Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 63

Tổng truy cập: 1355883

HIỆP NHẤT TRONG MỘT BÀN TIỆC CỦA CHÚA

HIỆP NHẤT TRONG MỘT BÀN TIỆC CỦA CHÚA(*)-  Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII này là “Dân Thiên Chúa hiệp nhất trong cùng một bàn tiệc của Chúa”, ở đó Đức Giê-su chia sẻ tận cùng với chúng ta bánh mà Ngài ban tặng chính bản thân Ngài.

2V 4: 42-44

Phép lạ hóa bánh ra nhiều đã là ân ban của ngôn sứ Ê-li-sa trong thời kỳ đói kém ở miền Pa-lê-tin, vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên. Số người được thụ hưởng thành quả bánh hóa nhiều này thì khiêm tốn: bánh hóa nhiều cho trăm người ăn.

Ep 4: 1-6

Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô ca ngợi sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu theo cùng khuôn mẫu sự hiệp nhất của Một Chúa Ba Ngôi: chỉ có một Thân Thể, một Thánh Thần, một Chúa, một niềm tin và một phép rửa…

Ga 6: 1-15

Dấu lạ hóa bánh ra nhiều là ân ban của Đức Giê-su cho đông đảo dân chúng ăn no nê mà còn dư đến mười hai thúng đầy. Đây là dân mà trước đó Ngài đã nuôi họ bằng Lời Hằng Sống của Ngài. Ân ban bánh hóa nhiều này loan báo “ân ban Thánh Thể”.

BÀI ĐỌC I (2V 4: 42-44)

Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ chân truyền của ngôn sứ Ê-li-a. Ông tiếp tục sự nghiệp của thầy mình vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc miền Bắc. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 t.Cn.).

Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai sưu tập những triều đại của các vua (19 vua Ít-ra-en và 20 vua Giu-đa), đồng thời dành một chỗ rộng lớn cho vai trò của các ngôn sứ: về tôn giáo, các ngôn sứ là những người bảo vệ phụng tự tinh tuyền của Đức Chúa và lên án mọi hình thức thờ ngẫu tượng; về luân lý, các ngài tố cáo bạo lực và bất công xã hội; về chính trị, các ngài là những nhà cải cách các triều đại thối nát.

Trong số các tác phẩm Cựu Ước, hai sách Các Vua là những cuốn sách chứa đựng nhiều chuyện tích ly kỳ ý nhị nhất về các ngôn sứ. Trong hai tác phẩm này, ngôn sứ Ê-li-sa được phác họa chân dung kém huyền nhiệm hơn chân dung ngôn sứ Ê-li-a. Ông gần với phàm nhân hơn, dù không kém thần thông biến hóa.

*1.Thời kỳ đói kém:

“Khi nạn đói xảy ra trong xứ” (4: 38): Nạn đói nầy không phải là chuyện hi hữu ở miền Pa-lệ-tin. Cựu Ước nhiều lần trích dẫn những trường hợp đói kém ở miền Pa-lê-tin: chính vì lý do đó mà ông Áp-ra-ham xuống Ai-cập và sau nầy các anh em ông Giu-se cũng xuống đất nước của các Pha-ra-ô này. Đôi khi hạn hán xảy ra nhiều năm liên tiếp. Sách Sa-mu-en trích dẫn một nạn đói kéo dài ba năm và sách Các Vua quyển thứ hai kể lại một nạn đói khác kéo dài bảy năm. Có lẽ câu chuyện hôm nay được kể vào thời gian nạn đói kéo dài bảy năm này.

“Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa…” (4: 42). Đây là lễ phẩm đầu mùa. Vào đầu mùa thu hoạch, người ta trích ra một phần để biếu tặng các tư tế hay “những người của Thiên Chúa”, tức “các ngôn sứ”. Sách Lê-vi viết: “Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới” (Lv 23: 14).

Chúng ta lưu ý rằng mối quan tâm của chuyện tích nầy rõ ràng tập trung vào phép lạ, vì thế truyền thống đã không lưu giữ tên của người biếu tặng: “có một người”; cũng không cho biết địa điểm nơi xảy ra phép lạ.

*2.Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:

Vị ngôn sứ không giữ quà tặng cho riêng mình, nhưng liền chia sẻ ngay với những người túng thiếu và quà tặng nầy hóa ra nhiều. Nhờ tấm lòng chia sẻ quảng đại của vị ngôn sứ, chính Thiên Chúa làm cho tặng phẩm phàm nhân trở nên phong phú. Đó là cách thức mà Thiên Chúa thường sử dụng.

Chuyện tích về ngôn sứ Ê-li-sa làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch cho trăm người ăn có nhiều điểm tương đồng với những bài trình thuật Tin Mừng về việc Đức Giê-su làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ năm chiếc bánh lúa mạch cho năm ngàn người ăn không kể đàn bà trẻ con:

-Ngôn sứ Ê-li-sa bảo tiểu đồng của mình: “Phát cho người ta ăn” (4: 42). Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6: 37; Mt 14: 16; Lc 9: 13).

-Tiểu đồng thưa: “Có bằng nầy, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?” (4: 43). Một trong các môn đệ của Đức Giê-su thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu !” (Ga 6: 9).

-Vị ngôn sứ nói: “Cứ phát cho người ta ăn!… Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Các tác giả Tin Mừng viết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẫu bánh được mười hai thúng đầy”.

-Ngôn sứ Ê-li-sa làm no thỏa nhu cầu vật chất của những người túng thiếu. Quả thật, Đức Giê-su cũng làm no thỏa nhu cầu thể lý của đám đông đang mệt và đói, nhưng cử chỉ của Chúa Giê-su chất chứa biết bao ý nghĩa. Chính Ngài là “dấu chỉ” của chiếc bánh khác: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ!” (Ga 6: 35).

BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-6)

Thánh Phao-lô viết bức thư này khi thánh nhân bị cầm tù ở Rô-ma vào những năm 61-63. Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý (ch. 1-3) và phần thứ hai về luân lý và khích lệ (ch. 4-6). Cả hai phần liên kết chặc chẽ với nhau. Đoạn trích hôm nay (4: 1-6) là đoạn mở đầu của phần thứ hai.

*1.“Tôi là người đang bị tù vì Chúa”:

Để tăng thêm sức mạnh cho những lời khích lệ của mình, ngay từ đầu của phần thứ hai, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đang bị giam cầm; như vậy, thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là một nhân chứng chịu thương chịu khó vì Đức Ki tô.

