Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 48
Tổng truy cập: 1360980
HIÊN CHÚA LÀ NGUỒN MẠCH CỦA SỰ BÌNH AN
THIÊN CHÚA LÀ NGUỒN MẠCH CỦA SỰ BÌNH AN (*)-
Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Vào Chúa Nhật XIX Thường Niên Năm A nầy, bản văn Cựu Ước và bản văn Tin Mừng cùng nhau giới thiệu Thiên Chúa là nguồn mạch của sự bình an.
1V 19: 9, 11-13
Trong sách Các Vua quyển thứ nhất, Thiên Chúa tỏ mình ra với ngôn sứ Ê-li-a trên núi Khô-rếp (tên gọi khác của núi Xi-nai), không còn trong cảnh sấm chớp kinh thiên động địa, nhưng trong cõi thinh lặng chứa chan ân tình trìu mến.
Rm 9: 1-5
Trái lại, Bài Đọc II trích từ thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma là một lời tâm sự đầy xao xuyến của thánh nhân trước sự cứng lòng tin của đồng bào Do thái của mình, tuy họ đã được Thiên Chúa đổ tràn biết bao thánh ân.
Mt 14: 22-33
Tin Mừng tường thuật việc Đức Giê-su đi trên biển hồ trong phong ba bão tố. Ngay khi Ngài gặp lại các môn đệ trên thuyền, bão tố trở nên dịu êm. Sự bình yên trở lại trên thiên nhiên và trong cõi lòng của con người.
BÀI ĐỌC I (1V 19: 9, 11-13)
Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai dành một chỗ rộng lớn cho vai trò của các ngôn sứ, đặc biệt cho ba ngôn sứ: Ê-li-a, Ê-li-sa và I-sai-a.
Ngôn sứ Ê-li-a là một nhân vật thần bí có quyền năng hô phong hoán vũ, nhưng trước hết, là một con người của đức tin. Ông thực hiện sứ vụ ngôn sứ của mình ở vương quốc miền Bắc (còn gọi vương quốc Ít-ra-en), vào triều đại của vua A-kháp (874-853 tCn). Sứ mạng của ông gặp nhiều gian truân. Vua A-kháp là một vị quân vương vô đạo. Vợ vua, hoàng hậu I-de-ven, ngoại đạo, công chúa của vua Xi-đon, vua này vừa là vua đồng thời cũng là tư tế của thần Ba-an. Vua A-kháp sùng bái việc cúng tế ngẫu tượng và không thể chịu đựng được những lời khiển trách của ngôn sứ Ê-li-a. Trong khi đó, hoàng hậu I-de-ven quyết tâm truy lùng ngôn sứ Ê-li-a sau biến cố ngôn sứ Ê-li-a tru diệt các ngôn sứ của thần Ba-an trên núi Cát-men.
*1.Hành trình tâm linh của ngôn sứ Ê-li-a.
Trước cuộc bách hại của vương triều, Ngôn sứ Ê-li-a rời bỏ vương quốc miền Bắc, trốn chạy vào vương quốc miền Nam (cũng gọi là vương quốc Giu-đa) cho đến tận biên giới sa mạc xa xôi. Ở đó, ông quyết định thực hiện một cuộc hành hương theo vết chân của ông Mô-sê. Sau một cuộc hành trình dài, ông đến núi thánh Khô-rếp (cũng được gọi núi Xi-nai theo truyền thống vương quốc miền Bắc). Chán nản vì những nổ lực của ông đã biến thành mây khói, vị ngôn sứ cố gắng tôi luyện lại niềm tin của mình trên chính những nơi Thiên Chúa đã tỏ mình ra.
Bốn thế kỷ cách biệt giữa ngôn sứ Ê-li-a và ông Mô-sê, dường như núi Khô-rếp đã trở thành thánh địa hành hương. Vị ngôn sứ nằm nghỉ trong một chiếc hang xưa kia ông Mô-sê đã trú ngụ, nơi mà truyền thống đã xem như thánh địa.
Chính để an ủi người tôi trung của mình, Thiên Chúa tỏ mình ra nhưng không trong tiếng sấm chớp kinh thiên động địa, cũng không trong cảnh đất rung núi lỡ hồn xiêu phách lạc, nhưng trong “làn gió mát hiu hiu thổi” (dịch sát từ: “trong tiếng động của cõi thinh lặng tinh tế”).
*2.Tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa.
Hai hoàn cảnh thần hiển với ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a không như nhau. Xưa kia, dân Do thái cắm lều ở dưới chân núi Xi-nai. Vào lúc đó, Thiên Chúa đã ngỏ lời với dân trong cảnh trời đất rung chuyển và núi non hừng hực lửa, ngõ hầu toàn dân nhận biết sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa, nhờ đó dân biết kính sợ Ngài và lắng nghe ông Mô-sê, người trung gian của Ngài.
Trái lại, ngôn sứ Ê-li-a hoàn toàn cô độc, không tìm thấy một nơi nương tựa nào trên trần thế nầy. Thiên Chúa, thay vì làm ông khiếp sợ, tỏ mình ra trong giọng nói thì thầm dịu êm. Đây là cách thức khác Thiên Chúa bày tỏ sự thánh thiêng của Ngài. Hành động cứu độ của Thiên Chúa không tất yếu phải là ngoạn mục, ngược lại thường nhất là kín đáo. Trong trường hợp của ngôn sứ Ê-li-a, Thiên Chúa muốn ông hiểu rằng Ngài đang lắng nghe lời cầu nguyện của ông. Chính trong ân tình trìu mến mà Ngài muốn chuyện trò với ông.
Ngoài ra, không ngoại trừ rằng tác giả muốn cho dân Do thái bất tín và thờ ngẫu tượng một bài học: thần Ba-an của dân Ca-na-an là thần bão tố; còn Đức Chúa, Thiên Chúa chân thật, thì hoàn toàn khác.
Thật tuyệt vời khi Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đã đối chiếu hai bản văn Cựu Ước và Tân Ước để giới thiệu Đức Giê-su là Đấng dẹp yên phong ba bão tố. Chính Ngài đem lại sự bình an. Sự hiện diện của Thiên Chúa là nguồn mạch của sự bình an.
BÀI ĐỌC II (Rm 9: 1-5)
Bài Đọc II bắt đầu trích chương 9 của thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, trong đó thánh nhân thú nhận những nỗi phiền muộn bao la của mình trước sự cứng lòng tin của đồng bào Do thái của thánh nhân.
*1.Nỗi ưu phiền lớn lao.
Nỗi phiền muộn của thánh Phao-lô lớn lao đến mức thánh nhân sợ người ta không muốn tin như vậy. Vì thế, thánh nhân viện dẫn Đức Ki-tô ra làm chứng: “Có Đức Ki-tô chứng giám”, đoạn Chúa Thánh Thần: “Lương tâm tôi, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi”. Người ta có thể nghĩ rằng thánh Phao-lô đã muốn trung thành với truyền thống Do thái theo đó một sự kiện được cho là thật nếu có hai người làm chứng.
Thánh nhân vừa mới trình bày một cách nồng nàn vận mệnh vinh quang được chuẩn bị cho các tín hữu (chương 8). Thật sự là nỗi đau đến xé lòng nếu như đồng bào của mình đã không được dự phần vào vinh quang nầy. Thánh nhân chấp nhận chịu nguyền rủa để cứu anh em đồng bào cùng chung huyết thống với mình, dù phải hiến dâng chính bản thân mình, thì ngài cũng cam lòng. Ở đây, thánh nhân dùng từ Hy lạp “tách ra” theo nghĩa tiêu cực. Từ Hy lạp nầy có hai nét nghĩa, hoặc tích cực: đối tượng được tách ra khỏi thế giới phàm trần để được dâng hiến cho Thiên Chúa; hoặc tiêu cực: được tách ra để bị nguyền rủa. Thánh nhân dùng động từ Hy lạp nầy ở nơi khác cũng theo nghĩa tiêu cực như 1Cr 12: 3; 16: 22; Gl 1-8. Tiếng kêu tận đáy lòng, tiếng kêu quá đổi bi thương cùng cực, có lẽ được gợi hứng từ tiếng kêu đến xé lòng của ông Mô-sê trước sự bất trung của dân Do thái cúi mình thờ lạy con bê vàng như là đấng giải phóng họ: “Than ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không thì xin Ngài xóa tên con khỏi cuốn sách sự sống mà Ngài đã viết” (Xh 32: 31-32).
*2.Một dân phản loạn.
Thánh nhân nhắc lại tất cả những ân ban mà Thiên Chúa đã tuôn đổ dư tràn cho dân Ngài: “Họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng giao ước, lề luật, nền phụng tự và những lời hứa”. Sau hết, thánh nhân nhấn mạnh đặc ân cao vời khôn sánh mà dân Do thái đã lãnh nhận, đó chính là “Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ”. Thánh nhân còn nói thêm: “Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn đời”. Đây là một trong những ví dụ hiếm hoi, ở đó thánh Phao-lô gọi Đức Ki-tô là Thiên Chúa. Chúng ta còn gặp một ví dụ duy nhất khác ở Tt 1: 3: “Vào đúng thời đúng buổi, Người đã biểu lộ lời Người trong lời rao giảng đã được giao phó cho tôi, theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta”.
TIN MỪNG (Mt 14: 22-33)
Câu chuyện Đức Giê-su đi trên biển hồ sóng to gió lớn được định vị vào ban đêm sau phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Sau khi hóa bánh ra nhiều cho dân chúng được ăn no nên trong hoang địa, Đức Giê-su buộc các môn đệ xuống thuyền sang bờ hồ bên kia, còn Ngài thì giải tán đám đông dân chúng và lên núi cầu nguyện một mình. Các ông, đa số là những ngư phủ dày dặn kinh nghiệm, biết rằng vượt biển hồ rộng lớn trong đêm tối rất nguy hiểm. Thánh Mát-thêu không đưa ra bất kỳ lời giải thích nào cho thái độ kỳ lạ của Đức Giê-su. Chúng ta biết được nhờ Tin Mừng thứ tư: “Đức Giê-su biết người ta sắp tôn Ngài làm vua, một lần nữa, một mình rút lui lên núi” (Ga 6: 15). Đức Giê-su cẩn trọng tách riêng các môn đệ ra khỏi đám đông, vì sợ rằng các ông để cho mình bị đám đông lôi cuốn nẩy sinh trong lòng ước muốn tái lập vương triều Ít-ra-en. Đó không là sứ mạng của Ngài.
*1.Chúa Giê-su cầu nguyện một mình:
Bất cứ khi nào các thánh ký kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện, họ đều nhấn mạnh tính chất trầm lắng và cô độc của Ngài: “Đức Giê-su lên núi một mình mà cầu nguyện”. Ngài cầu nguyện trong những trường hợp quan trọng (khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả, khi biến hình trên núi cao), trước khi đưa ra những quyết định quan trọng (khi chịu những thử thách trong hoang địa, ở vườn Cây Dầu). Việc Đức Giê-su cầu nguyện sau phép lạ hóa bánh ra nhiều thật sự chiếm lấy thời điểm bản lề. Đám đông tán dương Ngài như một người có phép thuật thần thông biến hóa; họ ước mơ một Đấng Thiên Sai quyền năng trần thế; họ để ngoài tai sứ điệp của Ngài. Thất vọng, Đức Giê-su sắp mở ra cho sứ vụ của Ngài một hướng đi khác: để hết tâm trí vào việc ưu tiên đào tạo các môn đệ của Ngài. Trước khi đưa ra quyết định nầy, Đức Giê-su trải qua suốt buổi chiều và thâu đêm để thân thưa với Cha Ngài.
*2. “Thầy đây, đừng sợ”
Dù cầu nguyện một mình trên núi, Đức Giê-su vẫn không rời mắt khỏi con thuyền của các môn đệ Ngài. Khi thấy con thuyền của họ lâm nguy, Đức Giê-su đi trên mặt biển sóng to gió lớn mà đến với các ông. Theo quan niệm Kinh Thánh, “biển” là nơi các ác thần cư ngụ và hoạt động (x. G 7: 12; Is 27: 1; 51: 9t; Đn 7…). Ở đây, thánh Mát-thêu mô tả con thuyền trong đêm tối “bị vùi dập” bởi những đợt sóng hung dữ, tức là đang ở trong tình trạng bị thế lực sự ác đe dọa.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay sở hữu nhiều yếu tố gợi lên biến cố Phục Sinh. Động từ “đến” được dùng ở đây cũng là động từ tiêu biểu chỉ những lần Đức Giê-su Phục Sinh đến với các môn đệ Ngài (Lc 24: 15; Ga 20: 19) trong tư thế là Đấng chiến thắng những thế lực hung dữ của tử thần. Thời điểm “Đức Giê-su đến với các ông” vào khoảng canh tư, tức từ ba giờ đến sáu giờ sáng nhắc độc giả nhớ thời điểm Đức Giê-su sống lại khi trời “vừa ló dạng” theo thánh Mát-thêu (Mt 28: 1), “lúc mặt trời hé mọc” theo thánh Mác-cô (Mc 16: 2), “vừa tảng sáng” theo thánh Lu-ca (Lc 24: 1), “sáng sớm… lúc trời còn tối” theo thánh Gioan (Ga 20: 1). “Thấy Người đi trên mặt biển, “Các ông hoảng hốt bảo nhau: ‘Ma đấy!’”, tương tự như những lần Đấng Phục Sinh hiện ra, “các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24: 36-37). Trước tiếng kêu kinh khiếp của các môn đệ, Đức Giê-su đáp trả: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” như những lần Đấng Phục Sinh hiện ra trấn an các môn đệ Ngài (x. Mt 28: 10).
Trong bối cảnh này, lời trấn an của Đức Giê-su có nghĩa, chính là Thầy, chứ không phải bóng ma như anh em tưởng. Tuy nhiên, trong Cựu Ước, “Egô Eimi” (chính là Ta”) là danh Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Mô-sê (x. Xh 3: 13-15; Is 42: 8). Với danh xưng nầy, Đức Giê-su khẳng định chân tính thần linh của Ngài.
*3.Cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và thánh Phê-rô:
Cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su với thánh Phê-rô là nguồn riêng của Tin Mừng Mát-thêu. Thánh Phê-rô xin Chúa cho mình được đi trên sóng nước mà đến với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”: Ở đây, thánh Phê-rô không gọi Đức Giê-su theo cách thông thường: “Thưa Thầy”, nhưng “Kurie”: “Thưa Ngài” hay “Lạy Chúa”. Được Chúa Giê-su cho phép, ông hăm hở liều lĩnh, lao xuống nước. Ba lần trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu nêu bật con người của Phê-rô: trong câu chuyện nầy, vào lúc tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê, và vào lúc Biến Hình. Nhưng khi thấy biển động mạnh, ông hoảng sợ, và khi bắt đầu chìm ông liền la lên: “Lạy Chúa, xin cứu con”. Đây là lần đầu tiên một trong các Tông Đồ kêu cứu Đức Giê-su bằng tước hiệu “Đấng Cứu Độ”.
Điều làm nên con người thánh thiện của thánh Phê-rô chính là cứ mỗi lần hành động theo tính khí nông nỗi của mình, ông vấp ngã; nhưng mỗi lần vấp ngã, ông lại chỗi dậy. Mỗi lần vấp ngã càng giúp ông hiểu Thầy hơn như ở đây, ông nhận thức rằng để có được một đức tin vững mạnh, không thể cậy dựa vào sức riêng của mình, nhưng vào Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ của mình. Kinh nghiệm này rất cần thiết cho bất kỳ vị lãnh đạo của Giáo Hội.
*4.Phản ứng của các môn đệ:
Câu chuyện kết thúc trong bầu khí phụng vụ: “Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người” và đồng thanh tuyên xưng: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa”, vì ai có quyền năng chế ngự các thế lực của sự dữ như thế, nếu không phải là Thiên Chúa. Thật xứng hợp với lời ca tụng của thánh vịnh gia về quyền năng của Thiên Chúa:
“Nước đã thấy Ngài, lạy Thiên Chúa,
thấy Ngài, nước rùng mình khiếp sợ,
cả vực sâu cũng run rẩy kinh hoàng.
Đường của Chúa băng qua biển rộng” (Tv 77: 17, 20).
Câu chuyện hôm nay sở hữu cái nền của Giáo Hội hậu Phục Sinh. Giáo phụ Tết-tu-li-a-nô, và sau nầy thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô, sẽ khai triển đề tài nổi tiếng về con thuyền Giáo Hội. Như các Tông Đồ, Giáo Hội, khi trung thành thi hành sứ mạng của mình trên biển đời này, cũng phải đương đầu với biết bao những chống phá của các thế lực hung ác. Nhưng Đấng Phục Sinh không hề rời mắt khỏi con thuyền. Khi cần thiết, Ngài đến cứu giúp Giáo Hội: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (14: 27). Sau khi Chúa Giêsu bước lên thuyền, sóng yên gió lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức đem lại bình yên và chế ngự những thế lực hung ác điên cuồng.
Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng thế. Nếu biết đặt Chúa Giêsu ở trung tâm đời mình như một hiện diện đích thực và sống động, chúng ta sẽ được an bình nội tại, dù bên ngoài tứ bề sóng gió. Về phần mình, thánh Phê-rô là thuyền trưởng lèo lái con thuyền Giáo Hội. Để con thuyền trực chỉ hướng đến bến bờ bình an, vượt qua những phong ba bảo tố, hơn ai hết thánh Phê-rô nhận thức rằng không cậy dựa vào tài năng lèo lái của mình, nhưng đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Giê-su Phục Sinh: “Lạy Chúa, xin cứu con với!” (14: 30). Lời kêu cứu của thánh Phê-rô cũng là lời khẩn cầu của mỗi người chúng ta mỗi khi cần đến ơn phù trợ của Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ của chúng ta: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa”.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
SỐNG TRƯỚC SỰ HIỆN DIỆN UY QUYỀN CỦA CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Anh chị em thân mến
Cuộc sống của chúng ta rất tất bật, bon chen, cực nhọc… Chúng ta cảm thấy mình như bị cuốn hút vào một dòng chảy liên tục, không ngơi nghỉ… Vì thế, có một khoảng thời gian bình lặng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa nhựt như thế này thì thật là bổ ích : chúng ta vừa có dịp bình tâm lại, vừa được nghe Lời giáo huấn của Chúa, lại vừa được múc lấy nghị lực từ nơi Chúa, như lời Ngài đã nói “Hỡi những ai lao nhọc, hãy đến với Ta, các ngươi sẽ tìm được sự ngơi nghỉ”.
Chúng ta đã đến với Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được nghỉ ngơi và bồi dưỡng.
– Chúa luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhưng rất ít khi chúng ta nhớ tới Ngài.
– Chúa sẵn sàng giúp đỡ ta, nhưng ít khi chúng ta xin Ngài giúp.
– Nhiều lần chúng ta làm những điều xấu ngay trước mặt Chúa khiến Chúa phải buồn.
*1. Bài đọc I (1 V 19,9.11-13)
Thời vua Acáp đang trị vì vương quốc Israel, hoàng hậu Giêsaben một mặt đem việc thờ phượng các thần Baal vào nước, mặt khác tích cực bách hại các ngôn sứ của Yavê. Ngôn sứ Eâlia vì dám đương đầu với Bà cho nên bị bà truy nã ráo riết. Ông phải chạy trốn lên núi Horép. Ở đó Thiên Chúa đã hiện ra với Ông và thêm sức cho ông.
Đoạn trích này mô tả Thiên Chúa như là Đấng vô hình nhưng rất gần gũi và hùng mạnh : Eâlia không nhìn thấy Ngài, nhưng ông biết Ngài đang hiện diện bên cạnh ông qua một làn gió hiu hiu.
Thiên Chúa hiện diện gần gũi con người qua Lời giáo huấn, qua ơn cứu độ, qua lòng từ bi… của Ngài.
Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều (Tin Mừng Chúa nhựt tuần trước), Đức Giêsu giục các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia Biển Hồ. Còn Ngài thì ở lại giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện một mình.
Đến chiều, thuyền các môn đệ gặp bão lớn, các ông vô cùng sợ hãi.
Chính lúc đó Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các ông. Ban đầu các ông tưởng là ma nên càng sợ hơn nữa. Nhưng khi đã nhận biết đó là Thầy mình thì các ông bình an trở lại và tuyên xưng “Thật Thầy là Con Thiên Chúa”.
*4. Bài đọc II (Rm 9,1-5) (Chủ đề phụ)
Phaolô là một nhà truyền giáo nhiệt thành. Tuy nhiên ông cảm thấy hầu như bất lực trong việc làm cho những đồng bào do thái của ông tin vào Đức Giêsu Kitô : “Tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn”.
Vì yêu thương đồng bào và tha thiết với sự cứu rỗi của đồng bào, ông dám hy sinh tất cả : “Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Đức Kitô vì phần ích của anh em tôi”.
Nhưng dù sao ông vẫn hy vọng rằng cuối cùng dân do thái sẽ tin, bởi vì dù sao họ cũng “được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang giao ước, lề luật, việc phượng tự và lời hứa”.
*1. Tin lúc an bình và khi gặp sóng gió
…
Hai hình ảnh về một lòng tin đã được thánh Mátthêu nối kết với nhau, như một đối trọng, nói lên sự hiện diện của “Thiên Chúa ở cùng” luôn là điều cần thiết cho các môn đệ năm xưa, cũng như cho mỗi người chúng ta hôm nay. Lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa như một mặt hồ phản chiếu. Có những lúc phẳng lặng trong suốt soi rõ những vẻ đẹp thiên nhiên. Nhưng nhiều khi chỉ một làn gió nhẹ làm gợn sóng, mặt hồ liền xao động, bao nhiêu vẻ đẹp đều tan biến.
Nhìn lại những thăng trầm cuộc đời, mỗi khi chúng ta được sống trong bầu khí an vui, được hài lòng với mọi sở nguyện, chúng ta dễ dàng xác tín và cảm nhận mạnh mẽ sự quan phòng của Chúa. Thế nhưng khi gặp phải những khó khăn thử thách, những điều bất ưng, những nghịch cảnh – như các môn đệ xưa giữa cơn sóng gió – chúng ta cũng dễ dàng hoang mang lo sợ và không nhận ra Ngài. Bởi lẽ chúng ta đã quá lo lắng về cuộc sống và chỉ biết tự lo liệu lấy một mình. Nhưng “Phúc thay ai bước đi không phải nhờ cái nhìn, mà nhờ sự phó thác của niềm tin” (Sh Roger). Quả thật, lòng tin của chúng ta đã nhiều lúc yếu ớt, mong manh – một khi chúng ta không biết tín thác vào Đức Kitô để có sự bình an, không cùng chia xẻ con đường thập giá, như một phương tiện để hưởng nhờ vinh quang với Ngài.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đón nhận thử thách như những cơ hội để trưởng thành lòng tin. Và xin cho chúng con luôn suy gẫm lời dạy của Thánh Bênađô : “Khi bạn được tràn đầy ơn phúc thì chớ có nói ‘Không gì làm tôi nao núng’. Như thế bạn sẽ không phải rên siết : Chúa vừa dấu tôn nhan, lòng tôi đã bàng hoàng” (Mai Chi, báo CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh ’95, trang 228-229)
Tâm trạng và cảm xúc của Phêrô trong bài Tin Mừng này cho ta thấy liên hệ giữa Sợ và Tin :
– Ban đầu khi thuyền gặp bão và không có Đức Giêsu trong thuyền thì Phêrô và tất cả các môn đệ khác đều sợ.
– Đến khi nhận ra cái bóng kia đang đi trên mặt nước là Đức Giêsu thì Phêrô tin, dám xin Thầy cho mình cũng bước trên mặt nước được như Thầy.
– Nhưng khi thấy sóng to gió lớn, đức tin của ông suy giảm, ông liền sợ và bắt đầu chìm.
– Lúc đó ông nhớ tới Chúa, giục lòng tin lại và kêu xin “Lạy Thầy, xin cứu con”. Đức Giêsu đưa tay nắm lấy ông. Ông không còn sợ nữa.
– Cuối cùng khi Thầy trò đã ở trên thuyền, Phêrô và các môn đệ không sợ nữa, họ tuyên xưng đức tin “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa”.
Bài học ở đây là : Chúng ta sợ khi chúng ta không tin hay khi đức tin yếu kém ; nhưng khi tin thì không còn sợ nữa.
*3. Những người đi trên mặt nước
Đức tin không bảo đảm cho người tin khỏi gặp sóng gió, nhưng thêm sức cho người ấy có thể bước đi trên mặt nước giữa sóng gió tơi bời.
Hiểu như thế thì không phải chỉ một mình Phêrô, mà còn rất nhiều người có thể đi trên mặt nước :
– A là một sinh viên sống xa gia đình và ở nhà trọ. Sáng Chúa nhật, trời lạnh, chăn ấm. A không muốn ngồi dậy đi lễ. Vả lại anh cũng ngại bị những bè bạn ngoại đạo thấy anh đi lễ và chê cười anh còn mê tín dị đoan. Sau vài phút dằng co, A cương quyết tung chăn ngồi lên chuẩn bị đi lễ. Nghĩa là A bắt đầu bước đi trên mặt nước, bất chấp sóng gió của cơn mê ngủ và sự dị nghị của bạn bè.
– B là một cô gái độc thân, sau một lần nhẹ dạ đã phải mang thai. Nếu gia đình hay được, nếu hàng xóm biết được thì… ôi thôi, cô không dám nghĩ tiếp. Cô định đi phá thai. Nhưng rồi Cô can đảm giữ lại bào thai ấy. B cũng đang bước đi trên mặt nước bất chấp bao sóng gió phũ phàng của dư luận.
– C là một cảnh sát. Một tên bán ma túy hứa cho anh một số tiền lớn, chỉ cần anh làm ngơ cho việc làm của hắn ; nếu không hắn sẽ sai đồng bọn đến tính sổ với anh. Nhưng anh cương quyết chối từ. C cũng đang đi trên mặt nước, đi ngược với sức quyến rũ của đồng tiền và sóng gió của đe dọa.
Chúng ta còn có thể nghĩ ra thêm rất nhiều thí dụ khác, trong đó có thí dụ hợp với hoàn cảnh của chính mình. Quả thật, nếu có đức tin sống động, ai cũng có thể bước đi trên mặt nước giữa bao sóng gió của cuộc đời.
*4. Chúa hiện diện trong làn gió hiu hiu
Cách viết của tác giả bài đọc I (1V 19,9a.11-13a) hàm chứa một bài học sâu sắc về sự hiện diện của Chúa : Khi ngôn sứ Eâlia đứng trong một hốc núi Horép, ông thấy một luồng gió mạnh xé núi xé non, nhưng Chúa không ở trong đó ; ông lại thấy một cơn bão rất mạnh làm cho đất bị động, nhưng Chúa không ở trong bão ; ông còn thấy lửa, nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Cuối cùng ông thấy một làn gió hiu hiu, ông được soi sáng cho biết có Chúa ở trong đó, ông liền cung kính lấy khăn che mặt lại để bước ra khỏi hang diện kiến Thiên Chúa.
Bài học là : Thiên Chúa không thích hiện diện trong những thứ ồn ào, uy phong, vĩ đại. Ngài thường hiện diện cách êm ả, âm thầm và nhẹ nhàng trong cái rất bình thường của đời thường.
Chúng ta không nhận ra được sự hiện diện của Chúa bởi vì chúng ta cứ mãi tìm Ngài trong những sự phi thường.
a/ Nếu tin, hãy buông tay ra
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông : Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế la lấy hết sức lực, người vô thần la lớn : “Lạy Chúa”. Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn : “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa.” Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao : “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế.” “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất.” Tiếng ấy trả lời : “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra.” Người vô thần thất vọng thốt lên : “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao !” (Trích “Món quà giáng sinh”)
b/ Đức tin lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :
– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha hay thương xót. Người luôn trợ giúp chúng ta dang lúc chúng ta cần. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Con thuyền Hội Thánh thường gặp nhiều phong ba bão táp / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho con thuyền Hội Thánh / luôn được an toàn giữa biển trần gian.
2- Hiện nay / có biết bao kẻ chịu thiệt thòi do nạn kỳ thị chủng tộc / màu da / ngôn ngữ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết tôn trọng quyền lợi / và phẩm giá của những anh chị em ấy.
3- Đời sống khó khăn / lại gặp nhiều thất bại hay đau khổ / khiến một số kitô hữu chán nản thất vọng / mất niềm tin vào Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những t1in hữu đang gặp thử thách luôn hiểu rằng / chỉ có Chúa mới giúp họ đạt được thành công và hạnh phúc.
4- Đức Giêsu đã nói / “Anh em đừng xao xuyến / nhưng hãy tin vào Thầy” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa / giữa muôn vàn thử thách gian nan trong cuộc sống thường ngày.
CT : Lạy Chúa, cuộc sống chúng con thường ngày có quá nhiều buồn phiền và đau khổ, khiến lắm khi chúng con ngã lòng trông cậy. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp, để dù gặp nghịch cảnh đến đâu đi nữa, chúng con vẫn luôn gắn bó và tin yêu Chúa. Chúng con cầu xin…
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam