Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 45
Tổng truy cập: 1361070
HÌNH ẢNH VỀ MỘT THIÊN CHÚA
HÌNH ẢNH VỀ MỘT THIÊN CHÚA
(Suy niệm của Lm Nguyễn Ngọc Long)
Chúng ta tin vào Thiên Chúa, nhưng không nhìn thấy Ngài. Kinh sách dạy ta và ta vẫn hằng ôm ấp trong tâm hồn cùng mường tượng đến một Thiên Chúa uy quyền toàn năng. Niềm tin vào Ngài vẫn thế. Nhưng hình ảnh về Ngài không phải lúc nào cũng giữ nguyên như ta đã học, đã nghe. Nó biến đổi theo với thời đại cuộc sống.
Vậy đâu là hình ảnh một Thiên Chúa mà ta hằng tôn kính, yêu mến tin thờ?
Khi cuộc sống xã hội thời kỳ nông nghiệp, hình ảnh về một Thiên Chúa trong tâm trí người tín hữu có nhiều nét tương hợp với đời sống lúc đó: một Thiên Chúa phù hộ cho mưa thuận gió hòa, để mùa màng, hoa quả, ruộng nương vườn tược tười tốt, hoa trái được mùa bội thu.
Vào thời kỳ này niềm tin, niềm trông cậy vào Thiên Chúa còn đậm nét tình nghĩa ân đức Cha con, Đấng Tạo Hóa với tạo vật. Vì thế chúng ta gọi Ngài bằng một danh xưng thân mật tình nghĩa con người: Ông Trời.
Nhưng khi cuộc sống xã hội bước sang thời kỹ nghệ biến chế phát triển, kỹ nghệ thông tin biến đổi đa dạng ngày nay ở những xã hội tân tiến, hình ảnh về một Thiên Chúa cũng khác đi nhiều. Thiên Chúa bây giờ phải là một Thiên Chúa của trí tuệ thông minh sáng chế ra điều gì mới lạ.
Niềm tin vào Ngài lúc này không còn đậm nét tương quan cá nhân Đấng tạo Hóa và tạo vật hay tình nghĩa cha con nữa. Khối óc phát minh làm ra sản phẩm. Phương thức chế tạo ra hàng hóa, tìm ra nguyên nhân kết quả hay chế ngự được khó khăn chướng ngại, là đỉnh cao tối thượng.
Tiên tri Ê-li-a ngày xưa đã sống trải qua nhiều giai đoạn cuộc sống khi thì trong giông bão, khi thì qua nạn động đất, khi thì giữa ngọn lửa cháy tràn lan. Tin vào Thiên Chúa, nhưng ông toàn nhìn thấy những đau thương tàn phá. Ông không còn biết thế nào là hình ảnh đích thật một Thiên Chúa của lòng tin nữa. Thất vọng, ông lẩn trốn vào một hang động. Thiên Chúa không để ông yên trong đó, Ngài kéo ông ra khỏi nơi đó và cho ông biết: Đó không phải là hình ảnh Thiên Chúa với sức mạnh tàn phá chém giết đâu. Ngài là Thiên Chúa của lòng nhân lành.
Còn với chúng ta thì sao?
Mỗi cuộc đời con người có những giai đoạn khác biệt và có những cảm nghiệm về Ngài cũng rất khác biệt. Khi cuộc đời trải qua giai đoạn lầm than cực khổ, thất vọng hay bị đe dọa, tưởng chừng như đến cùng đường. Chính lúc như thế Thiên Chúa âm thầm trong thinh lặng tỏ lòng nhân lành của Người cho con người, bằng cách phấn chấn tinh thần, giúp can đảm sống vươn lên.
Khi đời sống đức tin lâm vào cơn khủng hoảng hồ nghi vào chính Thiên Chúa của niềm tin. Những lúc đó Thiên Chúa không bỏ mặc ai, Người hằng đồng hành với trong tâm hồn và tỏ bày hình ảnh Người qua những dấu chỉ trong thiên nhiên, trong thời đại.
Cả khi sống trong lầm lạc tội lỗi, chối bỏ xa lạc Ngài, Ngài cũng không xa lánh. Ngài vẫn chờ đợi rộng vòng tay chào đón, khi trở về với Ngài, như dụ ngôn người con hoang đàng trở về nhà diễn tả hình ảnh lòng nhân lành của Thiên Chúa và muốn cùng bắt đầu đời sống mới: cuộc sống niềm tin và niềm hy vọng.
68.Hành trình đức tin – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Chuyện kể rằng: Một gia đình quý tộc nước Anh đưa con về nghỉ mát ở miền quê. Trong khi nô đùa, cậu con trai ngã xuống một suối nước sâu.
Nghe tiếng kêu thất thanh, một chú bé lem luốc, con bác nông dân, đã chạy đến tiếp cứu. Và số phận của cậu bé thượng lưu, không biết bơi kia tưởng như ngàn cân treo sợi tóc, giờ đã được cứu sống.
Nhà quý tộc vô cùng biết ơn chú bé nhà quê nghèo. Ông hỏi chú có mơ ước gì không. Chú trả lời: “Cháu muốn được đi học để trở thành bác sĩ cứu người”.
Sau này, cậu bé ngày xưa không biết bơi đã được cứu sống, nay trở thành vĩ nhân của thế giới, thủ tướng nước Anh, Winston Churchill. Và chú bé nhà quê, nhờ sự giúp đỡ của nhà quý tộc, cha của Churchill bây giờ đã là bác sĩ danh tiếng, và là ân nhân của cả nhân loại, người đã tìm ra thuốc Penicilin. Tên của ông Fleming.
Có ai ngờ, khi thủ tướng nước Anh lâm trọng bệnh, các bác sĩ nổi tiếng đều bó tay, thì chính Fleming, lại cứu sống ông một lần nữa.
Fleming đã cứu vớt sinh mạng của Churchill khỏi dòng nước oan nghiệt, để rồi sau này Churchill trở thành thủ tướng lừng danh, niềm hãnh diện và tự hào của cả nước Anh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã cứu thoát các môn đệ khỏi cơn cuồng phong của biển cả, đã kéo ông Phêrô lên khi ông đang chìm xuống dòng nước sâu.
Đức Giêsu đi trên mặt biển, kéo Phêrô lên khỏi mặt nước, và dẹp yên sóng gió không phải là để làm trò biểu diễn cho vui mắt, nhưng là để bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa trên biển cả, bão tố, tượng trưng cho thế lực của sự dữ. Đồng thời, để củng cố niềm tin của các môn đệ, nhất là Phêrô, để sau này Người sẽ trao cho ông làm thủ lãnh con thuyền Giáo Hội.
Thực vậy, con thuyền Giáo Hội ngay từ đầu, đã không giương cao cánh buồm đức tin mà lao thẳng về phía trước, nhưng cũng phải vật lộn với phong ba bão táp, “bị sóng đánh vì ngược gió”.
Các môn đệ, cột trụ của Giáo Hội cũng hốt hoảng, sợ hãi, phải có Đức Giêsu bên cạnh để trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”.
Phêrô thủ lãnh số một của Giáo Hội, năng nổ, hăng hái, liều lĩnh xin “đi trên mặt nước mà đến với Thầy”. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm. Ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với”.
Cho dù là đá tảng, Phêrô cũng đã bị Đức Giêsu mắng: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”.
Đó là hành trình Đức tin của Phêrô, của các môn đệ, và của mỗi người tín hữu chúng ta. Đức tin ban đầu nhỏ bé, kém cõi, nhưng nhờ lời khích lệ của Đức Giêsu “cứ đến”, mà chúng ta bước đi trên vực thẳm, sóng gió. Rồi hoài nghi làm chúng ta chao đảo, sợ hãi làm chúng ta hụt chân. Để cuối cùng, chính Đấng nắm lấy tay chúng ta kéo lên sẽ củng cố đức tin của chúng ta thêm vững mạnh.
Có một điều đáng làm mẫu mực cho những kẻ tin, là chính khi lòng tin bị chao đảo theo sóng gió, thì Phêrô đã cầu nguyện: “Thưa Ngài, xin cứu con với”.