*2.Ơn gọi làm người Ki tô hữu:

Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã chú tâm trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và truyền cho thánh nhân phải thông truyền cho Giáo Hội của Ngài, đó là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, trong đó mọi người, dù dân Do thái hay lương dân, đều được mời gọi để chia sẻ cùng một ơn cứu độ. Từ đó, thánh nhân nhắc hết mọi người Ki-tô hữu nhớ rằng, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.

Thánh nhân khuyến khích họ: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền lành và nhẫn nại; hãy lấy tình đức ái mà chịu đựng lẫn nhau” (4: 2). Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11: 29). Tiếp đó, thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau bằng cách “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau” (4: 3) Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).

Lời kêu gọi “sống yêu thương thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.

*3.Lời tuyên xưng đức tin:

Trong lúc hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân. Biểu thức này tự nguồn gốc có thể là một lời tuyên xưng phụng vụ mà những người chịu phép rửa công bố khi khẳng định niềm tin của mình, và chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Ngôn từ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê-a.

TIN MỪNG (Ga 6: 1-15)

Vào Chúa Nhật tuần trước, Tin Mừng Mác-cô tường thuật cho chúng ta phần đầu của câu chuyện phép lạ “hóa bánh ra nhiều”, trong đó Đức Giê-su đã động lòng thương dân chúng đến với Ngài như “đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc”, vì thế, Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ bằng cách ban Lời Hằng Sống của Ngài (Mc 6: 34). Tuy nhiên, Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay không tiếp tục câu chuyện bỏ dở của Tin Mừng Mác-cô. Thay vì đó, phụng vụ đề nghị cho chúng ta câu chuyện của Tin Mừng Gioan thuật lại cùng một biến cố với Tin Mừng Mác-cô: dấu lạ hóa bánh ra nhiều. Câu chuyện hóa bánh ra nhiều của thánh Gioan là phần mở đầu bài diễn từ dài của Đức Giê-su về “Bánh Trường Sinh”, mà chúng ta sẽ đọc bốn tuần Chúa Nhật liên tiếp sau đó.

*1.Nơi chốn:

Dấu lạ hóa bánh nhiều là dấu lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mình thuật lại. Ngoài ra, thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thuật lại đến hai lần: một lần từ năm chiếc bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người ăn no nê tại đất Do thái và một lần khác từ bảy chiếc bánh hóa nhiều nuôi bốn ngàn người ăn no nê tại đất dân ngoại. Như vậy, dấu lạ hóa bánh ra nhiều cho thấy Đức Giê-su là Mục Tử nhân lành hoàn vũ, Ngài không chỉ chăm lo cho dân Do thái mà cho cả dân ngoại nữa. Sau này, Giáo Hội bao gồm cả người Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn người Ki-tô hữu gốc lương dân.

Thánh Gioan mở đầu bài trình thuật của mình thật bất ngờ: “Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là biển hồ Ti-bê-ri-a” (6: 1). Tuy nhiên, địa danh biển hồ Ti-bê-ri-a nhắc chúng ta nhớ đến bửa ăn vào lúc trời vừa sáng mà Đức Giê-su Phục Sinh dọn sẵn cho các môn đệ (21: 9-14), sau một mẻ lưới cá lạ lùng, xa hơn một chút sau suốt một đêm đánh cá vất vả trong sương lạnh mà không bắt được một con cá nào.

Có đám đông dân chúng đi theo Ngài vì họ đã chứng kiến những dấu lạ Ngài đã thực hiện. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan không bao giờ dùng từ “phép lạ” như các Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng “dấu lạ”, vì phép lạ nhắm đến quyền năng siêu phàm của Đức Giê-su khiến người chứng kiến phải kinh ngạc, trong khi dấu lạ đòi hỏi người chứng kiến phải tìm hiểu để khám phá ra ý nghĩa của thực tại mà dấu lạ nhắm đến.

Đức Giê-su không lưu lại trên bờ biển hồ, nhưng “Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ” (6: 3). Trong Cựu Ước, núi Xi-nai là nơi Thiên Chúa hiện ra và ban Lề Luật như giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài. Trong Tân Ước, núi là nơi ưu tiên đánh dấu một sứ điệp siêu việt: núi của các Mối Phúc, núi của cuộc Biến Hình, núi của dấu lạ hóa bánh ra nhiều…

*2.Thời điểm:

 Ngay từ đầu câu chuyện, tác giả cho chúng ta thời điểm xảy ra dấu lạ hóa bánh ra nhiều: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái” (6: 4). Thời điểm này rất quý. Trước tiên, nó giải thích tại sao đám đông dân chúng đông đảo đến như thế. Chính ở Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển hồ mà những người hành hương từ khắp nơi quy tụ lại và rồi từ đó khởi hành thành từng nhóm lên thành thánh Giê-ru-sa-lem để tham dự đại lễ Vượt Qua. Nhưng nhất là, lễ Vượt Qua sắp đến đem lại một ý nghĩa sâu xa cho cử chỉ của Đức Giê-su. “Đại lễ của người Do thái” nầy làm cho cử chỉ của Đức Giê-su trở thành cử chỉ ngôn sứ, loan báo lễ Vượt Qua mới, “lễ Vượt Qua của người Ki-tô giáo”, trong đó dấu lạ hóa bánh ra nhiều khác được thực hiện, đó là bàn tiệc Thánh Thể.

*3.Không có bất kỳ giải pháp nào từ phía con người:

Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các môn đệ lưu ý với Đức Giê-su khi nhắc Ngài là giờ đã khá muộn nên giải tán đám đông để “họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn” (Mc 6: 35-36). Trong Tin Mừng Gioan, chính Đức Giê-su ý thức hoàn cảnh và đề xuất sáng kiến.

Đức Giê-su ngỏ lời với ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây” (6: 5). Nhờ Tin Mừng Gioan, chúng ta biết ông Phi-líp-phê là một môn đệ rất năng động và thực tiển. Khi ông Na-tha-na-en chất vấn ông Phi-líp-phê về Đức Giê-su: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?”, ông trả lời ngắn gọn nhưng thực tiển: “Cứ đến mà xem!” (Ga 1: 46). Khi Đức Giê-su gợi lên mối quan hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha, ông thưa ngay cũng rất thực tiển: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14: 8). Ở trong câu chuyện hóa bánh ra nhiều nầy, Đức Giê-su nêu lên với ông một vấn nạn: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”, câu hỏi này hàm chứa một thực trạng: một môn đệ có tài xoay xở nhất trong các môn đệ như ông Phi-líp-phê mà cũng không thể gặp thấy một giải pháp nào, chính vì hoàn cảnh bế tắc, lúc đó dấu lạ sẽ là thích đáng nhất. Mặt khác, chúng ta không thể không lưu ý rằng có hai môn đệ can dự vào câu chuyện là ông Phi-líp-phê và ông An-rê, cả hai đều xuất thân từ Bết-xai-đa, nơi mà hai ông biết rõ nhất phương thế nào giải quyết cho vấn đề này, tuy nhiên chẳng có phương thế nào được gặp thấy ở đây.

Dù thế nào, Đức Giê-su nêu câu hỏi cho ông Phi-líp-phê chỉ “để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi” (6: 6). Điều này cho thấy dấu lạ hóa bánh ra nhiều hoàn toàn xuất phát từ tấm lòng yêu thương của Ngài đối với đám đông dân chúng đang mệt mỏi và đói khát này. Ngài hỏi ông Phi-líp-phê như thế là để ông ý thức rằng nếu chỉ cậy dựa vào những phương tiện nhân loại, người ta đành bất lực không thể nào tìm thấy bất kỳ giải pháp nào cho vấn đề, lúc đó người ta nhận ra rằng không có gì khác ngoài việc đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Giê-su.

Ông Phi-líp-phê tính toán một cách thực tế: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (6: 7). Như chúng ta biết, tiền công nhật là một đồng bạc (chúng ta biết điều nầy nhờ dụ ngôn người làm thuê vào giờ thứ mười một), vậy mà dù có hai trăm đồng bạc mà mua bánh đi nữa, cũng chẳng thấm vào đâu so với nhu cầu của một đám đông dân chúng quá lớn, như lời nhận xét của ông Phi-líp-phê: “Cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Ba Tin Mừng Nhất Lãm nói cho chúng ta biết có “năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ con”. Vì thế, câu trả lời của ông Phi-líp-phê cho thấy rằng chỉ cậy dựa vào giải pháp nhân loại mà thôi, không thể đáp ứng nhu cầu cho một đám người đông đảo như thế.

*4.Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:

Ông An-rê thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá” (6: 8). Em bé biếu tặng khẩu phần ăn của em, cũng như ngôn sứ Ê-li-sa chia sẻ quà biếu của mình và quà tặng của ông hóa ra nhiều. Chính cũng một bài học. Phải nói thêm, Đức Giê-su không bao giờ làm dấu lạ từ hư không; ở nơi nền tảng của một dấu lạ luôn luôn có một yếu tố vật chất. Giáo Hội cũng sẽ thực hiện các bí tích theo cùng một cách thức như vậy.

*5.Tấm lòng của vị Mục Tử Thiên Sai:

Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi” (6: 10). Dân chúng từ một đám đông hỗn tạp đi theo Ngài, trở thành một cộng đoàn có trật tự chỉnh tề hàng ngũ. Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Thánh Mác-cô xác định “Cỏ xanh” (6: 39). Đây là cỏ xanh non vào thời điểm mùa xuân ở miền Pa-lê-tin. Phải chăng điều nầy hàm ý rằng Đức Giê-su là vị mục tử nhân lành mà các ngôn sứ loan báo Ngài dẫn đàn chiên của mình vào đồng cỏ xanh tươi? Thánh Mác-cô nhắc nhớ điều nầy khi xác định “cỏ xanh” gợi nhớ Tv 23 về “người mục tử nhân hậu”. Đối diện với các vị mục tử Ít-ra-en chỉ biết đến mình, Đức Giê-su hành xử như vị Mục Tử Thiên Sai tận tình chăm lo cho dân Ngài.

*6.Dấu chỉ bàn tiệc Thánh Thể:

Không ai có thể phủ nhận rằng dấu lạ hóa bánh ra nhiều làm sáng tỏ việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các thánh ký cũng đã ghi lại như vậy: “Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó” (6: 11). Lời nói và cử chỉ nầy tương tự như lời nói và cử chỉ của Chúa Giê-su ở Tiệc Ly khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: ‘Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy” (Mc 14: 22). Bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê loan báo bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức là thân thể vinh quang của Đức Ki-tô hóa ra nhiều, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu, cùng một lúc, và trong khắp hoàn vũ, cho đến thời cánh chung.

*7.Mười hai thúng đầy những mẫu bánh thừa:

 Như rượu được ban một cách dồi dào ở tiệc cưới Ca-na, bánh cũng được ban một cách dư dật, phần dư được thu lại đến mười hai thúng đầy. Con số mười hai đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ đại diện dân Thiên Chúa mới. Không phải những phần dư này muốn nói rằng có đủ chỗ cho nhiều người khác được mời vào bàn tiệc Thiên Chúa hay sao?

Quả thật, sự dồi dào dư dật là dấu chỉ bữa tiệc Thiên Sai. Các sấm ngôn (Am 9: 13; Is 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18), các Thánh Vịnh (Tv 132; 15: 78; 24-27), các sách minh triết đã loan báo rồi: triều đại Thiên Sai sẽ được đóng ấn bởi một dấu chỉ của sự phú túc và mãn nguyện, hình ảnh báo trước bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho tất cả những người được chọn trong vương quốc của Ngài, biểu tượng niềm hoan lạc thiên giới và mọi của cải tinh thần. (Bàn tiệc Thiên Sai và bàn tiệc cánh chung thường được định vị trong cùng một viễn cảnh).

8.Phản ứng của dân chúng:

Phấn khích trước Đức Giê-su là vị Mô-sê mới, Đấng đã cho họ ăn dư dật “ở nơi hoang vắng nầy”, đám đông đã không hiểu ra được dấu chỉ vương quốc Thiên Chúa, nhưng chỉ nghĩ đến vương quốc trần thế, vì thế, họ muốn “bắt Ngài đem đi mà tôn làm vua” (6: 14). Đức Giê-su không muốn một chút nào chủ nghĩa Thiên Sai chính trị hẹp hòi và nông cạn nầy, nên “Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (6: 15). Thánh Gioan là tác giả Tin Mừng duy nhất ghi lại phản ứng của dân chúng.

9-Nét đặc trưng của dấu lạ hóa bánh ra nhiều theo Tin Mừng Gioan:

Chúng ta ghi nhận rằng dấu lạ “hóa bánh ra nhiều” tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể là gia sản chung của tất cả các cộng đồng Ki-tô hữu tiên khởi.

Trong các bài trình thuật của các Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su, “cầm lấy năm chiếc bánh… dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ, để các ông dọn ra cho dân chúng” (Mc 6: 41). Quả thật, điều Chúa Giê-su làm với bánh nghe có vẻ như lệnh truyền cho “thừa tác viên” Ki-tô giáo tiếp tục thực hiện như vậy khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể. Tin Mừng Gioan cũng mô tả cử chỉ của Chúa Giê-su theo cùng nghi thức như vậy, nhưng với hai nét đặc thù thậm chí còn mang đậm nét Ki-tô giáo hơn: “Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó” (6: 11).

Về nét đặc thù thứ nhất, kiểu nói: “dâng lời tạ ơn” của Tin Mừng Gioan thuộc nền văn hóa Hy-lạp, trong khi kiểu nói: “dâng lời chúc tụng” của các Tin Mừng Nhất Lãm thuộc văn hóa Do thái. Kiểu nói Hy lạp: “dâng lời tạ ơn” (“eucharisteô”) cho chúng ta thuật ngữ: “lễ Tạ Ơn” để chỉ bàn tiệc Thánh Thể của Ki-tô giáo. Kiểu nói nầy lại còn xuất hiện ở 6: 23: “Có những thuyền khác từ Ti-bê-ri-a đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn”.

Về nét đặc thù thứ hai, chính Đức Giê-su đích thân phân phát bánh cũng như Ngài sẽ làm như vậy vào buỗi chiều Tiệc Ly, chứ không qua các môn đệ như Tin Mừng Nhất Lãm. Đây là dấu lạ tối hậu nhắm đến việc Đức Giê-su không chỉ là Đấng ban Bánh Trường Sinh, nhưng còn là Bánh Trường Sinh nuôi dưỡng dân chúng, đặc biệt ở bàn tiệc Thánh Thể, như chính Ngài sẽ công bố trong diễn từ về Bánh Trường Sinh: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống đời đời” (6: 53).

Như vậy, qua dấu lạ hóa bánh ra nhiều, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm và tác giả Tin Mừng Gioan đều khẳng định cùng một chân lý: Trong mỗi Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục làm như vậy qua suốt nhiều thế kỷ sau đó, chăm lo những nhu cầu của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng những thần lương của Ngài, tức là Lời Hằng Sống và Thánh Thể của Ngài, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế. Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Mk, 21).

Thánh Lễ là nét đặc trưng của Ki-tô giáo. Ngay từ rất sớm, Hội Thánh đã xem Thánh Lễ là nguồn sống của mình. Cv 2: 42 ghi nhận nếp sống của các tín hữu sơ khai: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng”. Thánh Phao-lô, trước khi thuật lại bàn tiệc Thánh Thể, đã nói với tín hữu Cô-rin-tô: “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em” (1Cr 11: 23). Đối với người Ki-tô hữu, Thánh Lễ là một ân ban vô giá không thể chuyển nhượng, cũng không có thể được thay thế bởi bất kỳ hành vi đạo đức nào. Nhờ Thánh Lễ, người Ki-tô hữu có được sức mạnh thần thiêng giúp họ đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Lm Henry de Lu-bac tóm tắt tiến trình phát triển của Ki-tô giáo bằng một câu ngắn gọn nhưng đầy đủ ý nghĩa: “Thánh Thể làm nên Hội Thánh và Hội Thánh làm nên Thánh Thể”.

(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- B

CHÚA NUÔI DƯỠNG DÂN NGÀI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Sợi chỉ đỏ :

– Bài đọc I (2 V 4,42-44) : Ngôn sứ Êlisê làm cho bánh hóa ra nhiều.

– Đáp ca (Tv 144) : “Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho chúng tôi được no nê”.

– Tin Mừng (Ga 6,1-15) : Đức Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều.

  1. DẪN VÀO THÁNH  LỄ

Anh chị em thân mến

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều. Có lẽ chúng ta ao ước phải chi mình là người cùng thời với Đức Giêsu để cũng được ăn bánh no nê như dân do thái xưa. Thực ra phép lạ này ngày nay vẫn được tái diễn trong Thánh Lễ. Dự Thánh lễ là quy tụ quanh Đức Giêsu như dân do thái này xưa, Rước lễ là được ăn thứ lương thực kỳ diệu quý hơn cả manna của dân do thái.

Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ này trong tâm tình sốt mến tạ ơn.

  1. GỢI Ý SÁM HỐI

– Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta lười biếng tham dự Thánh lễ.

– Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta rước lễ không xứng đáng.

– Xin Chúa tha thứ vì chúng ta ích kỷ không chia xẻ với anh chị em chúng ta.

III. LỜI CHÚA

  1. Bài đọc I(2 V 4,42-44)

Ngôn sứ Êlisê đã làm phép lạ 20 chiếc bánh lúa mạch hóa nên nhiều cho 100 người ăn no nê.

  1. Đáp ca(Tv 144)

Tv này mô tả Thiên Chúa như một vị vua lý tưởng. Một vị Vua tốt luôn chăm lo đến đời sống của thần dân mình, nhờ đó mọi người đều có thức ăn đúng giờ và luôn no nê. “Chúa mở rộng bàn tay và thi ân cho chúng tôi được no nê”.

  1. Tin Mừng(Ga 6,1-15)

Phép lạ hóa bánh ra nhiều theo cách tường thuật của Thánh Gioan có một số chi tiết mang ý nghĩa đặc biệt :

– Phép lạ này diễn ra trong thời gian lễ Vượt Qua. Chi tiết này nhằm cho thấy thứ lương thực mà Đức Giêsu ban cho dân chúng trổi vượt thứ manna mà dân do thái được ăn trong thời gian ở sa mạc.

– Không phải dân chúng xin Đức Giêsu, cũng không phải các môn đệ can thiệp, mà chính Đức Giêsu thấy dân chúng đói và chính Ngài gợi ý tìm thức ăn cho họ.

– Đức Giêsu làm phép lạ này từ phần đóng góp 5 chiếc bánh và hai con cá của một em bé.

– Lương thực được phân phát qua trung gian của các tông đồ.

  1. Bài đọc II(Êp 4,1-6)

Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Êphêxô sống hòa thuận hiệp nhất với nhau.

– Lời kêu gọi này rất tha thiết, bởi vì lúc đó Phaolô đang ngồi tù mà vẫn phải băn khoăn lo lắng cho họ.

– Muốn hòa thuận hiệp nhất thì phải khiêm tốn, hiền hòa, nhẫn nại và chịu đựng nhau.

– Lý do phải hoà thuận và hiệp nhất là vì mọi người cùng một thân thể, một tinh thần, một niềm hy vọng, một phép rửa, một đức tin và một Thiên Chúa là Cha.

  1. GỢI Ý GIẢNG

* 1. Lòng rộng rãi của Chúa

Phép lạ hóa bánh ra nhiều là hình bóng của bí tích Thánh Thể. Nhưng trước khi là hình bóng đó, tự nó, phép lạ này cũng có một ý nghĩa được nhiên, nó biểu lộ tấm lòng rộng rãi của Chúa đối với loài người.

Thánh Gioan ghi lại rất nhiều chi tiết về lòng rộng rãi ấy :

– Trước đó Đức Giêsu đã chữa cho rất nhiều người bệnh tật.

– Chính Đức Giêsu ngước mắt nhìn dân chúng và Ngài biết họ đói, chính Ngài nẩy ra ý định kiến cái gì cho họ ăn.

– Chẳng những Ngài lo cho họ ăn no, mà còn thừa thải.

– Chi tiết Đức Giêsu bảo họ ngồi xuống trên thảm cỏ là một so sánh kín đáo Đức Giêsu với người mục tử nhân lành nuôi dưỡng đoàn chiên mình.

Trong Tin Mừng, đây không phải là chỗ duy nhất nói đến lòng rộng rãi của Chúa. Ở chương 6 Tin Mừng Mt, Đức Giêsu cũng bảo chúng ta đừng bận tâm lo lắng đến những nhu cầu vật chất của cuộc sống này, vì Cha trên trời đã biết chúng ta cần những thứ đó và đã lo sẵn tất cả cho chúng ta.

Tài nguyên của trái đất này vẫn còn dư thừa đối với những nhu cầu của nhân loại. Ngoài ra còn rất nhiều nguồn tài nguyên chưa khai thác hết. Sở dĩ ở miền này miền nọ có những dân tộc còn đói, và sở dĩ trong cùng một miền có những người còn đói, đó là vì còn nhiều người chưa đủ tin tưởng vào lòng rộng rãi của Chúa : họ sợ thiếu, nên họ dành giật và tích trữ.

Em bé trong đoạn Tin Mừng này đã không sợ như thế nên em đã dám chia xẻ 5 chiếc bánh và hai con cá của em. Kết quả : chẳng những bản thân em mà tất cả hàng mấy ngàn người đều no nê thừa thải.

Chúa rất rộng rãi, nhưng con người lại hẹp hòi. Đó là lý do của thảm cảnh nhân loại hiện nay.

* 2. Phép lạ hóa bánh ra nhiều

Đây là một phép lạ lớn : Đức Giêsu đã làm cho có lương thực cho một số đông người ăn no nê thừa thải : đàn ông là 5000, nếu cộng thêm độ 5000 đàn bà và khoảng 2000 trẻ em mà thánh Gioan không kể ra, thì con số lên tới khoảng 12.000. 12.000 người ăn no nê và dư lại 12 thúng đầy. Quả là một phép lạ to lớn.

Nhưng có một điều chúng ta phải lưu ý, đó là Chúa muốn cho phép lạ lớn lao này có sự góp phần của loài người :

. Chúa đã làm phép lạ từ 5 cái bánh và 2 con cá của một em nhỏ.

. Khi bánh và cá đã hóa ra nhiều rồi, Chúa nhờ các tông đồ đi phân phát cho dân chúng.

Dĩ nhiên, với quyền phép vô biên, Chúa có thể một mình làm được phép lạ này, nhưng Chúa đã cố ý dành phần cho con người góp tay hợp tác vào.

Đây là lề lối hành xử hầu như thường xuyên của Chúa :

. Phép lạ đầu tiên Chúa làm ở Cana biến nước thành rượu : Chúa cũng nhờ các gia nhân xách nước đổ sẵn vào các lu.

. Các phép lạ khác cũng vậy, Chúa đều đòi người ta hợp tác, hợp tác ít ra cũng bằng một thái độ tin tưởng vào Chúa. Thường trước khi làm một phép lạ, Chúa hỏi “Con có tin không ?”, và sau khi làm phép lạ, Chúa nói “Đức tin của con đã cứu con”.

. Công cuộc lớn lao nhất của Chúa là cứu chuộc loài người. Chúa cũng đòi loài người hợp tác. Cho nên thánh Augustinô nói “Khi tạo dựng con Chúa không cần hỏi ý con, nhưng khi cứu chuộc con Chúa cần con phải góp phần vào đó”.

Phần Chúa thì mặc dù có quyền phép vô biên, muốn làm gì cho loài người chúng ta cũng được, nhưng Chúa muốn chúng ta góp phần của chúng ta vào. Còn về phần chúng ta thì thường chúng ta quên ý muốn đó của Chúa. Khi chúng ta muốn Chúa giúp chúng ta điều gì, chúng ta thường chỉ biết cầu xin, cầu xin rồi chờ Chúa ban ơn chứ không chịu khó góp phần cố gắng của chúng ta vào. Thậm chí phần hợp tác tối thiểu là tin tưởng trọn vẹn vào Chúa thì ta cũng có khi không tin mấy nữa, có người vừa cầu xin với Chúa vừa chạy tới các thầy bói thầy bùa giúp sức. Có lẽ chính vì thế nghĩa là vì ta không góp phần và không tin cho đủ) nên nhiều khi những lời cầu xin của chúng ta đã không đem lại kết quả như ta mong muốn.

Ơn Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban, kể cả phép lạ Chúa cũng sẵn sàng làm. Nhưng biết bao lần chúng ta đã không chịu hưởng nhờ, là vì ta đã không góp phần của ta với ơn Chúa, hoặc ta không tin đủ vào ơn Chúa.

Cụ thể :

. Nếu chúng ta xin Chúa giúp cho gia đình chúng ta được hoà thuận, thì đừng có cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa có những cố gắng làm hoà lại với nhau như cặp vợ chồng trong câu chuyện vừa kể trên.

. Nếu chúng ta xin Chúa giúp gia đình chúng ta thoát cơn túng thiếu, thì cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin vừa cố gắng dẹp bỏ những nguyên nhân gây cảnh túng thiếu ấy như ăn xài hoang phí, rượu chè, cờ bạc… và đồng thời cần cù làm ăn, tiêu xài cố suy tính cân nhắc cẩn thận…

. Nếu chúng ta xin Chúa hoán cải tâm hồn của một đứa con hoang đàng, chúng ta cũng đừng cầu xin suông, nhưng vừa cầu xin, vừa tìm cách tách nó khỏi những bạn bè xấu, những môi trường xấu và làm nhiều gương tốt trước mặt nó.

* 3. Phép lạ của lòng quảng đại

Một vị Linh mục kia đã giảng rằng : phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đại của em bé đã hiến năm chiếc bánh và hai con cá cho Đức Giêsu. Số bánh và cá đó không nhiều. Nhưng với em bé thì nó nhiều lắm vì đó là tất cả những gì em có. Có rất nhiều người sẵn sàng cho đi từ cái có nhiều của mình, nhưng rất ít người chịu cho đi từ cái có ít của họ. Vì thế, việc em bé cho hết năm chiếc bánh và hai con cá là một phép lạ của lòng quãng đại. Kế đến là lòng quảng đại của Đức Giêsu. Chẳng những Ngài cho mọi người được ăn, mà còn muốn ăn bao nhiều tuỳ thích, rồi còn dư lại 12 thúng nữa.

Giảng xong, vị Linh mục rất hài lòng, nghĩ rằng mình đã giảng một bài rất hay. Khi vị Linh mục vào phòng áo, một bà cụ già cũng vào và hỏi xem có ai thấy cái túi xách của bà để quên trong nhà thờ không. Cậu bé giúp lễ trả lời là không ai thấy cả. Vị Linh mục cứ tưởng bà sẽ mỉa mai, đại khái như “Cái hạng người đã đến nhà Chúa mà còn ăn cắp thì hết nước nói”. Nhưng bà cụ không nói thế, bà chỉ nhỏ nhẹ : “Chắc là người lấy cái túi đó cần đến nó hơn tôi”. Vị Linh mục hỏi tiếp : “Thế trong túi có gì vậy ?”. Bà đáp : “Chỉ có hai chiếc bánh”.

Câu trả lời khiến vị Linh mục vui vui vì thấy câu chuyện hơi trùng hợp với bài giảng của mình. Nhưng đồng thời ngài cũng thấy xấu hổ, vì nếu ở vào hoàn cảnh của bà thì chắc ngài không thể quảng đại như vậy. Ngài cũng còn xấu hổ khi nghĩ rằng ngài chỉ giảng bằng miệng, còn bà cụ thì thực hành điều ngài giảng. Quả thực bà rất có lòng quảng đại.

Quảng đại phải là một nhân đức của người kitô hữu. Nhân đức này lại có nhiều dịp thể hiện, vì hằng ngày ta gặp biết bao người và bao nhiêu dịp để thể hiện nó. Và chúng ta có thể thể hiện quảng đại bằng nhiều cách : cho đi tiền bạc, cho đi của cải, cho đi thời giờ, cho đi công sức, cho đi sự quan tâm, cho đi lòng thương mến v.v.

Và quảng đại cũng trổ sinh niềm vui. Ít khi ta gặp một người nào quảng đại mà buồn. Cũng như ít khi ta gặp người nào bủn xỉn mà vui. (Viết theo Flor McCarthy)

* 4. Những người thiện nguyện

Hàng năm, cứ vào ngày 5-12 toàn thế giới mừng ngày “Những Người Thiện Nguyện Quốc Tế”. Đây là ngày dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân.

Được thành lập từ năm 1986, đến nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.

Từ một thanh niên làm việc tại các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.

Ngày Quốc Tế Những Người Thiện Nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy tình nhân ái.

*

Đức Giêsu chính là mẫu gương sáng ngời của những con người thiện nguyện. Người không chỉ sống nghèo, mà còn sống cho người nghèo. Người không chỉ rao giảng Nước Trời, mà còn chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người đem ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.

Hôm nay, Người “nuôi năm ngàn người ăn no”. Người biết lòng họ rất vui khi nghe giảng, nhưng Người cũng biết bụng họ rất đói, Người muốn tặng họ một bữa ăn đơn giản, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời. Bữa ăn tràn đầy niềm vui.

Nhưng niềm vui chỉ được trọn vẹn khi có những con người thiện nguyện : “Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn ?” (Ga.6,5). Đức Giêsu đặt các tông đồ vào nỗi bận tâm của Người. Người cần sự cộng tác của họ. Người cần những con người thiện nguyện. Người cần một Anrê giới thiệu một bé trai. Người cần một bé trai dâng tặng bữa ăn trưa của mình. Người cần các tông đồ ổn định chỗ ngồi. Chính nhờ những con người thiện nguyện ấy, mà phép lạ được thực hiện.

Năm 1999 Giải Nobel Hòa Bình đặc biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là “Tổ Chức Các Thầy Thuốc Không Biên Giới”. Những con người này suốt đời hiến thân cho tha nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. 980.000 đôla tiền thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.

Thế giới văn minh ngày nay vẫn còn là một thế giới đói nghèo, vì 80% của cải trên trái đất này đang nằm trong tay 20% những người giàu sang phú quí. Vậy cái đói trên thân xác vẫn còn làm quay quắt con người thời nay. Có biết bao tâm hồn thiện nguyện xót xa trước cảnh đói nghèo đã bắt tay vào cuộc với niềm tin : dù chỉ với “năm chiếc bánh và hai con cá”. Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con người được no nê ân phúc. Người sẽ biến đổi gương mặt thế giới trở nên nhân bản hơn. Người sẽ tô điểm cho bộ mặt trái đất trở nên tươi tốt hơn.

Thế giới này cần những con người thiện nguyện dám sống chết cho tha nhân. Thế giới này cần các tín hữu Kitô dám đưa những bàn tay ra để chia sẻ nâng đỡ. Thế giới này cần có những Phanxicô Assisi, Mahatma Gandhi, Albert Shcweitzer, Têrêxa Calcutta… để ra đi phục vụ muôn người khốn khổ bất hạnh.

*

Lạy Chúa, Chúa không ngừng khơi dậy trong chúng con những tâm hồn quảng đại, những con tim hiến thân cho đồng loại. Xin cho chúng con luôn sẵn sàng góp phần bé nhỏ của mình trong công việc phục vụ anh em nghèo đói chung quanh chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

* 5. “Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn

Tạ ơn Chúa trước khi ăn là một thói quen tốt, bắt chước việc Đức Giêsu đã làm ngày xưa : “Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn”.

Một gia đình nọ cũng có thói quen tốt ấy. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, ai nấy cúi đầu, đứa con gái út đọc lời cầu nguyện “Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì ơn lành Chúa đã ban cho chúng con. Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có bữa ăn ngon này”.

Mỗi lần như thế, người cha đều sung sướng trong lòng. Nhưng một hôm, lời cầu nguyện của đứa con lại khiến ông ray rứt. Hôm đó, sau khi nghe con cầu nguyện, ông chợt nghĩ tới bài báo ông vừa đọc : trên thế giới có tới 40 triệu người đói, và một phần ba trẻ con Châu Phi bị suy dinh dưỡng. Ông suy nghĩ : Bởi đâu mà gia đình ông no đủ đang khi biết bao người khác phải đói rách ? Phải chăng gia đình ông tốt hơn hay xứng đáng hơn những người ấy ? Phải chăng gia đình ông có ăn vì gia đình ông được Chúa thương hơn những người khác ? Hôm đó, những câu hỏi như thế cứ ám ảnh tâm trí ông khiến ông ăn mà chẳng thấy ngon miệng tí nào.

Tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho ta thì chưa đủ, việc tạ ơn này phải đi kèm với ý thức về trách nhiệm mà ơn lành Chúa đã trao phó cho ta nữa. Nói cách khác, ta không thể tạ ơn Chúa đã ban cho ta có cơm ăn hằng ngày mà không nghĩ đến trách nhiệm của ta đối với những người đói khát ; ta không thể tạ ơn Chúa đã cho ban cho ta có tiền bạc, công ăn việc làm mà không nghĩ đến trách nhiệm đối với những người nghèo túng và thất nghiệp.

Chúng ta không thể làm phép lạ hóa bánh ra nhiều như Đức Giêsu đã làm, nhưng chúng ta có thể chia bánh của ta cho nhiều người khác, hoặc lấy tiền mua bánh cho nhiều người khác. Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục hỏi ta như đã hỏi Philíp ngày xưa : “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?”

* 6. Phải biết thế nào là đói

Dưới triều vua Salomon, ở Giêrusalem có một người tên là Simeon rất giàu nhưng rất keo kiệt. Hắn đối xử rất tệ với các đầy tớ, bắt họ làm việc thật vất vả nhưng chỉ cung cấp lương thực ở mức tối thiểu. Bởi đó con cái họ thường đói.

Thế rồi trong nước xảy ra nạn đói. Những người nhà giàu khác mở kho lúa của mình phân phát cho người nghèo. Nhưng Simeon thì không, hắn còn lấy thêm khóa để khóa chặt các kho lúa của hắn.

Việc làm của Simeon đến tai vua Salomon. Nhà vua nghĩ ra một diệu kế : ngài sai sứ giả đi mời Simeon đến dùng bữa với ngài tối hôm sau. Hắn rất hãnh diện. Và để có thể ăn uống no nê những thức ăn hoàng gia, cả ngày hôm sau hắn nhịn không ăn vì cả nên đói rát cả ruột. Đến tối hắn vội vàng vào cung. Một người hầu mời hắn vào phòng khách và thông báo một vài quy định : thứ nhất không được xin nhà vua hoặc các người hầu bất cứ điều gì cả ; thứ hai không được hỏi cũng không được than phiền một câu nào cả ; thứ ba, nếu nhà vua có hỏi ăn ngon không thì phải trả lời là ngon vô cùng. Sau khi giải thích rõ 3 điều đó rồi, người hầu hỏi : “Ông có đồng ý những điều kiện ấy không ?”. Hắn đáp “Đồng ý”. Người hầu nói : “Vậy thì ông hãy ngồi đợi ở đây. Khi tới giờ ăn thì tôi sẽ gọi ông”.

Trong khi hắn ngồi đợi, mùi thức ăn thơm phức từ nhà bếp bay lên khiến hắn đang đói lại càng đói thêm, đến nỗi chảy cả nước miếng. Và rồi giờ ăn cũng đến. Vua Salomon bảo hắn : “Hãy ngồi xuống và muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý”. Simeon ngồi xuống. Một người hầu mang đến cho nhà vua một con cá chiên đựng trong một đĩa bằng vàng. Nhà vua vừa ăn vừa nói “Món cá này ngon tuyệt”. Sau khi vua ăn xong, người hầu mang đến cho Simeon một đĩa cá y như vậy. Nhưng hắn chưa kịp đưa tay ra thì người hầu đã vội vàng rút đĩa cá lại mang xuống bếp. Simeon tức quá định phản đối, nhưng nhớ lại những quy định mà mình đã đồng ý nên phải ngậm miệng.

Tiếp đến, người hầu mang tới cho nhà vua một tô canh thơm phức. Nhà vua uống cách rất ngon lành. Sau khi vua uống xong, người ta cũng mang cho Simeon một tô y như thế, và cũng vội vàng rút lại mang xuống nhà bếp y như thế. Khi đến món tráng miệng, sự việc lại tiếp tục giống như vậy. Simeon ức vô cùng nhưng cũng chẳng dám làm gì.

Cuối bữa ăn, vua Salomon hỏi : “Hy vọng là ông đã ăn ngon miệng”. Tên nhà giàu vội vàng đáp : “Vâng tâu bệ hạ, ngon vô cùng”. Và hắn vội vàng đứng dậy cáo từ để sớm về nhà giải quyết cơn đói đang cồn cào trong bụng. Nhưng nhà vua ngăn lại : “Còn sớm chán mà. Hãy ở lại nghe các nhạc công của trẫm. Họ muốn trình diễn cho ông thưởng thức”. Buổi hòa nhạc kéo dài tới mấy tiếng đồng hồ. Hắn lại đứng dậy định ra về, nhưng nhà vua lại bảo “Đã khuya quá rồi ông bạn ạ. Ta cho phép ngươi ngủ lại đêm nay trong hoàng cung”. Chẳng thể làm cách nào khác, tên nhà giàu keo kiệt đành phải ở lại.

Nằm trên giường mà bụng đói cồn cào, hắn không tài nào ngủ được. Hắn cứ suy nghĩ : “Sao nhà vua mời mình dùng bữa mà lại chẳng cho mình ăn cái gì cả ?” Và hắn đã tự tìm được câu trả lời : Nhà vua muốn hắn có dịp cảm thấy đói thì khổ như thế nào. Từ đó, Simêon quyết định sẽ không bao giờ để các đầy tớ của mình bị đói nữa. (Viết theo Flor McCarthy)

* 7. Chứng từ về chia xẻ

 “Để an ủi gia đình chị Tuyết góa bụa trong cảnh thiếu thốn, trong một dịp lễ, gia đình tôi làm thịt thỏ có dành cho gia đình chị Tuyết vài ký thịt đã nấu sẵn, gọi là để khuyến khích 3 cháu nhà chị ấy đang phải học hành vất vả để thi cuối năm. Chính trong dịp mang thịt thỏ biếu gia đình chị Tuyết, gia đình chúng tôi cảm động được biết thêm về hoàn cảnh đặc biệt của chị Tuyết. Chúng tôi hết lòng tạ ơn Chúa đã an bài để luôn có người tới giúp đỡ gia đình chị Tuyết.

 Ba năm về trước : Dịp xin tiền trợ cấp cho 3 cháu nhỏ nhà chị Tuyết đi học, gia đình chúng tôi có cử người đến thăm gia đình chị Tuyết và được biết :

 Thứ nhất, nhà chị Tuyết đúng là một túp lều tranh, không có sự an toàn tối thiểu để khỏi mất ngay cả cái chậu hay cái nồi trong nhà. Chưa nói đến tình trạng thiếu bàn ghế để mời khách ngồi.

 Thứ hai, chồng chị Tuyết là thương phế binh chế độ cũ, từ lâu không có khả năng đảm đang lo cho kinh tế gia đình.

 Thứ ba, các cháu ở cỡ tuổi 11, 14 và 16 còn cần phải đi học.

 Thêm vào đó là một bầu khí tự ti mặc cảm do người gia trưởng là thương phế binh chế độ cũ. Cả việc hợp thức hoá hôn nhân nơi xã ấp cũng gây ngại ngùng nên không được thực hiện.

 Ba năm về sau : – Ba năm về sau khi gia đình chúng tôi mang thịt tới biếu, gia đình chị Tuyết vẫn túng thiếu, nhưng ít nhất về nhà ở đã được cải thiện. Điều quan trọng là có những người thân quen gần xa góp phần giúp đỡ chị Tuyết. Chúng tôi chỉ có thể nêu một số những giúp đỡ cụ thể.

 + Nhà mới xây 5m x 13m với cửa kiếng và nền lát gạch tầu tráng men. Điều quan trọng là người đảm đang việc xây cất đã cho thấy lòng tốt trước sau như một với gia đình chị Tuyết. Ông Dương chỉ thân quen với chồng chị Tuyết, không những đã lo hết giấy tờ để chị Tuyết có thể đưa xác chồng về mai táng sau cái chết đột ngột nơi bệnh viện (rắc rối một phần do hôn nhân chưa được hợp thức hoá), mà còn xây cho gia đình chị Tuyết căn nhà nói trên như ông đã hứa với chồng chị Tuyết khi mua nền nhà cũ của gia đình chị Tuyết.

 Tay phải làm tay trái chẳng biết

 + Tay phải làm tay trái chẳng biết : – Được biết dịp an táng chồng chị Tuyết, tiền phúng điếu gia đình, nhà hiếu nhận được trên 10 triệu đồng, một phần do các bạn học của chồng chị Tuyết ở trường Đồng Công xưa. Khi người gia đình chúng tôi mang thịt thỏ tới biếu, thì một cô giáo viên mẫu giáo cũng vừa bước vào. Cô này vẫn hay lui tới, khi mang nải chuối, lúc mang ký thịt, lúc khác mang theo tấm vải để chị Tuyết may áo quần cho các cháu. Tất cả những quà tặng đó đều theo tinh thần Tin Mừng tay phải làm tay trái chẳng biết. Sau cô giáo là chính bà Dương đưa tặng chị Tuyết cái chạn bằng nhựa có đựng bát đĩa mới. Được biết trước đó, ông bà Dương đã tặng các cháu nhà chị Tuyết máy TV đen trắng để coi. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)

  1. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế : Anh chị em thân mến, dân chúng xưa đói khát, cả tâm hồn lẫn thể xác, và Đức Giêsu đã rộng lòng để thỏa mãn họ cả xác hồn. Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Người :

  1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn sống hiệp thông với Chúa nhờ Bí tích Thánh Thể / để có thể quan tâm chia sẻ cho những người đang đói khát về tinh thần cũng như vật chất.
  2. Xin cho các chính quyền trên thế giới / biết tận tâm lo thỏa mãn các nhu cầu vật chất như cơm ăn, áo mặc, nhà cửa / và các nhu cầu tinh thần như tự do, hòa bình, văn hóa, tôn giáo / để mọi người dân sống đúng phẩm giá con người hơn.
  3. Xin cho những người đang là nạn nhân của chậm tiến, đói nghèo và dốt nát / được nhiều người khá giả hơn quan tâm giúp đỡ / để sớm thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực.
  4. Xin cho mọi người trong cộng đồng xứ đạo chúng ta biết giúp đỡ và chia sẻ cho nhau / noi gương cộng đồng các tín hữu đầu tiên / để không còn ai trong cộng đồng chúng ta còn dốt nát và đói nghèo.

Chủ tế  : Lạy Đức Giêsu, chúng con họp nhau dâng lễ tạ ơn Chúa, vì đã quan tâm nuôi dưỡng cả xác hồn chúng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ những hồng ân đã lãnh nhận cho mọi người chung quanh chúng ta. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị…

  1. TRONG THÁNH LỄ

– Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta cầu xin cho có “lương thực hằng ngày”, một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.

– Trước Rước lễ : Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân do thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.

VII. GIẢI TÁN

Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.

home Mục lục Lưu trữ