Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 74

Tổng truy cập: 1363419

HÃY VUI LÊN

HÃY VUI LÊN(*)-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Hằng năm vào Chúa Nhật III Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi người Ki tô hữu hãy vui lên vì đại lễ Giáng Sinh sắp đến gần rồi.

Is 35: 1-10

Bài đọc I, trích sách I-sai-a, mô tả trước niềm hân hoan mà những tù nhân Ba-by-lon cảm thấy giờ giải thoát của họ sắp đến. Cùng chung niềm vui với họ, thiên nhiên và sa mạc, nơi bước chân của họ đi qua, sẽ tưng bừng nở hoa.

Gc 5: 7-10

Trong Thư gởi cho các tín hữu đang phải chịu những thử thách trăm chiều, thánh Gia-cô-bê khuyên họ hãy kiên nhẫn, thậm chí hãy vui lên, “vì Chúa sắp đến rồi”.

Mt 11: 2-11

Tin Mừng thuật lại việc Gioan Tẩy Giả trong cảnh tù ngục đã sai các môn đệ của mình đến hỏi Chúa Giê-su có phải là Đấng Mê-si-a hay không. Chúa Giê-su đáp lại bằng cách nhấn mạnh rằng Tin Mừng được loan báo cho những người nghèo hèn và bất hạnh: người mù được thấy, người điếc được nghe, người phong hủi được chữa lành. Chúa Giê-su khai mạc triều đại tình yêu và tha thứ.
BÀI ĐỌC I (Is 35: 1-10)

Như chúng ta đã biết, tác phẩm I-sai-a không là tác phẩm của một tác giả, nhưng công trình sưu tập ba tác phẩm của ba tác giả thuộc ba thời kỳ khác nhau: trước hết, tác phẩm thứ nhất, từ chương 1 đến chương 39, là tác phẩm của chính vị ngôn sứ I-sai-a, vị ngôn sứ tiền lưu đày vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên; tiếp đó, tác phẩm thứ hai, từ chương 40 đến chương 55, là tác phẩm của một vị ngôn sứ thời lưu đày, biệt danh là ngôn sứ I-sai đệ nhị; sau cùng, tác phẩm thứ ba, từ chương 56 đến chương 66, là tác phẩm của vị ngôn sứ hậu lưu đày, biệt danh ngôn sứ I-sai-a đệ tam.

Tuy nhiên, chương 35 thì ngoại lệ: chương này có thời biểu muộn thời hơn và qua chủ đề và cung giọng của nó gần với tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hơn, vị ngôn sứ thời lưu đày Ba-by-lon, ông an ủi đồng bào của ông và báo trước cho họ biết cuộc giải phóng gần kề (giữa năm 550 và 540 trước Công Nguyên). Chính xác đây là chủ đề của đoạn văn mà Phụng Vụ Chúa Nhật III Mùa Vọng mời gọi chúng ta suy gẫm hôm nay. Bị giam cầm gần một nữa thế kỷ đã qua ở Ba-by-lon, những người lưu đày cứ ngở rằng mình sẽ gởi nấm xương tàn ở đất khách quê người. Ấy vậy, vị ngôn sứ loan tin rằng Đức Chúa sắp giải thoát họ và dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.

1/. Những viễn cảnh diệu kỳ:

Để từ Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem, những người lưu đày sẽ phải băng qua sa mạc Sy-ri. Đức Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu thuận tiện cho cuộc xuất hành mới này, vì “sắp tới ngày Thiên Chúa báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội”. Qua bài thi ca, theo văn phong phóng dụ, đầy những hình ảnh thi vị, vị ngôn sứ mô tả sa mạc không còn là vùng đất hoang vu khô cằn nắng cháy, nhưng tưng bừng nở hoa, rợp bóng mát của những cây cối tốt tươi như rừng Li-băng, và phản chiếu vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron (đồng bằng Pa-lét-tin vốn nổi tiếng là phì nhiêu và nhiều hoa hồng tuyệt đẹp). Cuộc hồi hương trở về Thành Thánh quá phấn khởi đến mức người mù sẽ thấy được, người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ kêu lên trong niềm vui vỡ òa.

2/. Dấu chỉ của việc Thiên Chúa thứ tha:

Trước tiên, chúng ta nhận ra chủ đề Kinh Thánh về sự liên đới của thiên nhiên với vận mệnh con người. Mặt đất liên kết mình với niềm hoan hĩ của đoàn người hồi hương. Ngoài ra, những tật nguyền thể lý sẽ biến mất. Chúng ta biết rằng vào thời xa xưa này – thậm chí vào thời Chúa Giê-su (Ga 9: 1-3) – những tật nguyền thể lý được xem như những án phạt của tội lỗi. Nếu những người mù thấy lại ánh sáng, người điếc nghe được tiếng cười vui và người què nhảy nhót như nai, chắc chắn đây là cách diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày gặp lại quê cha đất tổ của mình, nhưng nguyên do còn sâu xa hơn: những tội lỗi của dân đã được Thiên Chúa tha thứ.

Thiên Chúa đã bày tỏ lòng xót thương: “Chính Người sẽ đến cứu chuộc anh em”. Ngài sẽ cứu chuộc dân Ngài như một người thân chuộc lại bà con họ hàng của mình lâm vào cảnh đời nô lệ vì nợ nần và đưa họ trở lại gia tộc của mình. Theo tập tục vào thời đó, ai không thể trả nợ bị người chủ nợ bắt làm nô lệ. Người thân gần nhất đứng ra chuộc lại mà ngôn ngữ Hy bá gọi là “goèl”. Chính người này cũng đảm nhận trách nhiệm báo thù cho những oan ức mà người ấy phải chịu.

Bản văn này minh họa một khái niệm căn bản của Cựu Ước: mối liên hệ giữa ý tưởng Tạo Dựng và ý tưởng Cứu Chuộc. Chính vì Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo nên Ngài cũng là Đấng Cứu Chuộc, vì sự tha thứ tội lỗi là một công trình sáng tạo mới. Ở đây, trong đoạn văn này, mối liên hệ này rất minh nhiên. Thiên Chúa sáng tạo khi biến đổi sa mạc, Thiên Chúa sáng tạo khi phục hồi những kẻ tật nguyền. Chính sự tha thứ của Ngài là nguồn mạch của cuộc sáng tạo mới này, sự tha thứ của Ngài hoàn lại sự sống.

Cảnh tù đày ở Ba-by-lon (như cảnh đời nô lệ ở bên Ai-cập) là hình ảnh về cảnh đời nô lệ của tội lỗi. Cuộc giải phóng mà vị ngôn sứ loan báo tiên trưng cuộc giải phóng triệt để hơn, vĩnh viễn hơn, đó là cuộc giải phóng mà Đức Ki-tô mang đến, “việc chuộc lại” này mà chúng ta gọi “Ơn Cứu Chuộc”, không có nghĩa gì khác hơn là “tái tạo chúng ta”. Vào những ngày gần đến lễ Giáng Sinh, giọng nói của vị ngôn sứ vang lên qua nhiều thế kỷ: “Thiên Chúa đích thân ngự đến và sắp cứu chuộc chúng ta”.

BÀI ĐỌC II (Gc 5: 7-10)

Thánh Gia-cô-bê mời gọi các tín hữu hãy kiên nhẫn. Bản văn này có chủ ý đặt vào giữa hai thời điểm: những người lưu đày nóng lòng được trở về quê cha đất tổ (bài đọc I) và Gioan Tẩy Giả) mong chờ Đấng Mê-si-a sớm thực hiện sứ mạng “thưởng công phạt tội” của Ngài (đoạn Tin Mừng hôm nay).

1/. Tác giả và tác phẩm:

Bức thư này được gán cho thánh Gia-cô-bê, anh em họ của Chúa Giê-su, vị lãnh tụ cộng đoàn Giê-ru-sa-lem tiên khởi, bị ném đá chết vào năm 62 sau Công Nguyên do sự xúi dục của vị thượng tế thời đó. Vì thế, thánh nhân không là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, hai con của ông An-phê, được phúc tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại ngay từ đầu thư, thánh nhân tự giới thiệu mình không là Tông Đồ mà là: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô”. Để phân biệt hai vị thánh trùng tên này, người ta gọi thánh Gia-cô-bê Tông Đồ là thánh Gia-cô-bê Tiền và thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Chúa Giê-su, là thánh Gia-cô-bê Hậu. Chính thánh Gia-cô-bê Hậu này mà, theo thánh Phao-lô, Chúa Giê-su hiện ra sau khi Ngài sống lại (1Cr 15: 6-7).

Thư này được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, phân tán khắp thế giới La-Hy. Sống ở giữa những anh em Do thái vẫn một mực trung thành lề luật Mô-sê. Những người Ki tô hữu gốc Do thái này gặp phải biết bao khó khăn trong việc thực hành đức tin của mình và là đối tượng của những quấy nhiễu. Vì thế, ngay từ đầu thư thánh Gia-cô-bê an ủi họ:“Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1: 2-4).

2/. Vị Thẩm Phán đang đứng ở ngoài cửa:

Đoạn trích Thư chúng ta đọc hôm nay thuộc vào những lời khuyên bảo sau cùng của thánh nhân: thực hành đức kiên nhẫn trong thinh lặng, đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, ngay cả những người bách hại mình; có như vậy, anh em mới “khỏi bị xét xử”, hàm ý quy chiếu đến lời của Chúa Giê-su: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6: 37). Lý do được nêu lên: “Vì Chúa sắp đến gần rồi”. Thế hệ Ki tô hữu đầu tiên đã sống trong niềm hy vọng này: “Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa”. Vào thời xưa, người ta xử án ở ngoài cổng thành. Ở đây, thánh Gia-cô-bê chuyển dời hình ảnh này sang lãnh vực tinh thần và muốn nói rằng vị Thẩm Phán đang đứng ngoài ngưỡng cửa nhà chúng ta, Ngài sẵn sàng bước vào (x. Mt 24: 33; Mc 13: 29). Thậm chí sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh này, nhưng không còn trong viễn cảnh của ngày chung thẩm, mà là trong viễn cảnh của mối thân tình: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3: 20). Chúng ta có thể nói thêm mà không sợ ngược lại tư tưởng của tác giả: “Hãy kiên nhẫn, vì anh em không biết ngày nào giờ nào”. Chữ “kiên nhẫn”, theo nghĩa mạnh của từ, có nghĩa là biết chịu đựng những gian khổ như các ngôn sứ đã từng chịu.

3/. Noi gương các ngôn sứ:

“Về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ, là những vị đã nói nhân danh Chúa”. Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ I-sai-a bị xử tử, ngôn sứ Mi-kha bị lăng nhục, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua A-kháp và vua Giô-a-kim, và cũng có thể dưới triều đại vua Ma-na-sê vô đạo. Lời khóc thương thành Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su chứng thực sự kiện này: “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được được sai đến cùng ngươi!” (Lc 13: 34). Trong Tin Mừng Mát-thêu, Mối Phúc sau cùng kết thúc với việc nêu lên những bách hại mà các ngôn sứ phải chịu:“Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sĩ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa…Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế”(Mt 5: 11-12).

Rõ ràng thánh Gia-cô-bê thấm nhuần giáo huấn của các Mối Phúc Thật. Phúc thay những người nghèo và những người bị bách hại, được lập đi lập lại trong Thư của thánh nhân như một điệp khúc. Việc thánh nhân ám chỉ đến số phận của các ngôn sứ, dù rất ngắn, dẫn đưa chúng ta vào bản văn Tin Mừng: thánh Gioan Tẩy Giả bị tống giam vào ngục.

TIN MỪNG (Mt 11: 2-11)

Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị Hê-rô-đê An-ti-pát tống giam vào ngục. Vị tiểu vương cai trị miền Ga-li-lê này là một trong những con của vua Hê-rô-đê Cả. Vị Tiền Hô đã cực lực tố cáo nhân vật quyền cao chức trọng này mà không một chút e dè sợ hãi, vì vị tiểu vương này đã muốn lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh mình là tiểu vương Phi-líp-phê. Như vậy, thánh nhân đã chịu bạo lực như Chúa Giê-su đã loan báo cho các môn đệ Ngài (10: 16-25).

Trong tù, thánh Gioan nghe nói về những việc Chúa Giê-su làm và ông đâm lòng ngờ vực. Chính thánh Gioan đã loan báo rằng thời Chúa Giê-su, thời xét xử đã đến, lúa tốt thì thu vào kho lẫm, còn lúa xấu thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt. Ấy vậy, Chúa Giê-su công bố rằng mùa thu hoạch, nghĩa là ngày Thiên Chúa thưởng công báo oán, chưa đến.

1/. Câu hỏi của thánh Gioan Tẩy Giả:

Thánh Gioan là một người rất nhạy bén trước tội lỗi, ông không thể chịu đựng tội lỗi, ông đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, bất chấp hậu quả mà mình phải gánh chịu. Ấy vậy, ông nghe tường thuật rằng Đức Giê-su giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà của họ, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Vì thế, thánh nhân sai các môn đệ của mình đến hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.

2/. Câu trả lời của Chúa Giê-su:

Chúa Giê-su trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn I-sai-a đều có hậu cảnh Mê-si-a: trước hết, Is 29: 17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; tiếp đó, Is 26: 19: người chết sống lại; sau cùng, Is 61: 1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.

Câu trích dẫn sau cùng là rõ ràng nhất, vì được đặt lại vào trong mạch văn của nó, đoạn văn này hình thành nên một sứ điệp mà Chúa Giê-su nhắn gởi cho thánh Gioan Tẩy Giả. Quả thật, lời loan báo đầy đủ của I-sai-a như sau: “Thần Khí Đức Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn”. Vì thế, Chúa Giê-su đồng hóa mình với Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, tức Đấng Mê-si-a. Còn đối với lời loan báo của I-sai-a tiếp theo sau: “băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân”, Chúa Giê-su có chủ ý không trích dẫn. Việc bỏ rơi này cũng có ý nghĩa. Gioan Tẩy Giả không thể không hiểu: thánh nhân phải đảm nhận sự thử thách của mình.

Những ám chỉ Kinh Thánh này nhắc nhở cho vị Tiền Hô rằng kỷ nguyên Mê-si-a phải được thiết lập, nhưng không bằng bạo lực mà bằng những ân phúc, Kinh Thánh đã thấy trước cách thức hành động này của Đấng Mê-si-a. Nhiều vị thánh đã kinh qua những giai đoạn nghi nan ngờ vực, đêm tăm tối của đức tin. Hơn nữa, cuộc đời của Gioan Tẩy Giả báo trước nhiều điểm cuộc đời của Chúa Ki-tô. Chúa Giê-su cũng đã cảm thấy chơ vơ cô quạnh trong viễn cảnh của cuộc khổ nạn sắp đến. Thánh Thần, Đấng đã hằng nâng đỡ Ngài, dường như đã bỏ rơi mình.

3/. Chúa Giê-su ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả:

Sau khi các môn đệ của Gioan ra đi, Chúa Giê-su ngỏ lời với đám đông, Ngài hết lời ca ngợi thánh Gioan Tẩy Giả. Đức Giê-su ca ngợi đức công minh chính trực của thánh nhân: không khuất phục trước bạo quyền và cách sống đạm bạc của thánh nhân. Chính qua cung cách sống của mình, thánh nhân hiện thân một vị ngôn sứ, tức là người nói nhân danh Thiên Chúa, thế vì Thiên Chúa. Nhưng thánh nhân còn cao trọng hơn các ngôn sứ trước ông, bởi vì các ngôn sứ chỉ loan báo Đấng Mê-si-a, trong khi thánh Gioan không chỉ loan báo mà còn đích thân gặp gỡ Đấng Mê-si-a và chỉ cho người ta thấy Đấng Mê-si-a nữa.

Bất ngờ cung giọng thay đổi, Chúa Giê-su công bố những lời gây bối rối cho người nghe:“Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời con cao trọng hơn ông”. Ở đây, Chúa Giê-su không nhắm đến công đức cho bằng hai thời kỳ, thời Cựu Ước và thời Tân Ước, và những người được dự phần vào hai thời kỳ ấy. Thời kỳ mà Chúa Giê-su khai mạc là thời kỳ Tân Ước, tức là thời kỳ thực hiện và hoàn tất, vì thế trổi vượt hơn nhiều thời kỳ Cựu Ước, tức là thời kỳ loan báo và chuẩn bị mà thánh Gioan, một trong các ngôn sứ, vẫn còn thuộc về thời kỳ Cựu Ước ấy. Lúc đó, phản đề nhắm đến hai trật tự vĩ đại: cái vĩ đại của Gioan Tẩy Giả được xem như ngôn sứ và vị Tiền Hô trực tiếp của Đấng Mê-si-a và cái vĩ đại khôn sánh của những những người thuộc về thời đại của Đấng Mê-si-a, thời Tân Ước, như sau này Chúa Giê-su nói rõ với các môn đệ Ngài: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc, vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thạt anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13: 16-17). 

Trong một bối cảnh khác, Chúa Giê-su sử dụng lập luận tương tự: trong đám đông có một phụ nữ lên tiếng: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”, Chúa Giê-su đáp lại: “Phúc thay kẻ lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa” (Lc 11: 27-28). Chúa Giê-su không muốn giảm thiểu sự cao cả của Mẹ Ngài một chút nào, rõ ràng Mẹ Ngài là mẫu gương của những ai lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa, nhưng nhằm mở rộng “mối phúc này” cho hết mọi người. Ở đây cũng vậy, Chúa Giê-su không tìm cách giảm thiểu Gioan Tẩy Giả, nhưng nhằm đảm bảo với thính giả của Ngài: Nước Thiên Chúa không chỉ được dành riêng cho các ngôn sứ, nhưng cho hết mọi người; ai cũng đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa mà Ngài khai mạc.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

 CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG – A

ĐẤNG CỨU ĐỘ ĐÃ GẦN ĐẾN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

  1. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Trong Mùa Vọng, lễ phục của chủ tế màu tím. Nhưng hôm nay chủ tế mặc lễ phục màu hồng, màu vui mừng! Bởi vì hôm nay Lời Chúa loan báo cho chúng ta một tin hết sức vui mừng: Chúa sắp đến viếng thăm chúng ta!

Nhưng không phải là Chúa đã đến ở Bêlem cách nay khoảng 2000 năm hay sao? Tại sao lại nói là Chúa sắp đến? Thưa quả thực ở Bêlem Chúa đã đến với trần gian, nhưng chưa đến với tâm hồn mọi người. Mà điều Chúa thiết tha mong muốn không phải là đến một nơi nhưng là đến với con người.

Chỉ còn hơn một tuần lễ nữa thôi là chúng ta lại mừng lễ Giáng sinh, kỷ niệm lần đầu tiên Ngôi Hai Thiên Chúa đến trần gian. Nhưng phải chăng một lần nữa Chúa chỉ đến trong hang đá lạnh lẽo, mà không đến được với tâm hồn mỗi người chúng ta?

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy chúng ta phải làm gì để Chúa có thể đến tận tâm hồn chúng ta.

  1. GỢI Ý SÁM HỐI
  • Ðã bao nhiêu lần Chúa muốn đến thăm viếng tâm hồn chúng ta, nhưng bấy nhiêu lần Ngài đều không đến được vì cánh cửa tâm hồn chúng ta đã khóa chặt.
  • Chúng ta mong chờ biết bao người đến thăm chúng ta, như những người thân, những người mang lại lợi lộc vật chất. Nhưng rất ít khi chúng ta mong chờ Chúa đến.
  • Thậm chí nhiều lần chúng ta còn xua đuổi Chúa.

III. LỜI CHÚA

  1. Bài đọc I (Is 35,1-6a): 

Nhìn chung quanh mình, ngôn sứ Isaia thấy những cảnh bất hạnh: nhiều người mệt mỏi chán chường với “những bàn tay rời rã, những đầu gối mỏi mòn”; nhiều người khác bi quan sợ hãi trước những áp bức, bất công; nhiều người khác nữa đau buồn rên siết trong biển khổ cuộc đời…

Ngôn sứ Isaia an ủi và khích lệ họ: mọi bất hạnh sẽ biến mất khi Thiên Chúa đến: “Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi”

  1. Ðáp ca (Tv 145): 

Lời cầu nguyện của Tv 145 này biểu lộ niềm tin tưởng vào lời Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia. Tác giả tin rằng khi Thiên Chúa đến, Ngài sẽ minh oan cho người bị áp bức, nâng đỡ những người yếu đuối, chở che những người cô thế cô thân… Bởi thế, tác giả cất tiếng nài van “Lạy Chúa, xin đến cứu thoát chúng tôi”.

  1. Tin Mừng (Mt 11,2-11): 

Cũng như mọi người khác đương thời, Gioan Tẩy Giả nôn nóng chờ Ðấng Messia của Thiên Chúa đến. Gioan cũng đoán rằng Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia ấy. Chỉ có điều Gioan lại quan niệm rằng Ðấng Messia là một vị Thẩm phán nghiêm minh. Ngài đến để trừng trị những người gian ác. Vì thế khi thấy Ðức Giêsu chưa làm gì để trừng trị kẻ ác, thậm chí bản thân Gioan đang bị kẻ ác giam giữ trong ngục mà Ngài cũng chưa ra tay. Gioan đâm ra hoang mang, ông sai môn đệ đến thưa Người rằng: “Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng?”

Ðức Giêsu không trả lời trực tiếp. Ngài bảo các môn đệ của Gioan về thuật lại cho thầy họ tất cả những điều họ thấy Ngài làm: những kẻ bệnh hoạn tật nguyền được cứu chữa và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo. Ðó là những chi tiết mà ngôn sứ Isaia dùng để mô tả Ðấng Messia, nhưng không phải là một Ðấng Messia thẩm phán, mà là một Ðấng Messia Tôi Tớ.

Như thế, một cách gián tiếp, Ðức Giêsu đã trả lời cho Gioan biết rằng Ngài chính là Ðấng Messia; đồng thời Ngài cũng điều chỉnh lại quan niệm Messia của Gioan: Ðấng Messia đến không phải để trừng trị mà để cứu vớt.

Quan niệm này quả là quá xa lạ với suy nghĩ của Gioan. Vì thế, Ðức Giêsu nhắn với ông “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.

  1. Bài đọc II (Gcb 5,7-10): 

Thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu mong chờ Chúa lại đến lần thứ hai. Càng khổ sở vì cuộc sống vất vả, càng cảm thấy yếu thế trước những áp bức bất công, họ càng mong Chúa mau đến. Thế nhưng mong chờ đã lâu mà sao vẫn chưa thấy Chúa đến? Họ bắt đầu nản lòng.

Thánh Giacôbê khuyến khích họ hãy làm như bác nông phu: đã gieo giống rồi thì thế nào cũng tới mùa gặt hái, chỉ cần kiên nhẫn chờ đợi thôi: “Anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến”.

  1. GỢI Ý GIẢNG
  2. Người ta đang cần Chúa

Nhìn bề ngoài thì xem ra con người thời nay rất đầy đủ. Nhưng nếu đi sâu đến tận đáy lòng, ta mới thấy nhiều khoảng trống mênh mông rất cần được lấp đầy:

– Khoảng trống “siêu vật chất”: Mặc dù tiền bạc, của cải, tiện nghi… – nói chung là vật chất – có rất nhiều, nhưng lòng người vẫn luôn thấy thiếu. Chỗ thiếu vắng này không thế lấy tiền mà mua được, không thể lấy vật chất mà lấp đầy được.

– Khoảng trống “tình yêu”: người ta sống với nhau vì quyền lợi. Ai có lợi cho tôi thì tôi đến; ai không có lợi thì tôi thờ ơ, ai không còn có lợi thì tôi bỏ, ai có hại thì tôi tìm cách diệt trừ… Hình như tình yêu không có chỗ trong lòng người.

– Khoảng trống “vĩnh hằng”: mọi thứ mà người thời nay có đều chỉ là tạm bợ, kéo dài lắm cũng chỉ là “trăm năm trong cõi người ta”. Con người cần cái gì đó dài hơn, lâu hơn, mãi mãi…

Những khoảng trống ấy thật là mênh mông, và không ai ngoài Chúa có thể lấp đầy. Con người thời nay đang rất cần Chúa.

  1. Ðừng nóng vội

Trước một vấn đề quan trọng cần giải quyết, người ta chia thành hai hạng khác nhau:

  • Những người nóng vội: muốn giải quyết ngay tức khắc, bằng cách nào cũng được, kết quả thế nào cũng được.
  • Những người kiên nhẫn: tìm hiểu kỹ vấn đề, suy nghĩ cách giải quyết thỏa đáng nhất, chờ có đủ điều kiện thuận lợi nhất.

Phần Thiên Chúa, Ngài không nóng vội nhưng rất kiên nhẫn, bởi vì Ngài muốn cứu chữa tận căn, muốn cải tạo con người, muốn canh tân thế giới.

Phần mỗi người chúng ta, cũng chớ tìm những giải pháp nhanh chóng mà hời hợt, nhưng hãy kiên nhẫn: kiên nhẫn điều trị tận gốc căn bệnh của mình, kiên nhẫn cải tạo từng mặt cuộc sống của mình, và kiên nhẫn góp phần canh tân thế giới.

  1. “Hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?”

Tuy Gioan là một ngôn sứ và còn là vị Tiền hô, nhưng câu hỏi này của ông lại rất “phàm trần”: Ông nghĩ rằng Ðức Giêsu là Ðấng Messia Thẩm phán. Nhưng khi thấy Ngài chẳng xét xử và trừng trị ai thì ông nghĩ tới “một Ðấng nào khác”.

Nhưng chúng ta còn “phàm trần” hơn Gioan nhiều: Dù đã biết Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia, nhưng chúng ta không đủ tin nơi Ngài, chúng ta hướng về nhiều “messia khác”: messia-tiền-bạc, messia-thế-lực, messia-lạc-thú…

Tuyên ngôn Dominus Jesus khẳng định rằng Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Ðộ duy nhất, ngoài Ngài ra chẳng có đấng messia nào cả. Không hết lòng tin tưởng vào Ðức Giêsu là “vấp ngã”, chạy theo những đấng messia khác cũng là “vấp ngã”. Vì thế Ðức Giêsu đã khuyến cáo: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.

  1. Một cây sậy phất phơ trước gió

Gioan Tẩy giả không phải là một cây sậy phất phơ trước gió, vì Gioan không phải là người yếu đuối nhu nhược dễ uốn mình trước áp lực và dư luận.

Nhưng hình ảnh cậy sậy phất phơ trước gió có thể dạy ta nhiều điều:

  • Nó vừa mềm vừa nhẹ nên gió thổi nó nghiêng về hướng nào cũng được.
  • Nhưng nó lại rất mạnh: giông to gió lớn có thể xô ngã những cây cổ thụ to lớn, nhưng không thể bứng gốc cây sậy nhỏ bé này.

Lạy Chúa,

  • xin dạy chúng con hiểu rằng sức mạnh ở trong sự yếu đuối và dịu dàng
  • xin dạy chúng con khôn ngoan biết khi nào phải cong xuống và khi nào phải trụ vững vàng.
  1. Chuyện minh họa

a/ Ông có phải là Chúa Giêsu không?

Một nhóm thương gia dự một cuộc họp. Người nào cũng báo trước với vợ con là sẽ về nhà đúng giờ ăn bữa tối. Nhưng cuộc họp kéo dài hơn dự định. Tan buổi họp, ai nấy hối hả chạy ra xe buýt. Một người xô phải quầy bán táo của một cậu bé, táo rơi tứ tung. Nhưng không ai dừng lại để lượm giúp cậu. Rồi mọi người đều lên được xe buýt, thở phào nhẹ nhõm.

Nhưng ít giây sau, một người trong nhóm cảm thấy bứt rứt về chuyện cậu bé bán táo. Ông xuống xe trở lại chỗ cũ. Ông thấy cậu bé đang vất vả mò tìm từng trái táo để lượm lại. Thì ra cậu bị mù! Tội nghiệp quá, ông giúp cậu lượm lại từng quả cho đến hết. Một số quả đã bị giập. Ông móc túi dúi vào tay cậu bé một món tiền, rồi ra đi. Cậu bé bán táo hỏi với theo “Ông có phải là Giêsu không?”

Theo một nghĩa nào đó, ông ta là Chúa Giêsu. Thời nay đang cần có nhiều Chúa Giêsu như thế.

b/ Ðối phó với Ðấng Messia

Ngày kia đang lúc trời mưa như trút nước, một người chủ nông trại giàu có từ đồng trở về nhà và than phiền với giọng đầy lo lắng:

– Rebecca, nghe đâu trong thành người ta đang kể một câu chuyện kinh khủng lắm: Ðấng Messia đã đến giữa chúng ta!

Người vợ hỏi:

– Có gì mà kinh khủng hả? Tôi tưởng đó là chuyện tuyệt vời chứ. Sao mà ông hoảng hốt vậy?

Người chồng lớn tiếng than:

– Tôi hoảng hốt ư? Sao biết bao năm trời vất vả lao nhọc, chúng ta mới được giàu có với bầy súc vật hàng ngàn con, với những kho lẫm đầy ắp và cây cối nặng trĩu quả. Thế mà, bà biết không, chúng ta sắp phải bỏ hết để đi theo Ngài.

Bà vợ ôn tồn như muốn an ủi ông:

– Thôi, bình tĩnh đi ông. Chúa là Thiên Chúa nhân lành. Ngài biết rõ người Do Thái chúng ta đã luôn luôn phải chịu đau khổ, chúng ta phải đương đầu với Pharaon, Haman, Hitler… nghĩa là luôn luôn với một kẻ nào đó. Nhưng Thiên Chúa chúng ta đã có cách đối phó với họ mà, phải không? Thế thì Ngài cũng có cách đối phó với Ðấng Messia chứ! (Anthony de Mello, Lời kinh của Con Ếch)

  1. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI 

CT: Anh chị em thân mến

Ðức Giêsu Kitô, Ngôi hai Thiên Chúa, sắp ngự xuống trần gian. Người sẽ mang đến cho nhân loại đang đau khổ vì chiến tranh ơn hòa bình, đang oằn oại trong tội lỗi ơn giải thoát, đang sống trong bất hạnh được hạnh phúc tràn đầy. Chúng ta cùng chung lời cảm tạ Chúa và tha thiết khẩn cầu:

  1. Sứ mạng cao cả của Hội Thánh / là rao giảng Tin Mừng cứu độ cho các dân tộc. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho việc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh / luôn đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
  2. Trên thế giới ngày nay / việc phân bố tài nguyên các quốc gia không đồng đều / vì có những nước quá giàu / trong khi đó có những nước quá nghèo. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những nước giàu / biết quan tâm giúp đỡ một cách vô vị lợi / những nước chậm phát triển / cách riêng những nước mà một phần lớn dân chúng sống dưới mức tối thiểu.
  3. Trong cuộc sống thường ngày / có một số người tôn thờ cá nhân chủ nghĩa / chỉ lo sống hưởng thụ ích kỷ. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người kitô hữu hiểu rằng / không ai sống cho mình / mà là sống cho Chúa và sống vì người khác / vì không ai là một hòn đảo trong đại dương bao la của cuộc đời này.
  4. Ngày xưa / Ðức Giêsu đã chinh phục người khác bằng tình thương hy sinh / bằng việc phục vụ hết lòng. / Ngày nay / Người đòi hỏi các kitô hữu cũng phải sống như Người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho mọi người trong giáo xứ chúng ta / biết yêu thương / tôn trọng / và giúp đỡ những người chung quanh mình / nhất là những ai đói nghèo / túng thiếu và đang gặp đau khổ.

CT: Lạy Chúa là Cha từ bi nhân hậu, xin cho chúng con biết kiên trì tỉnh thức mà chờ đợi Ngôi Hai Con Chúa giáng trần, và biết cầm đèn cháy sáng trong tay mà hăm hở đón Người đang ngự đến. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

  1. TRONG THÁNH LỄ

– Kinh Tiền Tụng: nên dùng Kinh Tiền Tụng Mùa Vọng II vì nó nhấn mạnh đến vai trò của Gioan Tẩy Giả và diễn tả niềm vui của tín hữu đang khi chờ đợi lễ Giáng sinh.

– Kinh Nguyện Thánh Thể: nên dùng KNTT 4, nhấn mạnh một số nơi: 

. (Cuối đoạn 3): “… Người đã loan Tin Mừng cứu độ cho người nghèo khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ tù đày, đem lại niềm vui cho những ai sầu khổ.”

– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy tha thiết dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha, xin cho Nước Ngài mau trị đến, để lấp đầy những khát vọng của những kẻ nghèo hèn là con cái đích thực của Ngài.

VII. GIẢI TÁN

Ðức Giêsu đã nói với các môn đệ của Thánh Gioan Tẩy giả: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các anh nghe và thấy”. Giờ đây, anh chị em sắp trở về với cuộc sống xã hội, Ðức Giêsu cũng nói với anh chị em: Hãy đi thuật lại cho mọi người những gì mà trong Thánh lễ này Chúa đã cho anh chị em được nghe và được thấy.

home Mục lục Lưu trữ