Có một thước phim mà người xem chớ vội bỏ qua, là “Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay”. Chính Đức Giêsu và Phêrô đã cứu con thuyền trong cơn sóng gió.
Có một lời tuyên xưng mà người tín hữu Kitô không ngừng thốt lên trong các cơn giông tố của cuộc đời: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”.
Người tín hữu như chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Muốn đưa đời mình về với trùng khơi hãy xác tín như thánh Phanxicô Salêsiô: “Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”.
***
Lạy Chúa, sóng gió cuộc đời luôn làm chúng con chao đảo, vực thẳm lòng đời luôn làm chúng con sợ hãi.
Xin cứu lấy chúng con khi chúng con sắp chìm, xin nắm tay chúng con lúc chúng con hụt chân. Xin cùng lên thuyền với chúng con, vì thuyền đời chúng con có Chúa là có bình an. Amen.
69.Lạy Thầy, xin cứu con.
Khi thấy ai gặp nhiều gian nan khốn khó, người ta nói: “Đời anh sóng gió nhiều quá” hay nói: “anh phong trần quá” - phong là gió, trần là cát bụi. Thực ra, cuộc đời con người ở trần gian, không nhiều thì ít, ai cũng gặp sóng gió bão táp. Những cơn lốc của thiên tai gây sập nhà nát cửa như lụt lội, hạn hán, giông tố, động đất...
Những cơn lốc của hận thù, tham lam bất công, bóc lột đàn áp con người còn gây ra những tai họa như chiến tranh, khủng bố ma túy, cờ bạc, đàng điếm, sida...
Những cơn lốc của chính mình, của lười biếng, kiêu căng, mù quáng, bệnh tật, cố chấp gây ra cho mình bao nhiêu thảm họa. Đến nỗi Napôlêon đã thắng hàng vạn quân địch, nhưng lại bị thua chính mình: Ông đã thua tính kiêu căng và tính mê đắm giai nhân.
Lời Chúa hôm nay nêu rõ ba nguyên nhân đã làm cho con người phải điêu đứng.
Nguyên nhân thứ nhất là thiên nhiên như sóng gió, lụt lội, động đất, các môn đệ hầu hết là dân chài lưới, thế mà giữa biển khơi sóng gió đã làm các ông hoảng hồn đến nỗi thấy bóng Thầy đi trên mặt biển, các ông đã la hét sợ hãi tưởng thủy quái.
Nguyên nhân thứ hai là người khác: Người khác đây là dân tộc Do thái. Họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được thấy vinh quang Chúa, được ban tặng Lời Chúa là chính Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người là Đức Giêsu Kitô cùng huyết thống nòi giống với họ, là anh em, là đồng bào của họ (Bài II) thế mà họ không đón Người, không đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Điều đó làm Phaolô vô cùng đau khổ, đau khổ đến nỗi Phaolô dù phải gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo không thể tách Phaolô ra khỏi tình yêu Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ Phaolô sẵn sàng chịu nguyền rủa, xa lìa Đức Kitô để cho anh em đồng bào ông trở về với Đức Kitô (Rm. 8, 35 và 9, 1-5).
Êlia cũng chịu đau khổ như thế vì đồng bào ông. Ông đã phải liều mạng đến kéo họ về với Thiên Chúa, giải thoát họ khỏi gông cùm tà thần, dù một mình phải thách thức với cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Dù thắng cuộc và sư sãi thần Baal bị tiêu diệt, ông vẫn phải trốn thoát tay hung tàn của hoàng hậu lùng bắt (Bài I).
Nguyên nhân thứ ba là chính mình gây nên khốn khó cho mình. Phêrô được Chúa cho đi trên mặt biển đến với Ngài, khi đang được hưởng ơn lạ như thế;ông lại hoài nghi, đâm lo sợ, thế là ông bị biển cả nhận chìm ông. May mắn ông đã vội vã kêu lên: Lạy Thầy, xin cứu con.
“Lạy Thầy, xin cứu con”. Chính con nhiều lần cũng bị nhận chìm trong biển trần gian do nhiều hoàn cảnh éo le của cuộc đời và do chính con đã gây ra...
Lời cầu nguyện: “Lạy Thầy, xin cứu con” phải là lời cầu nguyện liên tục của con hàng ngày, từng giây từng phút trong đời con. Xin cho con biết luôn luôn kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con” vì từng giây từng phút không có Thầy cứu giúp, không có ơn Thầy gìn giữ, không có ơn Thầy soi sáng, không có ơn Thầy cứu độ, chắc chắn con bị nhận chìm dưới đáy vực thẳm tội lỗi, dưới đáy địa ngục tử thần. “Lạy Thầy, xin cứu con”.
70.Đức Giêsu đi trên mặt biển Hồ
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến chương 17 của Tin Mừng Matthêu. Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý tưởng quan trọng:
1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ người nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát. Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13-17 này: "Tiến tới việc loan báo Giáo Hội"hoặc "Giáo Hội, hoa quả đầu mùa của Nước Trời" hoặc "Hành trình đức tin trong Giáo hội", bởi vì qua các chương này, tác giả Mt đề cập đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.
2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu (13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt hơn (14,13; 15,21).
3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức tin và hiểu biết:
- Tác giả nói đến những người kém tin trong câu truyện Phêrô đi trên mặt nước (14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh (16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một lời than: "Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin..." (17,17). Mt là tác giả duy nhất xác định rằng các môn đệ không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Người cũng là người duy nhất ghi nhận đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).
- Ngài đã sử dụng động từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10, các đám đông được mời gọi nghe và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một mình Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.
Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm đến đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một hành trình và như một nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin.
Về thể văn, truyện Đức Giêsu đi trên mặt biển thường được gọi là thể văn "hiển linh" (épiphanie. Xem truyện Dẹp sóng gió, Mt 8,23-27). Thể văn này được định nghĩa là: Một cách bố trí các yếu tố văn chương để tường thuật một cuộc tỏ mình bất ngờ và lạ thường của một hữu thể thần linh hoặc thiên quốc, được một số người chọn lọc trải nghiệm, trong đó, hữu thể thần linh mạc khải một phẩm tính, một hành động hoặc một mạc khải thần linh. Đặc điểm của thể "hiển linh" là nó cho thấy một vài phương diện của hoạt động Thiên Chúa nhằm cứu độ dân Ngài.
Ở bên trong tác phẩm Mt, truyện Đi trên mặt biển (14,22-33) đóng các vai trò sau đây: (1) Trả lời cho câu hỏi về chân tính và tính cách của Đức Giêsu đã được truyện Dẹp sóng gió (8,23-27) gây ra và được ngữ cảnh gần trước đó ở 13,53–14,21 tiếp nối; (2) Cung cấp một lời tuyên xưng mào đầu của các môn đệ, chuẩn bị cho lời tuyên xưng cao đỉnh của Phêrô ở 16,13-20; (3) Góp phần với TM I để minh họa bản tính và ý nghĩa của quyền lực thần linh của Đức Giêsu trong tư cách là Con Thiên Chúa.
2- Bố cục
Bản văn này có thể chia làm bốn phần, theo cấu trúc chuyển hoán:
A - Hoàn cảnh của các môn đệ trước sóng gió (14,22-24):
a) (22)
b) (23a)
b') (23b)
a') (24)
B - Đức Giêsu đi trên mặt biển (14,25-27):
a) (25)
b) (26)
a') (27)
B'- Phêrô đi trên mặt biển (14,28-31):
a) (28-29a)
b) (29b)
b') (30)
a') (31)
A'- Hoàn cảnh của các môn đệ sau sóng gió (14,32-33):
a) (32)
b) (33)
3.- Vài điểm chú giải
- cây số (24): Từ ngữ Hy Lạp gốc là stadion, "dặm" (NTT) = 192 m. Hồ Ghennêsarét có chu vi khoảng 53 km (33 miles), dài khoảng 21 km (13 miles), và rộng khoảng 13 km (8 miles). Diện tích khoảng 166 km2 (64 sq mi), và sâu tối đa khoảng 43 m (141 feet). Hồ thấp hơn mặt biển 214 m (702 ft).
- Chiếc thuyền bị sóng đánh vì ngược gió (24): Trong Tin Mừng Matthêu, "con thuyền" là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23-27). Biểu tượng này càng được xác nhận khi tác giả viết rằng con thuyền bị "tra tấn (hành hạ)" (basanizô) bởi các con sóng (chứ không nói như Mc 6,48: "các ông phải vất vả chèo chống"). Kiểu nói này cũng lạ thường như khi tác giả bảo có "động đất" (seismos) trên biển (8,24). Trong cả hai trường hợp, có thể cho rằng tác giả đang nghĩ đến các đau khổ Hội Thánh sẽ phải trải qua khi thi hành sứ mạng.
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, "biển" là nơi có các sức mạnh tà thần cư ngụ và hoạt động (x. G 7,12; Is 27,1; 51,9t; Đn 7...). Nói rằng "đang ở trên mặt biển" có nghĩa là đang ở trong tình trạng bị các sức mạnh của bóng tối đe dọa. Vậy "biển" ở đây là một trở ngại ngăn cách các môn đệ với Đức Giêsu.
- canh tư (25): Canh (phylakê) tư ở vào khoảng từ 3g đến 6g sáng.
- đi trên mặt biển (25): Cụm từ epi tên thalaasan có thể có nghĩa là "về phía biển". Do đó, có những tác giả cho rằng Đức Giêsu đứng trên bờ mà làm yên sóng gió (Paulus; Jeremias; J. Duncan Derrett). Tuy nhiên, theo ngữ cảnh, phải hiểu là "trên biển".
- hoảng hốt (26): Đây là phản ứng của con người khi tiếp cận với thần linh (x. Xh 19,16; Ed một,4...).
- Chính Thầy đây (27): Trước tiên, egô eimi là một lời để điều chỉnh, với nghĩa là: chính là Thầy, chứ không phải là ma như anh em tưởng. Nhưng công thức này cũng là tên mà Thiên Chúa dùng dể tự giới thiệu với Môsê (Yhwh: x. Xh 3,13-15). Mt kín đáo gợi ý là có một sự song đối giữa Đức Giêsu và Yhwh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh của các môn đệ trước sóng gió (22-24)
Vừa cho đám đông ăn no xong, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền. Chúng ta nhớ đến 8,23; nhưng lần này Đức Giêsu không đi với các ông. Tác giả Mt không nói là các môn đệ đi Bếtxaiđa như Mc (6,45), vì biết rằng Bếtxaiđa không gần Ghennêsarét. Ngài sửa một sai lầm của Mc mà không quan tâm đến địa lý. Đức Giêsu lên núi một mình để cầu nguyện. Cũng như ở 17,1-8, "núi" là nơi đặc biệt gần kề Thiên Chúa. Lúc này, trời đã tối.
Thuyền của các môn đệ đã xa bờ nhiều stadia và đang bị sóng "tra tấn" (basanizomenon). Hẳn là tác giả chủ ý dùng từ thuộc thế giới con người cho con thuyền. Nước, bão, và đêm là những biểu tượng của tình trạng cùng quẫn, sợ hãi và chết chóc, rất quen thuộc với Hội Thánh, được rút ra từ các Thánh vịnh (nước: Tv 18,16-17; 32,6; 69,2-3.15; đêm: Tv 91,5; 107,10-12; bão: Tv 107,23-32; Gn 1–2).
* Đức Giêsu đi trên mặt biển (25-27)
Canh tư, từ 3g đến 6g sáng, cũng là giờ mà theo Kinh Thánh, Thiên Chúa can thiệp để cứu trợ Dân Ngài (x. Xh 14,24; Tv 46,6; Is 17,14), và theo truyền thống Kitô giáo, là giờ Đức Giêsu sống lại (x. 28, 1). Vào giờ này, Đức Giêsu băng qua hồ, bước trên mặt nước, mà đến với các môn đệ (c. 25). Thấy một dáng người di chuyển trên mặt biển, dễ hiểu vì sao các môn đệ nghĩ đây là một hữu thể siêu nhiên, một bóng ma, và các ông hốt hoảng.
Nhân vật thần linh bắt đầu lên tiếng: egô eimi không kèm theo một túc từ nào cả. Đức Giêsu không nói rằng Người là cái này hay cái kia, nhưng chỉ nói: "Là Thầy". Ở bề mặt, đây là cách người nói quy về chính mình. Vậy Đức Giêsu đã đánh đổ "bóng ma" bằng cách chỉ vào chính bản thân Người, và các môn đệ thì biết Người. Tuy nhiên, ở bề sâu, công thức egô eimi (Híp-ri: 'aný hu') nhắc lại lời Đức Chúa (Yhwh) tự giới thiệu mình trong Kinh Thánh (x. Đnl 32,39; Is 41,4; 43,10; 45,18-19; 48,12; 51,12). Đức Giêsu bảo: "Chính Thầy đây, đừng sợ!". Ở trong Kinh Thánh, Thiên Chúa ngỏ lời với các tổ phụ và Israel bằng câu: "Đừng sợ, Ta là..." (St 15,1; 26,14; 28,13; 46,3; Is 41,13. x. c. 10; 43,1.3). Vậy lời nói của Đức Giêsu là một bản văn đa chiều kích: Với câu "Là Thầy", ở bề mặt, các môn đệ được quy hướng về con người Giêsu mà họ biết. Còn bên trong, họ trải nghiệm một điều thuộc vị Thiên Chúa của Kinh Thánh.
* Phêrô đi trên mặt biển (28-31)
Đức Giêsu chưa làm yên sóng gió. Thay vào đó, Phêrô trả lời Người. Ông thưa với Đức Giêsu bằng công thức của người môn đệ, "Thưa Ngài (kyrie)", và xin vị Chúa này truyền lệnh cho ông đến với Người. Thế là thay vì vị "thần", Giêsu, thì lại là con người, Phêrô, muốn bước đi trên mặt nước. Ai cũng biết rằng việc này không thể làm được, cũng như không thể xê dịch núi non (x. 17,20). Lời thỉnh cầu này nhắm đến một điều không thể được cho thấy đức tin của Phêrô, nghĩa là niềm tin tưởng ông đặt vào con người có mọi quyền trên trời dưới đất (Mt 28,18). Tuy nhiên, câu nói "nếu quả là Ngài" lại báo trước sự hoài nghi sẽ xuất hiện trong nỗi sợ hãi của ông khi bước đi trên mặt nước. Đức Giêsu ban lệnh truyền như Phêrô xin ("Cứ đến"). Đây là nền tảng trên đó ông có thể hành động. Lệnh truyền của Đức Giêsu là nền tảng để con người có thể hoạt động. Vậy, nếu có đi được trên mặt nước, Phêrô cũng chẳng phải là một thầy phù thủy hay một siêu nhân; ông chỉ vâng lời Chúa của ông thôi.
Nhưng ông đâm sợ. Không phải là nỗi sợ hãi do gặp một nhân vật thiên giới, nhưng là sợ bão, sợ bị đe dọa, sợ không được an toàn. Tác giả Mt dùng các từ của Tv 69,2-3 (x. cc. 15-16): Khi bước đi trên mặt "nước", "nhìn vào gió" (blepôn ton anemon) thay vì nhìn vào Chúa của ông, ông bắt đầu "chìm" (c. 30), ông liền "kêu" lên: Thưa Ngài, "xin cứu con" (các từ trong ngoặc đều trích từ Tv 69).
Đức Giêsu đưa tay ra nắm lấy Phêrô và nói với ông. Ở bề mặt, cử chỉ này của Người là cần thiết để cho Phêrô khỏi bị chìm. Nhưng ở một chiều sâu khác, hẳn là tác giả Mt nghĩ đến Tv 143,7: Đức Giêsu cung cấp sự che chở của Thiên Chúa. Đối với tác giả, điều quan trọng là sự hiện diện cứu độ này của Thiên Chúa không có nghĩa là không còn bão tố, nhưng là ta trải nghiệm được sự hiện diện này ngay trong gió bão. Những ai dám vâng lời và di chuyển ra bên ngoài sự an toàn của mình sẽ trải nghiệm được sự hiện diện này. Một lần nữa, Phêrô vẫn chỉ là "người có đức tin nhỏ bé" (= người kém tin, oligopistos), và đức tin là một sự pha trộn giữa can đảm và sợ hãi, vâng nghe Chúa và nhìn vào gió, tin tưởng và hoài nghi, và đây là đặc tính căn bản của đời Kitô hữu (x. 28,17).
