiếp viên xuất hiện chỉ dẫn cách thức đề phòng các sự cố bất ngờ. Ông ta làm ngơ không để ý tới, bởi đã quá quen thuộc những thủ tục ấy. Ông lẩm bẩm với hành khách bên cạnh: “ Khổ lắm, biết rồi, nói mãi.”
Ngoại trừ lần gần đây, máy bay đã tới sát phi trường, nhưng lúng túng không đáp được. Giọng nói hồi hộp của phi công từ buồng lái vọng ra: “Thưa quý hành khách, chúng ta đang gặp rắc rối, các bánh xe hạ cánh không hoạt động. Chúng ta cần lượn quanh vài vòng để xả bớt nguyên liệu, tránh may bay bốc cháy, khi đáp không bánh xe lăn.” Cô tiếp viên lại xuất hiện, cặn kẽ chỉ dẫn an toàn cho hành khách lúc gặp nguy hiểm vì đáp khẩn cấp. Người ta phải ngồi hướng về đằng trước, hai tay ôm đầu gối phía cẳng dưới. Ông thương gia kể tiếp: “Lúc ấy tôi dương to cả hai tai nghe cho tỏ. Vị trí của các cửa thoát hiểm ở đâu? Đèn báo đi ra cửa như thế nào? Dây nịt an toàn ra sao và ngồi đúng tư thế đã chỉ định, không sót chi tiết nào. Tôi tái mặt chờ đợi điều khủng khiếp sắp xảy ra. Rồi tôi lờ mờ nhìn thấy ánh sáng của các xe cứu hộ sẵn sàng hai bên đường băng và tôi ý thức ra tầm quan trọng của lời cô tiếp viên chỉ dẫn. Nó nằm giữa sự sống và cái chết. Tôi lâm râm cầu khẩn Chúa liên tục. May quá cuối cùng các bánh xe hoạt động trở lại và chuyến đáp an toàn. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Đó là một kinh nghiệm để đời không thể quên.”… Quý vị có lẽ đã mường tượng ra sứ điệp của câu truyện. Nó cho chúng ta hay tầm quan trọng của việc lắng nghe và làm theo những chỉ dẫn của tiếng nói định mệnh trong lúc nguy hiểm. Những lời hướng dẫn rất trọng yếu. Nó là sự sinh tử của một đời người. Nó ban cho người ta ý nghĩa để sống hay chỉ là những giây phút qua đi vô hồn hời hợt, không có mục tiêu nào cả và như thế là một kiểu chết chóc vậy.
Các môn đệ Chúa Giêsu hôm nay lên núi cũng là để lắng nghe lời chỉ dẫn của Chúa Cha “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” Nó cũng quan trọng như lời của phi công kể trên. Thực chất, nó còn quan trọng hơn nhiều, bởi vì nó có khả năng ban ơn cứu rỗi. Con người sẽ trầm luân muôn đời nếu từ chối nghe lời đó. Các tông đồ được dẫn lên đỉnh núi, nơi yên tĩnh và quang đãng. Tầm mắt của họ có thể nhìn xem tới quãng xa. Họ có thể tập trung tư tưởng, nghị lực rất dễ dàng. Viễn ảnh trước mắt họ thật bao la, bát ngát hơn cả những gì lòng họ mơ ước. Bởi lẽ ngày hôm ấy, Chúa mặc khải cho họ biết Chúa Giêsu là ai? Tiếng oai nghiêm đã xác nhận về Ngài. Họ được nếm trước ơn phục sinh của Ngài và ngây ngất trong ơn thánh đó. Tuy nhiên, chúng ta cũng được Thiên Chúa chỉ dẫn trong cuộc sống của mình như người môn đệ. Giống như các tông đồ, chúng ta cũng được Chúa Giêsu đưa lên núi thánh hôm nay, xa cách mọi bận rộn trần gian và chúng ta cũng tập trung tâm hồn để lắng nghe tiếng Thiên Chúa. Hơn nữa, Ngài còn nói với chúng ta bằng hành động của mình, bằng gương sáng Ngài đã thực hiện. Hành động của Ngài, lời rao giảng cùa Ngài bộc lộ Thiên Chúa là ai, chúng ta là ai? Nhận rõ về mình và về Thiên Chúa, chúng ta sẽ có khả năng hối cải, ngõ hầu được Ngài xót thương, thứ tha và sai đi loan báo những điều chúng ta được mặc khải về Ngài. Đó không phải là hạnh phúc ngất ngây trên đỉnh núi cao hay sao?
Chúa phán với nhân loại và hướng dẫn nhân loại đến với Chúa Giêsu, chẳng lẽ bỏ mặc họ bơ vơ? Thực ra Ngài luôn về phe với chúng ta, ban lời hằng sống để mọi người an lành và hạnh phúc. Tiếng từ trời phán là để chúng ta ghi lòng tạc dạ và đem ra thực hành. Bởi lẽ, trên thế gian có muôn vàn tiếng nói cạnh tranh với Lời Thiên Chúa. Những tiếng nói đó hằng ngày, hằng giờ bao vây chung quanh chúng ta, lôi kéo chúng ta nghe theo sứ điệp của chúng. Tiếng nói của tham vọng, giàu sang, sắc dục, đam mê bất chính như tuần trước chúng ta được biết trong ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu. Nó không hề rời xa chúng ta. Ngược lại, đêm ngày gào thét để chúng ta lưu ý. Nhiều lần chúng ta đã sa ngã thê thảm, mặc chúng lôi đi như đoàn cừu ngoan ngoãn. Vậy mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta kiểm soát tâm hồn mình, kiểm tra những gì nghe theo hằng ngày. Phải chăng là Lời Thiên Chúa, hay là lời trần gian? Đây là cơ hội để chúng ta mở to đôi tai lắng nghe cho tỏ những tiếng nói lành thánh, những cảnh cáo từ tầng mây, những kêu gọi từ lương tâm. Trong mùa chay, chúng ta nên tập cho quen tự hỏi mình: “Hôm nay, qua những gì tôi gặp, qua những biến cố xảy ra, Chúa Giêsu đã nói gì với tôi? “ Nó là mùa chúng ta ghi tạc lời Ngài vào tâm hồn và cật vấn lương tâm qua lăng kính của Ngài, tức dựa trên Tin mừng mà chúng ta đã từng nghe, từng đọc và từng suy ngẫm.
Thí dụ: dưới ánh sáng lời Chúa Giêsu, điều mà chúng ta coi là “thành công” thì thực sự có phải vậy không? Nó được xem xét theo tiêu chuẩn nào? Điều mà chúng ta gán cho là “phúc lành”, thực chất có phải là đến từ Thiên Chúa hay chỉ là hoa quả của nỗ lực loài người? và chẳng liên hệ gì với Đức Kitô? Điều mà chúng ta gọi là “hạnh phúc” có bám rễ đích thực vào cuộc sống hay chỉ là các thỏa mãn chóng qua? Mặt khác, cái mà người ta cho là “thất bại” lại là niềm vui sâu xa nhất cho chúng ta, hoặc sự tan rã của một giấc mộng ấp ủ lại là cánh cửa mở vào cõi phúc, một lối sống mới trưởng thành hơn. Cho nên, mùa chay đích thực là thời gian luyện tập “nghe” cho đúng, cho tỏ như doanh nhân chúng ta gặp trên kia. Đó là lúc chúng ta phải thính tai nhất trong cuộc đời mình. Thường ngày chúng ta điếc trước những biến cố xảy ra. Đúng hơn, chúng ta không nghe bằng tai, mà bằng trí óc bởi các định kiến có sẵn cho nên không thấy rõ sự thật, thậm chí chối bỏ sự thật. Tình huống này rất phổ thông, nhất là trong giới “đạo đức” kiểu Pharisêu. Họ bị các tập tục cổ truyền che khuất trí thông minh. Điều họ trông thấy, nghe thấy là ý kiến chủ quan của mình. Ý kiến đầy ích kỷ, tham lam, tàn nhẫn, như trường hợp họ bịa đặt vụ án Chúa Giêsu. Cần phải có ai đó thức tỉnh lương tâm chúng ta, nói cho chúng ta hay những sai lầm của mình và chúng ta phải để tâm lắng nghe. Người đó phải là thâm tín, nói toàn sự thật, lo lắng cho sự an toàn của chúng ta. Quý vị nhận ra Người đó là ai: “Này là Con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy vâng nghe lời Người.”
Nói cho ngay, tất cả mọi người rồi sẽ đến ngày phải tỉnh dậy, ở một giai đoạn nào đó trong cuộc đời và tự hỏi: “Tại sao tôi có mặt ở đây?” và khi đã nhận ra tình trạng linh hồn mình: Đang bay vòng vòng để xả bớt nhiên liệu như chiếc máy bay gặp nạn và thực sự cảm thấy cạn kiệt. Tuy nhiên, chẳng ai muốn cuộc đời mình đi đến kết thúc với hai bàn tay trắng hoặc ngỡ ngàng tự hỏi: “Tất cả chỉ có thế thôi ư?” Không, tất cả chúng ta phải cần đến Mùa chay, một cơ hội tốt để làm cho sáng mắt, sáng lòng và kiểm soát được tiếng gọi lũng đoạn cuộc đời chúng ta. Những tiếng gọi này gần như liên tục: “Thành công, cạnh tranh, thắng lớn, tích lũy nhiều...” Nhưng khi đạt đến căn bản của nó tức đáp ứng những đòi hỏi chúng kêu gào, thì chúng ta mới nhận ra sự thật: không bao giờ thỏa mãn được chúng. Càng cố gắng thỏa mãn, chúng càng đòi hỏi gắt gao hơn như những chất gây nghiện. Hậu quả là hoặc chúng ta tỉnh ngộ nhận ra tính giả dối của chúng hoặc ngã gục dưới sức nặng của các đam mê ngục tù.
Hôm nay, chúng ta có câu chuyện biến hình trên núi. Chúng ta đáp ứng ra sao? Liệu chúng ta sẽ leo lên dãy núi Rockies, ngồi đó và đợi một thị kiến? hay trốn vào rừng sâu tìm giấc mơ và chẳng chịu ra nếu giấc mơ chưa xuất hiện? Đúng thế, ý tưởng đẹp, nhưng chẳng có khả năng thực hiện, ít ra là lúc này. Mai sau thì có lẽ. Tuy nhiên, hiện giờ chúng ta có thể tưởng tượng ra một ngọn núi tại nơi đây, chỗ chúng ta sống và làm việc hay ở trong buổi phụng vụ hôm nay, chúng ta đang ở trên núi. Chúng ta cố gắng nhớ đến các kẻ đói khát trong xóm làng, nhớ đến những người cô thân cô thế, hoặc những dở dang trong cuộc đời. Với những thực tại đó trước mắt, chúng ta tạm ngưng những bộn rộn hằng ngày và lánh ra nơi hoang vắng, lắng đọng tâm hồn nghe rõ những chi Chúa nói với mình, sốt sắng lãnh nhận bánh hằng sống, bánh nuôi dưỡng linh hồn cho đến kiếp vĩnh hằng. Dĩ nhiên, chúng ta đã từng làm việc này mỗi khi tụ họp thành cộng đoàn trong thánh đường giáo xứ. Nhưng mùa chay này một cách đặc biệt, bởi hôm nay chúng ta được nghe lời Thiên Chúa phán. Lời khuyên bảo mọi người lắng nghe Con yêu dấu của Ngài, kẻo lầm đường lạc lối. Lời luôn luôn quan tâm đến những lợi ích của linh hồn chúng ta.
Bài đọc một và hai đề cập đến cùng chủ đề: Thiên Chúa kêu gọi nhân loại. Ông Abraham đã trung thành đáp lại để trở nên tổ phụ của dân riêng. Tên của ông Abram, nhưng Thiên Chúa thêm một vần là Abraham với ý nghĩa: Từ ông sẽ nảy sinh một dân tộc lớn, đó là dân Do thái. Cha của Abram là Téra có ba người con trai: Abram, Nakho, và Haran (St 11, 27). Nhưng chỉ một mình Abraham được Thiên Chúa tuyển chọn với sứ mệnh lớn và từ dòng dõi ông Đấng Cứu Thế đã ra đời. Ông cảm thấy Chúa thúc đẩy từ bên trong, rời bỏ gia đình cha mẹ, đi đến niềm đất vô định để thực thi thánh ý Thiên Chúa. Ông biết rõ ràng những điều Thiên Chúa mong đợi ở ông và không từ chối mệnh lệnh nào của Ngài, ngay cả việc sát tế con trai duy nhất là Isaac để kính dâng Thiên Chúa. Ơn gọi của ông hoàn toàn là trong đức tin tinh tuyền. Ông đã rời bỏ quá khứ để theo đuổi một tương lai do Chúa an bài. Ông đã được chúc phúc và dòng dõi ông được Thiên Chúa bảo vệ: kẻ thù của Abraham cũng là kẻ thù của Thiên Chúa. Đó cũng là ơn gọi của mọi tín hữu, rời bỏ nếp sống cũ, tội lỗi, tham lam ích kỷ để bước vào nếp sống mới tràn đầy ơn thánh và tình yêu. Liệu trong Mùa chay này, chúng ta có noi gương Abraham mà thực thi trọn vẹn ơn gọi của mình không? Viễn ảnh tương lai của Abraham rõ ràng có tính thiên sai, từ một thực tế cụ thể tiến đến một dân tộc hưởng lời hứa cứu rỗi, thì chúng ta cũng vậy, từ kiếp sống nô lệ tội lỗi chuyển sang địa vị làm con Thiên Chúa.
Mỗi người tín hữu đều nhận được ơn Thiên Chúa kêu gọi. Đôi khi rất khó nhận ra và gần như không thể thực hiện nổi, giống như trường hợp của cụ tổ Abraham. Nó đòi hỏi những hy sinh triệt để như trong hôn phối, ơn gọi tu trì, sứ mệnh truyền giáo xa xôi, nghiên cứu khoa học, cứu chữa bệnh nhân, công việc bác ái từ thiện giữa xóm làng. Chúng ta phải can đảm tin cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa để vượt qua khó khăn, trung thành tiến hành ơn gọi, liều lĩnh nhảy vào vô định để ý Chúa được vẹn toàn. Thánh Phaolô nói rõ như vậy trong bài đọc hai. Mặc dù đã già cả và đang chịu trăm bề khốn khổ, ngài vẫn can đảm khuyên nhủ Timôthê làm chứng nhân cho Chúa Kitô: “Con yêu quý dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, con hãy đồng lao cộng khổ với Cha để loan báo Tin mừng.” Bởi vì theo thánh nhân, nó là lời kêu gọi vĩnh cửu nhưng không, hữu hiệu từ Thiên Chúa: “Người đã cứu độ và kêu gọi cúng ta vào dân thánh của Ngài, không phải vì công kia viêc nọ chúng ta làm, nhưng do kế hoạch và ân sủng của Người.” Vậy thì lắng nghe lời Chúa, tỉnh thức nhận ra thánh ý Ngài trong Mùa chay này quả là cần thiết.
Bề sâu đức tin, niềm trông cậy và lòng nhiệt thành của các tín hữu chính là bởi biến cố Chúa tỏ vinh quang trên núi thánh hôm nay. Thánh Phaolô tuy không nói rõ như thế, nhưng ngài gián tiếp đề cập đến khi loan báo cho Timôthê sự xuất hiện của Chúa Giêsu trong vinh quang, là bảo chứng cho tương lai sắp tới. Chắc chắn thánh nhân liên tưởng tới cuộc Phục sinh của Chúa, Đấng chiến thắng tử thần và ban vinh hiển cho các kẻ được chọn. Sự kiện Chúa biến hình báo trước tất cả nội dung đó. Chúng ta phải gắn bó với Chúa để đạt tới triều thiên vinh quang. Ơn Chúa sẽ thúc giục chúng ta sống đạo đức, thánh thiện trong Mùa chay này. Tiếng Chúa phán trong đám mây không phải vô mục đích, nhưng để chúng ta triệt để nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu trong mùa hồng phúc và trọn đời mình. Mỗi ngày xin để ra vài giây phút suy niệm Lời Chúa và nói với Chúa như cậu bé Samuen: “Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.” Có thể chúng ta tham dự các lớp giáo lý mùa chay, đọc thông cáo hằng tuần tại cuối nhà thờ, năng đi dâng lễ, chịu các bí tích. Nghĩa là có rất nhiều cơ hội để lên “đỉnh núi thánh”, tập trung trí khôn lắng nghe Thiên Chúa có điều chi tốt muốn truyền đạt cho linh hồn mình. Như vậy, Mùa chay quả là hữu ích cho mọi tín hữu. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam