Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 64

Tổng truy cập: 1359311

HIỂU LẦM

HIỂU LẦM

 

(Suy niệm của Lm Gioan B.M.)

Có người du khách kia kể lại rằng vào tờ mờ buổi sáng, khi anh lái xe qua miền rừng núi quanh co ở Pêru thì có một người từ trong rừng chạy ra, đầu đội chiếc mũ đen trùm kín cả mặt, tay cầm vật gì đó vừa vẫy tay vừa hô to. Vì không hiểu tiếng nói, nên anh sợ hết hồn tưởng là tên cướp trong rừng cầm khí giới mò ra kiếm ăn. Khi thấy người ấy chạy nhanh về phía mình. Anh chốt cửa xe, và dọt lẹ tiến lên phía trước. Nhưng ông ta đổi hướng chạy đường tắt đón đường. Anh cố nhấn ga chạy thoát thân thì người đó đã tới gần bên vệ đường, lột mũ ra và tay cầm một con cá lớn, ông ta mới bắt được ở hồ gần đó và muốn bán cho khách qua đường. Nhưng anh lại hiểu lầm cho là tên cướp cầm khí giới ra chặn đường.

Có lẽ, nhiều lần ta cũng hiểu lầm người khác khi ta chỉ nhìn họ theo dáng vẻ bên ngoài, hoặc chỉ nghe qua tai mà không hiểu lời họ muốn nói. Tin Mừng cho thấy nhiều lần các môn đệ cũng đã hiểu lầm lời Chúa Giêsu. Nhiều khi các ông hiểu ngược hẳn lại với những điều Chúa Giêsu muốn dạy. Có lần Chúa bảo các ông hãy coi chừng men bọn Pharisiêu thì các ông lại nghĩ chắc mình quên mang bánh, nhưng Chúa không có ý nói về men trong bánh mà Ngài có ý nói về cách sống giả hình, cách giữ đạo vụ vào hình thức của người Pharisiêu và Ngài lên tiếng cảnh giác các ông đừng để mình bị sa lầy vào lối sống ấy. Tin Mừng theo thánh Marcô hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu đã

tiên báo cho các môn đệ Ngài: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết Ngài và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Mc 9,31). Mặc dầu đã nghe Chúa nói nhiều lần nhưng các ông vẫn còn chưa hiểu. Ngài lại dạy: “Ai muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ, ai muôn làm lớn thì phải là kẻ rốt hết” (Mc 9: 31) thì đâu các ông đã hiểu được ý nghĩa. Vì thế khi đi đường các ông đã tranh luận xem ai là kẻ cả trong nước Ngài thiết lập, và tranh nhau cho được địa vị đó.

Nếu kiểm điểm cuộc sống của mỗi người, nhiều lần ta cũng đã hiểu lầm Chúa Giêsu và hiểu sai lời Ngài. Mặc dầu là Kitô hữu, là người đã theo Chúa, chắc gì mấy ai đã hiểu được lời Chúa dạy trên đây. Chúa còn quả quyết: “Ai bỏ mọi sự mà theo Thầy thì sẽ được gấp trăm ở đời này và được sống đời đời” (Mt 19: 29). Nhiều khi ta cũng hiểu lầm Chúa như các môn đệ xưa. Ta tưởng đã theo Chúa thì mình phải được quyền ưu tiên trong mọi sự. Ưu tiên trước mặt Chúa, xin gì Chúa cũng phải cho, phải chiều theo ý của ta. Ưu tiên trước người đời, phải được mọi người nể vì, tôn trọng, phải được hưởng cuộc sống vật chất thoải mái, phải được các người hữu trách ưu đãi, mà nếu không được như ý là thôi Chúa, thôi nhà thờ luôn. Như thế là ta theo Chúa như kiểu đi đạo lấy gạo mà ăn. Đó là sự hiểu lầm tai hại.

Nhưng vì đâu lại có sự hiểu lầm? Hiển nhiên người du khách trên đã hiểu lầm người lương thiện vì thiếu hai yếu tố:

1/ Yếu tố thứ nhất là tại thiếu ánh sáng, vì trời chưa sáng tỏ, còn lờ mờ nên không nhìn thấy rõ, tay ông ta cầm con cá mà anh tưởng là khí giới.

2/ Yếu tố thứ hai là thiếu chuẩn bị ngôn ngữ, không học tiếng Pêru, nên không hiểu tiếng nói, do đó, ông ta càng gọi to nói lớn thì anh càng sợ.

Khi ta không hiểu Chúa hay hiểu lầm Chúa ít nhất cũng tại thiếu hai yếu tố:

1/ Yếu tố thứ nhất là tại thiếu ánh sáng của Chúa Thánh Thần soi sáng. Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: “Đấng Bảo Trợ là Thần Chân Lý Cha sai đến Ngài sẽ dạy cho các con mọi điều và làm cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con” (Jn 14: 26). Và qủa thực, sau ngày lễ Ngũ Tuần khi các tông đồ được tràn đầy ánh sáng của Chúa Thánh Thần thấm nhập, các ngài đã hiểu Thánh Kinh, đã hiểu lời Chúa và đã can

đảm hăng hái dấn thân phục vụ làm nhân chứng cho Tin Mừng Cứu độ.

2/ Yếu tố thứ hai là tại thiếu chuẩn bị ngôn ngữ là khiêm tốn cầu nguyện. Để có thể hiểu Lời Chúa thì cần phải cầu nguyện với tâm hồn đơn thành khiêm tốn. Đó là thứ ngôn ngữ cần thiết để trao đổi, thông đạt, và nói với Thiên Chúa. Vì Lời Ngài đã tự hạ, bỏ trời đến với con người, tỏ mình ra cho con người dưới hình một hài nhi nhỏ bé tí ti, thì con người cũng phải dùng thứ ngôn ngữ đó mới gặp gỡ và hiểu được Chúa.

Tóm lại, để hiểu rõ lời Chúa và ý định của Ngài về mỗi người chúng ta, thì yếu tố quan trọng nhất là khiêm tốn cầu nguyện và mở lòng mình ra để Chúa Thánh Thần hoạt động, như các Tông Đồ xưa đã quây quần bên Mẹ Maria sốt sắng cầu nguyện khi ấy CTT đã ngự xuống trên từng vị và đã biến đổi các ngài, làm cho các ngài hiểu rõ Lời Chúa và can đảm dấn thân phục vụ các linh hồn.

 

45.Chúa Nhật 25 Thường Niên

HÃY NHẬN BIẾT GIÁ TRỊ NGUỒN MẠCH CỦA CHÚNG TA.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

Tôi giả thiết rằng tất cả chúng ta đều thích thú với khoảnh khắc khi một người nào đó trong chúng ta nói một điều gì mà chủ ý không muốn cho người khác nghe. Điều đó xảy ra với các môn đệ một ngày kia trong khi có sư hiện diện của Chúa Giêsu. Đó là Giuđa đã nói với các bạn đồng hành của mình: “Tôi thì muốn ốm và mệt mỏi với sự thánh thiện của Người hơn là thái độ của các anh”. Không! Đó là một cuộc tranh luận đã xảy ra giữa các tông đồ. Họ đã tranh luận ai là người quan trọng nhất. Ngay tức khắc họ nhận ra điều cãi cọ của họ đã trở thành lố bịch khi Chúa Giêsu hỏi họ đang tranh luận điều gì thế, họ liền im lặng.

Điều đang kinh ngạc nơi cuộc tranh luận của họ là Chúa Giêsu đã dạy họ Ngài sẽ bị nộp cho những người kết án tử Ngài. Như một tôi tớ của Cha, Người sẵn lòng trải qua cái chết và để đối đầu với những kẻ chỉ nghĩ rằng phải nổi dậy với sự xuất chúng và quyền năng. Ngài nói với các môn đồ: “Bất cứ ai muốn ngồi chỗ nhất phải trở nên người rốt hết trong tất cả mọi người và là tôi tớ của mọi người”.

Các môn đệ đã không thể hiểu được những lời của Chúa Giêsu, điều đó không có gì ngạc nhiên. Những giá trị của Thiên Chúa thì quá cao xa đối với những tiêu chuẩn mà con người có thể nghĩ đến. Chúa Giêsu đã đưa ra một thí dụ mà Ngài rất thích thú. Trong một cảnh cảm động, Ngài kéo một đứa trẻ vào lòng, dùng tay quàng lấy đứa trẻ và nói: “Bất cứ ai tiếp đón đứa trẻ này vì Ta là tiếp đón Ta”. Đứa trẻ là gương mẫu sống động của sự khiêm tốn và đơn sơ mà chúng ta được kêu gọi để thực hành điều đó. Đó là lứa tuổi mà sự khiêm nhường và đơn sơ dẫn dắt hầu hết những trẻ nhỏ. Thường ở tuổi này chúng chưa được đến trường, chưa bước vào thế giới cạnh tranh. Sự thật đáng buồn là ở nơi các trường học những trẻ đã mất đi sự tin tưởng ở chính mình. Chúng trông đợi sự nuông chiều, được học một lớp tốt, có lẽ một đứa con gái nhỏ sẽ nghe: “Vì sao con lại muốn trở nên giống bạn con?”. Sự cạnh tranh làm cho nó nghi ngờ chính mình. Một cậu trai chơi cho đội thiếu nhi League, cậu chỉ được ngồi ở ghế dự bị, trên đường về nhà ngoài sự im lặng chỉ còn vang lên tiếng nức nở của cậu bé, cậu ta hoàn toàn thất vọng, tâm trí của cậu ta thì đầy những nghi ngờ, đứa trẻ này nghĩ rằng giá trị của nó thì tùy thuộc vào thành công nhưng những cha mẹ tốt yêu con cái mình không phải vì chúng có gì hay vì những gì mà chúng đã hoàn thành.

Một trong các tông đồ là thánh Giacôbê dần dần đã học được bài học này về sự quan trọng của khiêm nhường, thánh nhân đã viết trong thư của ngài, bất cứ ở đâu có ganh tỵ và tranh chấp, cãi cọ thì ở đó bất ổn và có đủ mọi loại cư xử xấu. Ngài tiếp tục nói về sự cãi cọ và xung đột sẽ đến từ những thèm muốn bên trong. Những khao khát bên trong là những ước muốn đầu tiên trở nên tốt hơn những người khác, trở nên nhất hay thuộc loại “Top Ten”.

Có nhiều người trưởng thành cũng có những khao khát này, họ nghĩ rằng giá trị của họ tùy thuộc vào sự thành công của họ. Có lẽ đó là lý do vì sao họ muốn được nhìn và cảm thấy mình quan trọng. Dĩ nhiên nếu bạn muốn đứng đầu, muốn có một công việc tốt hoặc là được trả lương nhiều bạn phải tỏ ra hoặc chấp nhận một sự cạnh tranh. Bạn phải chứng minh chính mình và sẽ phải làm tốt hơn những người khác.

Bất cứ trong trường hợp nào của sự cạnh tranh, chúng ta phải dám “ăn to nói lớn”, chúng ta cần nhận biết hệ thống những giá trị của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhớ rằng, chúng ta là những đứa trẻ, là con cái của Người Cha hoàn thiện ở trên trời, Đấng đã yêu thương chúng ta vì chúng ta là con cái của Ngài. Chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ tình yêu của Ngài dành cho chúng ta, đó là nguồn mạch của giá trị và đáng giá của chúng ta.

 

46.Phục vụ cách không ham lợi

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).

Một lần nữa, Chúa Giêsu tiên báo cuộc Khổ nạn và sự Phục sinh của Người. Về sự Phục sinh, các môn đệ dường như chẳng có ý niệm gì. Cuộc Khổ nạn là điều xa lạ nhất đối với cách họ nghĩ về Đấng Cứu thế. Chúa nhắc lại lời tiên báo lúc lên đường đi Giêrusalem. Lộ trình Chúa chọn đi ngang qua xứ Galilêa. Chúa và các môn đệ dừng chân ở Capharnaum. Các môn đệ hy vọng vào một Đấng Cứu thế sẽ hiển trị ngay đời này. Họ bám quá chặt vào hy vọng đó, thậm trí dọc đường tranh luận với nhau về vấn đề ngôi thứ bậc nhất trong Vương quốc họ mong đợi. Lời tiên báo của Chúa không thấm nhập họ được. Các môn đệ không hiểu, có vẻ ương gàn không chịu tìm hiểu. Thế giới tinh thần của họ cho rằng Đấng Cứu thế sẽ ngự đến để phục hưng Vương quốc Israen, và họ tự tìm một địa vị trong triều đại quang phục đó. Chúa hiểu biết họ. Người tỏ ra khoan dung vì biết rằng, sau khi Người sống lại, Chúa Thánh Thần sẽ đến mở rộng tâm hồn các môn đệ. Trong khi chờ đợi, Chúa sẽ ban cho họ một điều giáo huấn quan trọng bậc nhất. Dùng một bài học cách trí, Chúa sắp dạy cho các môn đệ phải suy tưởng thế nào để có thể sẵn sàng nghênh tiếp Đức Kitô hiện thực.

Giáo huấn của Chúa dựa trên hai điểm:

a/ Muốn được xứng đáng Nước Trời, phải có tâm hồn của kẻ phục vụ.

b/ Càng khiêm hạ bao nhiêu, càng là kẻ phục vụ xứng đáng bấy nhiêu.

1) Phải có tâm hồn của kẻ phục vụ. Trong các xã hội loài người, những chức vụ được ưa chuộng nhất là những chức vụ đem lại trọng vọng, uy thế, vinh dự, quyền lợi. Cách này hay cách khác, về phương diện vật chất hay tinh thần, con người có khuynh hướng tự đề cao bằng hoạt động, bằng địa vị, bằng sự giúp đỡ người khác. Tất cả chúng ta đều có một bản tính ích kỷ sâu kín khiến chúng ta thích tìm những lời khen ngợi của người khác. Do đó, xảy ra những xung đột vì hư danh, tư lợi, ham thích được trọng nể. Các môn đệ không tránh được thói thường đó.

Trước khi Chúa tự nguyện làm gương mẫu cho các môn đệ, Người phán rằng điều quan trọng cho con người là phải xem mình là kẻ phục vụ anh em không mang tư lợi. Đối với Cha, kẻ trên hết là tìm cách đứng sau chót bằng đường lối vô tư, trong sạch, bình thản, sẵn sàng phục vụ anh em.

2) Xuyên qua một bài học cách trí, Chúa dạy các môn đệ phải phục vụ như thế nào. Chúa lấy ví dụ một em nhỏ. Thời đó trong xã hội Do thái, đứa trẻ đứng sau chót ở bậc thang địa vị. Theo lời giảng dạy của Chúa, kẻ nào vì tự nhận là môn đệ Đức Kitô, cho nên phục vụ người có địa vị thấp kém nhất, ít được trọng vọng nhất giống như trẻ nhỏ, kẻ ấy nghênh đón chính Chúa Giêsu và Cha Người là Thiên Chúa.

Ngoài tình quyến luyến ra, đứa trẻ chẳng có gì để đền đáp kẻ phục vụ nó, đón nhận nó bằng tấm lòng yêu quý không vụ lợi. Kẻ nào tìm cách phục vụ như vậy, sẽ được Chúa hiện diện trong tâm hồn.

Một câu hỏi: Giữa những anh em đồng đạo đang cùng với ta tìm cách theo, và phục vụ Đức Giêsu Kitô, chúng ta chọn lấy vị trí nào?

 

47.Chúa Nhật 25 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)

Xã hội Việt Nam chúng ta rất chuộng chức quyền, nhiều người ước muốn làm quan, làm lớn để có địa vị, có lợi lộc để được vinh thân phì gia, nhưng rất ít người mong có chức quyền để phục vụ dân chúng.

Hôm nay Chúa Giêsu dạy các môn đệ và cũng là dạy mỗi người chúng ta: "Ai muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".

Người làm lớn nhất phải tự làm người rốt hết và làm đầy tớ cho những người dưới quyền mình. Người đầy tớ là người phục vụ, người đầy tớ trong nhà là người phải hầu hạ phục vụ ông bà chủ và mọi người trong nhà, ngày nay chúng ta có danh từ mới là làm ô-shin nhưng có điều khác ở Lời Chúa dạy là tình nguyện làm người đầy tớ. Mình ở địa vị cao nhưng lại tự nguyện làm người tôi tớ tức là dùng chức quyền của mình như là phương tiện để phục vụ.

Chúng ta nhìn vào gương Chúa Giêsu: Chúa nói với các môn đệ: "Vậy nếu Thầy là Thầy, là Chúa mà còn Rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải Rửa chân cho nhau (Ga 13,14)" Chúa sống giữa các môn đệ với tinh thần của người tôi tớ vì thế Chúa quả quyết :"Con người đến không phải để cho người ta phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người"(Mt 20, 28).

Thánh Phêrô tiếp nhận được bài học Chúa dậy nên Ngài khuyên các mục tử chăn dắt đoàn chiên Chúa: "Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa giao phó cho anh em nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên (1 Pr 5,3) - Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban (1Pr 4,10-11).

Tinh thần của người làm lớn như Chúa dạy rất cần thiết cho thế giới ngày nay. Đức Giáo hoàng là chức vị lớn nhất trong Giáo hội Công giáo, nhưng các ngài tự nhận là: "Đầy tớ của các đầy tớ Thiên Chúa".

Ông Tôn Thúc Ngao nói: "địa vị càng cao thì càng phải khiêm tốn. Lợi lộc càng nhiều thì càng phải biết chia sẻ".

Chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa một em bé ra làm gương mẫu cho các môn đệ. Chúa nêu lên sự khiêm tốn của trẻ em và cũng dạy mọi người phải  biết đón nhận trẻ nhỏ. Trong gia đình chúng ta thấy nhiều khi cha mẹ sẵn sàng đóng vai đầy tớ để chăm sóc lo lắng cho con cái nhất là các em bé. Như vậy có thể tóm kết bài học Chúa dậy cho những người làm lớn là phải có tinh thần yêu thương, khiêm tốn và phục vụ.

Có thời gian bên phần đời cũng đưa Lời Chúa dậy vào việc hành chánh như nói: "Công chức là đầy tớ của dân" nhưng thực tế người dân lại đưa ra nhận xét ngược lại : Hành Chánh tức là Hành là chính. Ước chi lời nói phải đi đôi với việc làm cả bên đạo lẫn bên phần đời.

Câu chuyện: Có một vị tu sĩ già đã suốt đời tu trì, làm các việc đạo đức và giữ kỉ luật trong tu viện. Ông thường cầu xin Chúa hiện ra để củng cố đức tin của mình nhưng chẳng được, chờ lâu quá ông hoàn toàn thất vọng thì một ngày kia Chúa hiện ra với ông và ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng. Nhưng giữa lúc ông đang tâm sự với Chúa thì một hồi chuông vang lên báo tới giờ phát gạo cho người nghèo và hôm nay là phiên của ông. Ông tự nhủ những người nghèo sẽ đói nếu tôi không đi phát gạo cho họ, nên ông xin lỗi Chúa để đi phát gạo. Sau hơn một giờ làm xong công tác, ông trở về mở cửa phòng thì thấy Chúa vẫn chờ ông. Ông quì gối cảm tạ Chúa và Chúa nói: "Giả như con không đi phát gạo thì Ta chẳng ở đây chờ con đâu!" Qua đó ông hiểu phục vụ anh em là phục vụ chính Chúa.

Nhưng trước khi Chúa Giêsu dạy về bài học tinh thần người làm lớn cần phải có thì Chúa đã loan báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn và Phục sinh của Chúa. Trong lời loan báo lần thứ nhất Chúa cho biết  :"Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ". Như vậy kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu phải thực hiện là đi qua con đường đau khổ của Thập giá, nhưng liền sau đó cả hai lần Chúa đều loan báo: sau khi bị giết chết ngày thứ Ba Người sẽ sống lại. Cho nên Khổ nạn và Phục sinh là hai mặt của một thực tại: có khổ nạn thì mới có Phục sinh và phục sinh làm cho cuộc khổ nạn của Chúa trở nên tròn đầy ý nghĩa và mới có sức đem lại ơn cứu chuộc cho nhân loại. Chúa loan báo lần thứ nhất thì ông Phêrô can ngăn Chúa đừng chịu như vậy nên Chúa đã qưở trách ông. Lần này các ông làm thinh và tỏ ra chậm hiểu, sợ không dám hỏi Chúa. Hơn thế nữa các ông còn bỏ ngay ngoài tai lời loan báo này để  sôi nổi tranh cãi với nhau về đặc quyền đặc lợi: ai là người lớn nhất trong các ông. Chắc chắn Chúa Giêsu cảm nghiệm được nỗi cô đơn khi các môn đệ không hiểu, không thương cảm Chúa qua lời loan báo này để khi đến giờ khổ nạn, các ông sẽ bỏ rơi Chúa.

Chúng ta được sống trong thời kì sau lễ Hiện Xuống, chúng ta xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí chúng ta để chúng ta đón nhận Lời Chúa Giêsu dạy và đem ra thực hành: Chúa cho ta có được chức vị gì, ta hãy dùng như phương tiện để phục vụ anh em tốt hơn, Chúa gởi đến đau khổ Thập giá, ta hãy xin vui lòng vác theo chân Chúa đến cùng. Amen.

 

48.Hãy làm người rốt hết

(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

Tuần rồi Hội Thánh mừng lễ Suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu. Nói cho cùng, trước mắt mọi người, cây thập giá mà ta gọi là Thánh Giá ấy, cũng chỉ là hai thanh gỗ mang hình thập giá và cũng chỉ là phương tiện người ta dùng để giết người. Chỉ duy nhất một điều cho ta nhìn nhận cây thập giá là Thánh Giá đó chính là đức tin. Chính trong đức tin, ta biết: “Đức Giêsu Kitô vốn vĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Philip 2, 6- 7).

Một vì Thiên Chúa cao sang là thế, quyền năng là thế, vô biên là thế, đã trút bỏ mọi vinh quang để làm người. Không dừng ở đó, Đấng là Thiên Chúa làm người ấy, lại còn trở nên một người rốt hết, hóa thân chia sẻ đến tận cùng cái kiếp người, để cùng được nghèo, cùng đói, cùng rét, cùng tha hương, cùng bị nguyền rủa, bị chống đối, cô đơn, tủi nhục… với tất cả những ai thấp bé, long đong, những ai bị cuộc đời chối bỏ, bị vùi giập…

Nhưng tất cả những điều đó chưa là điểm kết, Chúa Kitô “lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Philip 2, 8), chết đớn đau, chết nhục nhã và oan nghiệt…

Thiên Chúa làm người đã là một điều không thể tưởng tượng. Vậy mà Thiên Chúa làm người lại lặn sâu trong kiếp người để đồng hóa mình với mọi người, vì thế càng kỳ diệu quá đỗi. Nhưng Thiên Chúa làm người lại còn chấp nhận một cái chết thê thảm, đứng chung với hàng ngũ tử tội, thì tình yêu của Thiên Chúa đã đạt tới đỉnh điểm và bước tới mức độ tuyệt đối.

Chiêm ngắm mầu nhiệm tự hạ quá lớn lao của Chúa Kitô, chúng ta chỉ còn biết lặn đi để những gì Người đã sống có cơ hội thẩm thấu trong tâm hồn, để ta càng ngày càng rập theo những gì Người đã noi gương để từng lúc từng lúc một, ta nên giống Người hơn.

Chúa Kitô đã tự hạ để phục vụ đến cùng như thế, cho nên Người có quyền đòi ta cũng biết hạ mình, trở nên nhỏ bé và có ích cho anh chị em như Người.

Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nhắc lại đòi hỏi này: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9, 35).

Nhưng trước khi mời gọi như thế, ChúaKitô đã nói về chính bản thân mình, không phải để tự đề cao, tự ca tụng, hay nói về những gì mình đã làm. Hoàn toàn không phải thế. Để cho lời mời gọi đạt hiệu quả, Chúa Kitô đã mạc khải về sự bắt bớ, bách hại, chịu đau khổ, chịu chết và sống lại: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thức ba, Người sẽ sống lại” (Mc 9, 31).

Cuối cùng để cụ thể lời mời gọi, Chúa dạy một bài học mà có lẽ cả các tông đồ lẫn chúng ta, chẳng bao giờ suy nghĩ được như thế. Đó là bài học của trẻ thơ, và trở nên trẻ thơ. Còn hơn nữa, Chúa Kitô không chỉ dạy ta sống khiêm hạ, nhưng chính Thiên Chúa đã đồng hóa mình với trẻ thơ. Một sự tự đồng hóa trở nên bé nhỏ hoàn toàn: “Ai đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9, 37).

Nhiều lần Tin Mừng cho biết Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với những người bé nhỏ nghèo hèn. Nhất là phụ nữ và trẻ con, đối với xã hội Do thái thời Chúa Giêsu là những thành phần không đáng kể, không có chỗ đứng trong xã hội. Vậy mà không những Chúa đã đặt trẻ con làm mẫu mực để dạy chúng ta về bài học của lòng khiêm hạ, Người còn ôm lấy đứa bé vào lòng. Thánh Marcô thật tinh tế khi không bỏ qua chi tiết này.

Bạn ạ, con đường tự hạ làm người bé nhỏ là con đường trở nên người lớn nhất, và là người đáng kể trước mặt Chúa. Ngày 19.10.2003, chỉ sáu năm, sau khi Mẹ Têrêsa thành Calcutta qua đời, Mẹ đã được phong chân phước. Đó là thời gian kỷ lục, bởi từ trước cho đến khi Mẹ Têrêsa được nâng lên bàn thờ Hội Thánh, chưa có vị thánh nào được tuyên phong nhanh như thế. Qua việc tuyên phong nhanh chóng này, chúng ta thấy, Hội Thánh dành cho Mẹ sự quý mến, yêu thương, cũng như qua Mẹ, Hội Thánh dạy chúng ta những bài học lớn bằng chính tấm gương thánh thiện của Mẹ.

Ngày 5. 9. 1997, ngay sau khi tin Mẹ Têrêsa qua đời được loan đi, đã gây một chấn động lớn cho toàn thế giới. Cũng từ ngày đó, người ta đã nghĩ ngay đến việc phong thánh cho Mẹ. Nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc vô hạn. Lập tức Đức Gioan Phaolô II đã làm lễ tưởng niệm Mẹ ngay tại biệt thự của mình. Tổng thống Bill Clinton xúc động nói: “Mẹ là người luôn gây kinh ngạc, một trong những bậc vĩ nhân của thời đại này”. Tổng thống Hàn Quốc Kim Young Sam ghi nhận: “Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cả cuộc đời của Mẹ Têrêsa cho những người bần cùng trên thế giới”. Và còn nữa, còn rất nhiều những lời chia buồn của các vị nguyên thủ trên khắp thế giới.

Mẹ Têrêsa là ai mà quang trọng quá vậy? Đó chỉ là một nữ tu người Albani, rất bình thường. Mẹ sang Ấn độ lập dòng nữ tu Thừa Sai Bác Ái.

Điều đáng chú ý nơi người nữ tu bé nhỏ này là một tâm hồn vĩ đại, một tâm hồn dạt dào lòng yêu thương không nhỏ chút nào. Mẹ đã dành cả đời mình để lo cho những anh chị em cùng khổ. Mẹ đã cúi xuống để đưa người đói rét, bệnh tật, bị bỏ rơi… về lại với cuộc sống con người. Mẹ đã đưa người hấp hối bên lề đường, phố chợ về lại một mái nhà để họ được yêu thương vỗ về và được chết như một con người. Mẹ đã cúi xuống để trả lại hy vọng cho những ai mất hết lòng tin trong cuộc đời. Mẹ đã đưa bàn tay, dẫu đã già nua, nhưng tràn đầy sức mạnh của tình yêu để nâng đỡ bất cứ ai bạc nhược, cô thân, và bất cứ ai đói khát tình người, đói khát yêu thương…

Chính vì vậy, trước dong linh Mẹ, Thủ tướng Albani, Fatos Nano đã bày tỏ nỗi lòng: “Mẹ Têrêsa là con người nhỏ bé nhưng có một tâm hồn lớn lao cao cả”. Chính ông đã muốn đưa thi hài của Mẹ về nước an táng, nhưng không thành vì Mẹ là ân nhân của nhân dân Ấn độ.

Chính quyền Ấn độ đã tuyên bố lễ tang của Mẹ là quốc tang. Hàng ngàn người Ấn độ và nhiều người thuộc nhiều quốc tịch, thuộc mọi tầng lớp, bất chấp mưa gió, nối nhau xếp hàng dài hàng cây số trước trụ sở dòng Thừa Sai Bác Ái ở Calcutta để được viếng xác và để nhìn thấy lần cuối cùng gương mặt người nữ tu vô cùng khả ái ấy.

Quả thật Mẹ Têrêsa là tấm gương của thời hiện đại cho những ai muốn sống đời khiêm nhu tự hạ và phụ vụ. Chỉ khi nào đã trở nên người nhỏ bé, ta mới thật là một vĩ nhân. Bây giờ mẹ Têrêsa còn hơn một vĩ nhân: Mẹ trở thành thánh nhân. Gương nhân đức của Mẹ chiếu sáng lấp lánh cho cả loài người.

Chính Chúa Giêsu đã tự hạ đến tột cùng nên Người được Thiên Chúa tôn vinh đến tột đỉnh vinh quang. Vì thế, ai đi con đường khiêm tốn và tự hạ như Chúa, Người ấy cũng sẽ được đưa tới vinh quang tột đỉnh.

Mẹ Têrêsa là một bằng chứng lớn. Ơn gọi nên thánh là ơn gọi dành cho từng người không trừ ai. Để đạt tới sự thánh thiện như Mẹ Têrêsa, chúng ta hãy khắc sâu Lời Chúa dạy trong hồn mình, để mỗi một ngày một sống lời dạy ấy cách tốt hơn, xứng đáng hơn: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”.

 

home Mục lục Lưu trữ