* Hoàn cảnh của các môn đệ sau sóng gió (32-33)
Câu chuyện kết thúc rất nhanh. Đức Giêsu và Phêrô cùng lên thuyền với nhau và gió lặng ngay (c. 32). Một lần nữa, phép lạ Đức Giêsu làm xảy ra sau khi đức tin đã được chấn chỉnh.
Các môn đệ quỳ xuống (= thờ lạy): Cung cách này dễ hình dung hơn nếu ở trên "con thuyền Hội Thánh", chứ không phải trên một con thuyền trên hồ vừa ra khỏi sóng gió. Họ tuyên xưng: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa". Đây là danh hiệu Kitô học quan trọng nhất đối với tác giả Mt, đồng thời hầu chắc cũng là lời tuyên xưng trung tâm nhất của Hội Thánh. Cách nào đó, ngược lại với Mc, tác giả Mt muốn phác vẽ ra các môn đệ như là những con người có lòng tin và hiểu biết, dù có lúc họ đã tỏ ra thất vọng và dù vẫn cần học hỏi thêm nữa.
+ Nhận định & Kết luận
Có thể nói bài tường thuật chuyến vượt "biển" (cũng như truyện Dẹp sóng gió) là một dụ ngôn với cái nền lịch sử, nhằm nêu bật một phương diện mới và có một không hai trong ý nghĩa của bản thân Đức Giêsu: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa trang bị cho quyền lực thần linh tuyệt đối để cứu độ dân Người. Sự kiện Đức Giêsu với quyền lực của Người, không những cứu các môn đệ khỏi bị sóng hành hạ trên biển, mà còn cứu cả Phêrô khỏi chìm xuống biển (14,28-31), chuẩn bị cho chúng ta đón lấy lời tuyên xưng của Phêrô nói rằng Đức Giêsu là "Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (16,16). Đàng khác, việc biểu lộ quyền năng thần linh tuyệt đối của Đức Giêsu khi cứu các môn đệ và Phêrô bằng cách đi trên mặt biển cũng giúp nhận mạc khải nói rằng Đức Giêsu là Đấng có thể xây dựng và che chở Hội Thánh Người trên "tảng đá" là Phêrô (16,18-19).
Chiều kích cứu độ học của bài tường thuật quả là hiển nhiên, được diễn tả qua việc đi trên biển. Khi đi trên biển, Đức Giêsu không những tỏ ra mình là Thiên Chúa chế ngự biển mà còn đi qua biển, và cứu các môn đệ bằng cách làm cho họ cũng có thể đi qua biển. Như thế, cùng một trật, Đức Giêsu chứng tỏ Người sở hữu quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học), và quyền lực ấy là để cứu vớt các môn đệ (phương diện Cứu độ học).
Tuy nhiên, phương diện Cứu độ học phải được cứu xét trong tương quan hữu cơ với chiều kích Kitô học. Cho dù các môn đệ được cứu, mối bận tậm không phải chỉ là việc cứu hộ, nhưng là điều mà cuộc cứu hộ lạ lùng này nói về bản thân Đức Giêsu. Điều này nổi rõ lên trong câu nói của các môn đệ: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!" (14,33; x. 8,27). Như thế, chiều kích Kitô học vượt quá truyện cứu hộ, và tập trung vào quyền lực và bản thân của Đấng cứu hộ. Khi cứu các môn đệ bằng cách vận dụng quyền năng thần linh tuyệt đối để mà bước đi trên biển, Đức Giêsu đã cho thấy không những Người có thể cứu khỏi bất cứ trận giông bão nào trên biển, mà còn có thể cứu dân Người khỏi mọi tình cảnh khốn quẫn. Nói cách khác, nếu Đức Giêsu có thể cứu các môn đệ Người bằng cách siêu vời là đi trên biển nổi sóng, thì Người cũng có đầy đủ quyền năng cần thiết mà thực hiện ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ dân Người.
Phương diện Giáo hội học được diễn tả qua các vai trò của các môn đệ và Phêrô. Nhờ nhớ lại các kinh nghiệm đã trải qua khi sống các hoàn cảnh túng cực, các độc giả có thể hiểu được hoàn cảnh của các môn đệ và của Phêrô. Các môn đệ và Phêrô, do đã trải nghiệm quyền năng phi thường của Đức Giêsu và do đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì nhắc các độc giả nhớ rằng không những họ phải tin vào Đức Giêsu như Đấng có thể cứu hộ họ khỏi các hoàn cảnh đen tối nhất, nhưng còn phải hiểu rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa Người là Đấng duy nhất có quyền năng Thiên Chúa để cứu được cộng đồng những kẻ tin vào Người. Cử tọa Mt tin tưởng rằng Hội Thánh gồm những ai tin và đi theo Đức Giêsu thì được che chở bởi chính quyền lực của Thiên Chúa.
Có thể nói hoạt cảnh cuối cùng (cc. 32-33) giới thiệu Hội Thánh mới của Đức Kitô, đã vượt thắng thử thách, nay vây quanh Đức Kitô là Chúa tể của họ. Hoạt cảnh này báo trước cuộc quy tụ các Kitô hữu để cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, trong đó nhắc lại sự hiệp nhất và hiệp thông đặc biệt của Người với Thiên Chúa, nay được bày tỏ ra qua các hành vi quyền lực và cũng đầy nhân ái.
Tác giả Matthêu trình bày một cuộc thần hiển cho "những người đang ở trong thuyền", nghĩa là Hội Thánh của Đấng Phục Sinh: trong và qua Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, chính Thiên Chúa cứu độ của cuộc Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những làn nước đang đe dọa nuốt trửng họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng bão tố là nền tảng cho đức tin của các tín hữu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khác với Lc, Mt hiếm khi cho thấy Đức Giêsu cầu nguyện (c. 23). Đây là một đòi hỏi thông thường của tinh thần Người, một nhu cầu có thực là được hiệp thông với Chúa Cha và tìm sự trợ giúp, sự an toàn và nâng đỡ. Nhất là vào lúc này, thời gian quyết liệt, hành trình đã trở nên cam go hơn và các đòi hỏi làm sáng tỏ đã trở nên cấp bách hơn. Đây là lần đầu tiên, Mt nhấn mạnh rằng Người ở một mình; một sự cô độc không chỉ về thể lý, mà dường như là một báo trước sự cô độc ở Ghếtxêmani. Đức Giêsu cầu nguyện cho mình, cho các nhu cầu của cá nhân mình. Rồi Người cũng mau chóng đi cứu giúp các môn đệ, nhưng sức mạnh và sự an toàn Người cung cấp phát xuất từ tương quan với Chúa Cha. Người là Đấng cứu độ họ, nhưng cũng là điển hình cho họ về đời sống đức tin.
2. Đối với tác giả Mt, con thuyền là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,24). Các môn đệ đang ở trên đó, và có thể Phêrô là người cầm lái (x. c. 28). Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn không cao mấy; đã thế, hoàn cảnh lại thêm gay go vì gió ngược (c. 24). Con thuyền bị "tra tấn" vì cơn giông trên biển. Lúc này là "đêm tối" (c. 25), là giờ của thử thách, của "quyền lực bóng tối" (x. Lc 22,53). Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không vắng mặt, dù là Người còn ở cách xa họ. Nếu có đức tin, hẳn là họ phải cảm thấy Người vẫn có mặt, vẫn ở gần. Quả thật, các khoảng cách không thể ngăn cản Đức Giêsu hiệp thông với các môn đệ Người (x. 18,20). Người đến với họ cách bất ngờ, từ trên cao, vào những lúc không ngờ.
3. Đáng tiếc là các môn đệ lại thường quên mất Người. Phản ứng kinh hoàng của các ông khi thấy Thầy đi trên biển cho ta hiểu như thế (c. 26). Đây là một hình ảnh báo trước cuộc Hiển Dung và các cuộc hiện ra sau Phục Sinh. Đức Giêsu tiến đi ngay giữa lòng đêm tôi chính là lời loan báo về Đức Kitô Phục Sinh.
4. Phêrô là cái nhiệt kế đo đức tin của Hội Thánh. Ông phản ứng nhân danh mình và tất cả các môn đệ khác. Đòi hỏi các dấu lạ, các bằng cớ chứng tỏ lòng tốt cũng như sự toàn năng của Thiên Chúa là một đòi hỏi không thể bỏ qua của loài người. Các nhân vật Kinh Thánh đều cần những dấu chỉ, để có thể dấn thân đi theo nẻo đường Thiên Chúa đề nghị. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đang hiện diện trong lòng Hội Thánh, cũng cần có những bằng cớ mới, nhưng ta không có bằng cớ nào chắc chắn hơn lời của Đức Giêsu: "Chính Thầy đây" (= Ta là), "Cứ đến!" (cc. 27-29).
5. Bước đi vững vàng trên mặt nước có nghĩa là chấp nhận một chiều kích hiện sinh khác với chiều kích lịch sử, hoặc chiều kích thể lý, là mở tâm hồn ra với thế giới của thực tại vô hình, của thực tại siêu nhiên. Đây là vượt lên trên những luật lệ của cuộc hiện sinh này. Muốn thế, cần tin vượt quá cái hữu hình và cái đụng chạm đến được; cần phải chấp nhận "hỏng chân". Khi Tôma tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20,28), ông cũng phải chấp nhận bỏ mọi điểm tựa vững chắc kiểu loài người.
6. Các độc giả Tin Mừng, rất quen với Tv 69, cùng cầu nguyện với Phêrô. Họ nhận ra mình nơi Phêrô và thấy nước chính là tất cả những mối đe dọa trong đời họ: cái chết, tình trạng thiếu an toàn, sự thù nghịch, bệnh tật, tội lỗi... Họ biết rằng nếu chỉ "nhìn vào" gió chứ không nhìn vào Chúa, họ sẽ không đứng vững được.
71.Chúa Nhật 19 Thường Niên
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CHÚA GIÊSU ĐI TRÊN MẶT BIỂN VỚI PHÊRÔ
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Đâu là những điểm tương đồng giữa đoạn văn này với đoạn văn trước?
2. Đoạn văn có chủ đích nào trong toàn thể phần này (ch.14-17)?
3. Giai thoại cho biết gì về nhân cách và niềm tin của Phêrô?
4. So sánh việc đi trên mặt biển đây với 2V 2, 1-5.
5. Đâu là những nét trong trình thuật này cho phép ta song đối Chúa Giêsu với Giavê?
6. Đâu là các chi tiết mặc cho giai thoại này một ý nghĩa Giáo Hội học?
7. Lời tuyệt tín cuối cùng của các môn đồ: “Quả thật, Thầy là Con Thiên Chúa” có thể giải thích được nhiều cách không?
1. Nếu phải đưa ra một điểm chung giữa đoạn văn này với đoạn văn trước về việc hóa bánh ra nhiều thì đừng ngần ngại nêu lên mấy nét như sau: nơi đây cũng như trong trình thuật trước, các môn đồ ở một mình và thiếu mọi thứ với Chúa Giêsu; lúc nãy họ đứng trước đám đông cùng đường, bây giờ họ lênh đênh trên mặt biển; trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu chỉ ra tay cứu giúp vào giây phút sau cùng, bằng một cử chỉ biểu lộ quyền uy tối thượng của Người trên vạn vật: gió lúc này và năm chiếc bánh cùng hai con cá trước đây. Trong cả hai bản văn, Mt trình bày thân phận của môn đồ Chúa Kitô, kẻ bị chia sẻ giữa nỗi sợ hãi và niềm tin, nhưng là một niềm tin luôn bị các dòng nước nghi ngờ đe dọa. Đây là một giáo huấn chủ yếu, còn nhằm giải thích cuộc sống gian khổ, nhưng đã vượt thắng nhờ niềm tin của các môn đồ Chúa Kitô trong thế giới quả muôn thế hệ. Cần phải hiểu đúng bản chất của niềm tin này, được thể hiện ở đây trong tiếng “kêu” của Phêrô (c.30): không phải là một sự tự tin và phấn khởi, song là một lời cầu cứu.
2. Đây là lần đầu tiên Phêrô đóng một vai trò độc lập trong cả cuốn Tin Mừng. Có thể bảo ông đã nhảy lên làm sĩ quan chỉ huy, tương tự như khi tuyên chứng Chúa Giêsu là Đấng Messia Con Thiên Chúa (16, 17-19); và cuối phần này, sẽ có nguyên một giai thoại ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông (17, 24-27). Cả ba giai thoại chỉ nằm trong Mt và hoàn toàn vắng bóng trong các Tin mừng khác. Tất cả đều xác quyết những gì ta đã nói từ trình thuật hóa bánh ra nhiều mới đây: vì đám đông không hiểu, nên Chúa Giêsu đã quay về với các môn đồ, và từ nay quan tâm lo lắng làm phát triển niềm tin vừa chớm nở của họ. Và trong họ, Người bắt đầu xây dựng Giáo Hội Người. Bởi thế chẳng lạ gì khi thấy trong nhóm môn đồ nổi lên khuôn mặt Simon, tảng đá mà trên đó toàn thể ngôi nhà Giáo Hội một ngày kia sẽ được xây dựng. Dầu sao, hãy lưu ý là Mt không tô điểm cũng chẳng lý tưởng hóa vị sứ đồ. Đặc biệt trong giai thoại này, ông chỉ trình bày Phêrô như một môn đồ táo bạo, nung nấu một đức tin đích thực đấy, nhưng hãy còn quá ỷ vào sức riêng mình. Đức tin quá nhỏ bé của ông (c.31). Còn phải được thanh luyện và củng cố cho đến ngày Hiện xuống. Trong lúc chờ đợi, tiếng kêu thống khổ, lời xin giải cứu của ông: “Lạy Ngài xin cứu tôi”, là tiếng kêu của một con người thú nhận mình thất bại, bất lực trong việc vượt qua khoảng cách ngăn chia mình với Tôn sư.
3. Có thể nối kết giai thoại này với một sự kiện tương tự được kể lại trong 2V2, 1-5: với chiếc áo choàng của Elia, Elisê đã thừa kế quyền ngôn sứ của Thầy mình và đến lượt ông, ông đã dùng nó cách có hiệu quả để chia đôi dòng nước Giôđanô và lội qua được; Phêrô cũng đi trên mặt biển như Thầy với điểm khác biệt là ông không chiếm hữu, như Êlisê, một quyền năng thần thông gắn liền với đồ vật, nhưng chỉ đi được nhờ niềm tin vào Chúa Giêsu.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Người bắt buộc": Một thành ngữ dị thường! Tại sao Chúa Giêsu phải ép các môn đồ ra đi? Phải chăng vì họ không muốn để Người một mình trong đêm vắng? Hay vì Người sợ các môn đồ nhiễm lây sự kích thích muốn tôn Người làm vua của đám đông phấn khởi trước phép lạ hóa bánh ra chiều (x Ga 6,14-15).
"Còn đò thì... lắc lư với sóng": Matthêu nói về con đò như nói về một thực thể cộng đồng mà ta có thể coi là biểu tượng của Giáo Hội ở câu 33 cũng thế, tác giả không bảo là các môn đồ mà là "những kẻ ở trong đò”.
"Canh tư' đêm tối, người đi trên biển đến cùng họ": Canh tư tương ứng với khoảng thời gian 3-6 giờ sáng. Phép lạ được kể ở đây gợi nhớ nhiều đoạn Cựu Ước cũng nói Thiên Chúa đi trên biển (G 9, 8; 38, 16; Tv 77, 20; Hb 3, 15; Hc 24, 5), nhưng theo một ngôn ngữ ẩn dụ. Thành ra có sự song song giữa Chúa Giêsu và Giavê vậy.
"Chính là Ta": Qua kiểu nói đây, chắc hẳn Chúa Giêsu trước tiên muốn sửa sai ngộ nhận của các môn đồ (Người không phải là ma) và đồng thời trấn an họ, vì họ chẳng nhận ra đó chính là Người. Nét này gặp lại trong các trình thuật diễn tả Đấng Phục sinh hiện ra dưới một hình dạng khác lạ(x. Lc 24, 36tt). Nhưng vì ở đây Chúa Giêsu tỏ mình qua việc thi thố một quyền năng siêu phàm trên vũ trụ, nên cần phải nối kết với các cuộc thần hiển của Cựu Ước, trong đó Giavê vẫn thường giới thiệu mình bằng một thành ngữ tương tự: ‘Chính là Ta’ hay ‘Ta là’ (St 17, 1; 26, 24; 28, 13; 35, 11; 46, 3; Xh 3, 6. 14). Một lần nữa, Matthêu kín đáo nhấn mạnh rằng có một tương hợp giữa Chúa Giêsu và Giavê.
"Và Phêrô bắt đầu đi trên nước": Người môn đồ được một quyền lực thần thông như Thầy, đó là chi tiết làm nổi bật hơn nữa ý nghĩa Giáo Hội học của đoạn văn. Đây là một đặc điểm của thần học Matthêu, theo đó Chúa Giêsu cũng san sẻ quyền tha tội (9, 6) cho các môn đồ Người (9, 8; 16, 19; 18, 18). Tuy nhiên Phêrô chỉ đi được trên nước nhờ niềm tin của ông. Thánh sử còn nhấn mạnh ở nhiều đoạn khác quyền năng ấy của đức tin cùng hiệu lực lạ lùng và tức khắc của nó. Như với viên sĩ quan đến xin người chữa bệnh cho tên đầy tớ, Chúa Giêsu đã trả lời rằng: "Ông hãy đi, ông đã tin sao, thì sẽ được như vậy". Và ngày giờ ấy tên đầy tớ đã được khỏi (8, 13). Vì đối với người có lòng tin thì "không có gì mà không làm được" (17, 20).
"Lạy Ngài, xin cứu tôi": Như tiếng kêu của những người đi đò gặp cơn bão tố ("Lạy Ngài, xin mau cứu, chúng tôi chết mất": 8, 24), tiếng kêu của Phêrô làm vang vọng nhiều lời cầu khẩn của nhiều Thánh Vịnh, trong đó người tín hữu xin Thiên Chúa đến giúp mình khỏi luồng nước đang dọa đe (Tv 69, 2 và 15; 144, 7; xem thêm Tv 18, 17; 32, 6; Is 43, 2- 3). Thành thử đây là một lời cầu nguyện nói lên niềm tin vào Chúa Giêsu dù với chút ít nghi ngờ.
"Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa": Như các chỗ khác trong Tin Mừng, lời tuyên tín này chắc hẳn không có giá trị như việc các môn đồ nhìn nhận tử hệ tự bản tính của Chúa Giêsu; song là nhìn nhận tử hệ theo nghĩa rộng; đây chỉ là lời công bố về thiên sai tính của Người. Tuy nhiên, có thể cộng đoàn Kitô hữu hậu-phục-sinh sau đó dùng lại lời tuyên tín của Phêrô và thêm vào ý nghĩa đầy đủ là Thánh Thần soi sáng. “Những kẻ ở trong đò" nghĩa là ở trong Giáo Hội, theo gương Phêrô và các môn đồ, tuyên xưng Chúa Giêsu thực là Người Con duy nhất của Thiên Chúa tối cao.
KẾT LUẬN
Matthêu trình bày một cuộc thần hiện dành riêng cho "các kẻ ở trong đò", nghĩa là cho Giáo Hội của Đấng Phục Sinh: trong Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa Cứu Thế của thời Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những luồng nước khủng khiếp hằng rình chực nuốt lấy họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện đáp cứu của Người giữa cơn bão táp là nền tảng niềm tin của các tín hữu và cho phép họ nói lên cách vững lòng: "Ngài thật là Con Thiên Chúa".
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Điều đã xảy đến cho Phêrô, thủ lãnh các sứ đồ, sẽ mãi là kiểu mẫu và gương soi cho mọi kẻ tin. Ở đây, Phêrô đại diện toàn thể Giáo Hội đang đứng trước mặt Thầy mình. Giáo Hội biết rằng mình được bảo đảm vượt thắng mọi thử thách nguy biến, rằng mình sẽ chẳng bao giờ đắm chìm, mất hút trong giòng lịch sử, với điều kiện cương quyết giữ vững đức tin. “Nếu không gắn bó với Ta, các ngươi sẽ chẳng đứng vững được" (Is 7, 9). Điều này có giá trị đối với dân Giao ước mới như đối với dân Giao ước cũ.
2) Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng lặng yên. Người không cần ra lệnh như đã làm trong cơn bão táp (8, 26). Sự hiện diện của Người đủ sức đem lại yên tĩnh và chế ngự ngũ hành cuồng điên. Trong đời ta cũng thế. Nếu biết đặt Chúa Giêsu ở trung tâm đời mình như một hiện diện đích thực và sinh động, ta sẽ được an bình nội tâm, dù bên ngoài phải tư bề sóng gió.
3) Chúa Giêsu ra nơi vắng vẻ để cầu nguyện, một lối cầu nguyện thật đặc biệt như giòng sông êm ả giữa Chúa Cha và Người. Không phải Người chẳng thích lối cầu nguyện phụng vụ hay cầu nguyện công khai đâu (ta đã thấy Người cầu nguyện trước đám đông lúc hóa bánh ra nhiều: 14,19), nhưng thỉnh thoảng Người cảm thấy cần có một lối cầu nguyện đơn sơ và cá nhân như thế. Trong việc này cũng như trong mọi chuyện khác của đời Người, Người là gương mẫu cho ta: không thể tưởng tượng ra một môn đồ Chúa Giêsu không biết bắt chước Người trong việc cầu nguyện.
4) Tin là nhảy xuống nước để đi gặp Chúa Giêsu. Nếu lúc ấy ta sợ, thế của ta sẽ trở nên nguy hiểm hơn lúc ta bằng lòng ở lại trên đò với các kẻ khác. Một khi đã liều, thì phải liều cho đến cùng tận. Nếu không nỗi sợ hãi sẽ nhận chìm ta. Tuy nhiên, dù bấy giờ sợ hãi, dù không còn sức tin tưởng trước cơn bão hoài nghi và chướng ngại, ta vẫn còn có thể kêu lên: "Lạy Chúa, xin cứu con". Và Người sẽ không bỏ lỡ cơ hội để nói với ta: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!”.
5) Phêrô bắt đầu chìm xuống "lúc thấy gió mạnh" (c.30), ông đã chia trí không nhìn đến sự hiện diện trấn an của Chúa Giêsu. Nhưng ông lại được cứu một khi quay nhìn về Người.
6) Thử thách, khổ đau, thất bại không vùi dập nhận chìm Kitô hữu, nhưng cảnh tỉnh, thanh luyện niềm tin.
72.Sức mạnh của đức tin
Vào cuối năm 2007, một tai nạn chìm đò đã lấy đi sáu mạng người trong đó có một người vợ ông lái đò và năm học sinh. Câu chuyện xảy ra vào một buổi trưa như thường lệ, ông lái đò và vợ ông vẫn ngày ngày chở các em học sinh qua sông để đưa đi học và đi về. Nhưng hôm nay ông lại chở khẩm hơn mọi hôm và tại nạn đã xảy ra; chiếc thuyền bất ngờ bị lật úp tất cả những người đi trên thuyền mà phần lớn là các em học sinh đều bị té nhào, nhưng trong đó có một số em không biết bơi nên đã bị chết đuối, các em chết vì không có người đưa cánh tay ra cứu. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã cứu thoát các môn đệ khỏi cơn cuồng phong của biển cả, Ngài đã đưa cánh tay cứu ông Phêrô lên khi ông đang chìm xuống dòng nước sâu.
Chắc chắn những người thân của các em cũng rất muốn có một ông Giêsu như ngày hôm nay để cứu vớt các em như Ngài đã từng cứu Phêrô. Cho nên việc Đức Đức Giêsu làm phép lạ đi trên mặt biển, kéo Phêrô lên khỏi mặt nước, và làm cho biển yên gió lặng không phải là để làm trò tiêu khiển cho vui mắt, nhưng là để bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa trên biển cả, bão tố, tượng trưng cho thế lực của sự dữ. Đồng thời, để củng cố niềm tin của các môn đệ, nhất là Phêrô, để sau này Người sẽ trao cho ông làm thủ lãnh con thuyền Giáo Hội.
Từ thời Giáo Hội sơ khai, không ít lần các tông đồ phải sợ hãi lo lắng, có lúc chao đảo như muốn chìm đi giữa phong ba bão táp. Khi mà con người ta không còn gì để bám víu, thì lúc đó Đức Giêsu lại ở bên cạnh để trấn an: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ".
Hôm nay, Phêrô thủ lãnh số một của Giáo Hội, năng nổ, hăng hái, liều lĩnh xin "đi trên mặt nước mà đến với Thầy". Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm. Ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với". Và cùng là ông bị Đức Giêsu mắng cho là kẻ yếu lòng tin. Bị Thầy mình mắng thật sự không oan tí nào, trên đường đến với Thầy mà ông còn nghi ngờ. Tuy bên ngoài thì mạnh dạn, năng nổ, nhưng đó chỉ là hành động tức thời chứ chưa phải là tin, nhưng hành trình Đức tin của Phêrô có điểm hay là ông đã để cho nó lớn lên rất nhanh. Để đượclớn nhanh như vậy thì sức người không thể nào làm được nhưng phải nỗ lực bản thân cộng thêm với ơn Chúa. Tiêu biểu như Phêrô, ban đầu đức tin ban đầu nhỏ bé, kém cõi, nhưng nhờ lời khích lệ của Đức Giêsu "cứ đến", mà ông đã bước đi được trên mặt biển. Trong cuộc sống mỗi người cũng vậy, khi niềm tin vững mạnh sẽ giúp ta vượt qua được mọi giông bão của cuộc đời. Ngược lại, khi hoài nghi làm chúng ta chao đảo, sợ hãi, hụt chân. Nhưng khi đã đặt được niềm ti vững mạnh nơi Chúa thì cho dù chúng ta hụt chân vẫn không sợ hãi vì có Chúa đang đưa cánh tay nâng mình lên.
Con thuyền Giáo Hội vượt qua bai chông gai thử thách, qua biết bao thăng trầm nhưng với niềm tin vững mạnh vẫn băng băng tiến về đích. Con thuyền Giáo Hội chính là con thuyền mẹ gồm nhiều con thuyền tính hữu hợp lại. Do đó, con thuyền Mẹ chỉ có thể tiến nhanh về đích khi các con thuyền của mỗi người chúng ta có một đưc tin vững mạnh, đức tin của mỗi người chúng ta chính là động lực để thúc đẩy con thuyền Giáo Hội càng tiến nhanh hơn.
Lạy Chúa, trong cuộc hành trình về quê trời chắc chắn đời con còn gặp rất nhiều phong ba bão táp, xin cho con biết luôn phó thác tin tưởng vào Chúa vì chỉ có đức tin mới có thể cứu vớt chúng con về bến bình an. Amen.
73.Chú giải theo Fiches Dominicales.
NGƯỜI KÉM TIN, SAO NGƯƠI LẠI NGHI NGỜ?
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
Nỗi sợ hãi của các môn đệ cô đơn giữa cơn bão táp
Đoạn văn tường thuật việc Đức Giêsu đi trên mặt nước, ta đọc thấy cả trong Mt, Mc (6,45-52 và Ga (6,16-21). Cả ba tác giả đều đặt hiến cố này sau phép lạ hoá bánh ra nhiều. Tường thuật của Matthêô gồm 4 phần nối kết chặt chẽ với nhau: 1. Tương quan với việc hoá bánh ra nhiều; 2. Việc Đức Giêsu rút lui lên núi; 3. Việc Đức Giêsu đi trên mặt nước; 4. Việc Phêrô bước đi trên mặt nước và tuyên xưng đức tin.
1/ Tương quan với phép lạ hoá bánh. J.Potin coi như tương quan thần học. Trong sa mạc Sinai, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng manna và đã dẫn dắt họ đi qua Biển Đỏ. Cũng vậy, Đức Giêsu nuôi dân chúng và bước đi trên biển để dẫn dắt các môn đệ tới bến bờ bên kia. (Jésus, llhistoire vrai Centurion 1999 trang 257). Thánh Matthêô thuật lại: "Ngay sau khi đã nuôi dân trong sau mạc, Đức Giêsu bắt buộc các môn đệ lên thuyền và cho qua bờ bên kia trước". Tại sao phải lên thuyền vội vã và bị bắt buộc như vậy. Cả hai tác giả Matthêô và Maccô đều không giải đáp câu hỏi này. Trái lại, Gioan cho ta biết: dân chúng quá cuồng nhiệt về phép lạ hoá bánh, nên muốn ép buộc Ngài làm vua (Ga 6,15). Phải chăng Đức Giêsu muốn ngừa môn đệ khỏi ô nhiễm bởi cám dỗ về một thành công hão huyền.
2/ Sau khi đã giải tán đám đông, Đức Giêsu rút lui lên núi một mình để cầu nguyện. Núi là khung cảnh của bài giảng Bát Phúc, và cũng là nơi diễn ra biến cố Hiển Dung (17,1) và cuối cùng là nơi hẹn của Đức Giêsu phục sinh với các môn đệ ở Galilê (28,16). Đọc qua Thánh Kinh, ta thấy núi là một địa điểm thần học hơn là một địa điểm địa lý; núi là nơi được chọn để Thiên Chúa tỏ mình ra và để ta găp gỡ Thiên chúa (xem bài đọc I Chúa nhật này), là nơi ưu tiên dành cho việc cầu nguyện.
G. Gaide giải thích: Đức Giêsu hướng về Cha của Người. Dự kiến của quần chúng là một thử thách đối với Đức Giêsu, một cơn cám dỗ lôi kéo về thành công dễ dãi; cơn cám dỗ số hai (Mt 4,5-7) là muốn lôi kéo quần chúng theo mình bằng những hành động kỳ diệu, trong khi Chúa Cha muốn cho Người lôi kéo mọi người lên với Người bằng việc chịu treo lên thập giá (rồi lên ngự bên hữu Chúa Cha, Ga 12,32). Trong cơn cám dỗ này, Đức Giêsu hướng về Đấng đã sai phái mình, để hiếu rõ ý nghĩa sứ mạng của mình (Assemblee du Seigneur", trang 25-26).
“Chiều đến" Đức Giêsu ở đó, múc lấy sức mạnh trong cuộc đàm thoại với Cha Người, sức mạnh để đẩy lui cơn cám dỗ, dụ dỗ Người chiều theo ý kiến cứu chuộc bằng cách thức loài người. Người "cô đơn" giống như vào một buổi tối hấp hối sau này trong khi các môn đệ của Chúa bất lực, thiếp nghỉ vì buồn sầu.
3/ Đức Giêsu bước đi trên mặt biển. Matthêô thuật tiếp: "Thuyền bị sóng dập vùi bởi vì gió ngược". Trong khi Đức Giêsu ở cách xa họ để cầu nguyện, thì con thuyền của các môn đệ-tượng trưng cho Hội Thánh - phải đương đầu với đêm tối bão táp, vào canh tư đêm tối, Đức Giêsu đến với họ, bước đi trên mặt biển". Cuộc đi bộ trên biển trong đêm tối không chỉ biểu dương một phép lạ suông, xét theo cách diễn tả của tác giả Tin Mừng, nhưng nó hàm ngụ nhiều ý nghĩa khác: Biển đối với người am hiểu Thánh Kinh, tượng trưng cho quyền lực của sự ác; biển rẽ ra hai bên dưới cây gậy của Môsê, mở một con đường cho Dân Chúa đi về tự do. Thánh Vịnh 77 ca ngợi: "Trên biển cả là đường Chúa đi, khắp nẻo trùng dương là lối của Chúa". Đi trên biển, Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng chiến thắng sự dữ, Người đến để mở cho dân của Giao ước mới lối đi từ sợ hãi qua tin yêu. Chính "vào lúc đêm tàn" giống như buổi bình minh của ngày phục sinh, Đức Giêsu đến: cách nói điển hình chỉ cuộc hiển linh phục sinh (xem Ga 20). Cuộc tỏ mình này, thánh ký Tin Mừng trình bày như báo hiệu và như tiền trưng của cuộc toàn thắng phục sinh của Đức Giêsu đối với biển cả chết chóc.
Vì, “xao xuyến" nên các môn đệ không nhận ra Người. Họ sợ hãi kêu lên: "Ma kìa". Lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ lúc đó còn hơn là một lời trấn an: “Hãy vững tin. Đừng sợ. Thầy đây mà”. Đây là một sự mạc khải: Đức Giêsu có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, họ không phải sợ hãi. “Thầy đây mà". J.Potin đã giải thích: Đàng sau câu nói quả quyết này, các môn đệ được mời gọi cảm nghiệm câu định nghĩa mà Thiên Chúa đã phán với Môsê về chính mình, khi Người xuất hiện đột ngột với ông ở núi sinai: “Ta là Ya-vê: Đấng Tự hữu”.
Tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu “Con Thiên Chúa”.
4/ Và cuối cùng là việc Phêrô đi trên biển, việc này cũng mang ý tượng trưng, cùng với việc tuyên xưng đức tin. "Lạy Chúa, nếu thực là Chúa thì xin truyền cho con đi đến với Ngài trên mặt nước”. Nơi Maccô, tường thuật chấm dứt lúc Đức Giêsu bước lên thuyền với các môn đệ và lúc đó sóng gió lắng dịu. Nơi Matthêô tường thuật còn nối dài với cảnh tượng báo trước thái độ mà Phêrô sẽ xử sự sau này: một buổi chiều kia, sau khi đã tuyên xưng lòng tin không hề lay thuyền của mình, Phêrô sẽ té nhào cách thảm hại. Ông còn cần phải gặp gỡ Đấng phục sinh để bước qua thử thách ngày thứ sáu đau thương, mà tới được bến bờ lòng tin vào Chúa Phục sinh. Lúc này Phêrô liều mình bước đi trên mặt nước để đến gặp Đức Giêsu, đó là một hình ảnh sống động về thân phận của người tín hữu. Bị giằng co bởi một bên là lòng tin, lòng tin đem ông đến với Chúa, và bên kia là sự nghi ngại, nghi ngại khiến ông chìm xuống nước. Ông kêu lên: Chúa ơi, cứu con với? Và Đức Giêsu giơ tay ra để cứu ông. "Và khi đã lên thuyền, sóng gió lắng dịu”. Lúc này Phêrô đã lên thuyền với Đức Giêsu. Gió lắng dịu. Mọi người trên thuyền, con thuyền Hội Thánh, đều sấp mình để tung hô lời tuyên xưng đức tin đầu tiên mà ta thấy được trong sách Tin Mừng: "Thầy thật là Con Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC THÊM:
1) “Đi từ mạc khải đến nhận biết” (L.Montoubou, trong "Evangile de Matthieư', Salvator trang 198-199).
Chính vào lúc con thuyền của các tông đồ bị bóng đêm vây kín vào canh tư đêm tối (khoảng 4 giờ sáng), lúc thuyền bị những đợt sóng lớn nhồi đập dữ dội, bị cản trở bởi gió ngược, thì chính lúc đó Đức Giêsu đến với họ, bước đi trên mặt biển. Đó là kiểu nói quen thuộc của Kinh Thánh, Thiên Chúa bước đi trên biển cả. Ta đọc trong Thánh vịnh 77: “Trên biển cả là đường Chúa đi, khắp nẻo trùng dương là lối của Người, không ai biết được đường lối Chúa". Các môn đệ ngạc nhiên, vì họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng vạch lối đi trên biển cả, họ nghĩ đó là một bóng ma. Họ cần đến câu nói của Chúa: “Thầy đây mà!” mới nhận ra Người. Nhận ra Chúa trong khi tuyên xưng Người là Đấng nào. Thành ngữ "Ta đây" là một cách chuyển dịch câu: "Ta là Ta: Ya-vê". Mà câu "Ta đây" nói ở giữa biển cả là câu nói, theo Matthêô, công bố thần tính. Đây là thuật ngữ mà Thiên Chúa đã tự mạc khải cho ông Môsê, rồi sau đó cho dân Israel, trong quá trình một cuộc phiêu lưu lịch sử, ở đó biển đóng một vai trò quan trọng, Thiên Chúa Ya-vê dùng để tỏ ra quyền lực vô biên của Người. Nhưng mạc khải này đây không đi sâu vào nội tâm của các môn đệ, như thái độ của Phêrô chứng tỏ. Ông còn cần cảm nghiệm bản thân và trực tiếp sự phũ phàng của cơn bão táp, cảm nghiệm sự nguy hiểm mà ông phải đương đầu, sau đó ông mới tìm được tận thâm sâu con người ông một thái độ sẵn sàng để tin. Ông kêu lên: "Chúa ơi, xin cứu con!". Kìa Đức Giêsu được Phêrô kêu bằng danh hiệu "Đức Chúa" (KUTRIOS, chuyển ngữ Hy Lạp của danh Chúa YAHVE), có nghĩa là Thiên Chúa ở gần, Thiên Chúa hiệu năng, Thiên Chúa cứu độ. Giờ đây bão táp đã chấm dứt, gió đã lắng dịu, các môn đệ mới hiểu rằng Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa”.
Trước hết Người là Đấng mà họ tìm đến, bởi vì khi Người xuất hiện giữa lúc họ gặp nguy nan, Người có dáng vẻ hấp dẫn, nên đã khiến cho Phêrô kêu lên: xin Ngài truyền cho tôi đến với Ngài. Lúc này, Người là Đấng mà họ phục lạy và tuyên xưng: "Thầy thật là Con Thiên Chúa. Những người ở trong cùng một con thuyền đã có được sự đồng nhất trong đức tin, cùng có một thái độ trước Đức Giêsu và tuyên xưng cùng một đức tin.
2) Chúng ta cũng giống như các môn đệ trong thuyền. (Mgr Daloz trong cuốn "Le Règne de Dieu s'est approché" Desclée de Brouwer, trang 222).
Các môn đệ hoảng sợ khi thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển tiến đến với họ, và họ tưởng Người là ma. Chính họ đã hoạt động với Người để phục vụ dân chúng, thế mà giờ đây họ không nhận ra Người. Chỉ Đức Giêsu cho người khác thì dễ hơn là nhận ra Người trong giờ phút gian nan của cuộc sống của chính bản thân ta. Trong những giờ phút đó, đức tin của ta bị thử thách, đức tin với những bóng tối của nó. Lúc đó chính Chúa phải tự tìm cách tỏ cho ta biết Người. Khi ta tuyên xưng đức tin, khi ta chia sẻ hoặc giáo huấn đức tin, khi ta hoạt động rao giảng Tin Mừng, đức tin được ta coi như một của sỡ hữu yên tĩnh, một hiểu biết êm vui giúp sống và hoạt động. Nhưng những thời điểm quan trọng nhất, quyết liệt nhất của đức tin thì không êm ả chút nào: đó là những lúc ta gặp thử thách, như một tai họa lớn, một sự đe dọa liên quan đến mạng sống, đe dọa cho lẽ sống của ta, đe dọa những người thân nhất của ta, hoặc có thể là một hoàn cảnh hay một ý nghĩ thúc giục ta tự vấn sống để làm gì, hoặc khi công việc mà ta đang làm gặp thất bại, ta cảm thấy mình yếu đuối, bệnh tật, tội lỗi vv... Bấy giờ đức tin không còn là của sở hữu yên tĩnh nữa, ta không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nữa. Ta giống như các môn đệ ở trên thuyền. Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu có thể gây ngộ nhận, nó khác với điều mà ta tưởng tượng hoặc ta giảng giải cho người khác. Ta không nhận ra Người nữa, giống như các môn đệ nghĩ rằng mình thấy ma… Tuy nhiên, phải chăng những lúc này mới là giờ phút ta có được đức tin tinh tuyền hơn. Phải chăng đến gần Thiên Chúa thường làm ta mất phương hướng, chăng là chuyện thường tình sao? Người là Đấng khác, hoàn toàn khác, làm sao ta có thể nhận biết Người, nếu Người không tỏ mình cho ta? Những giờ phút ta bị lạc hướng bởi sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa, chính là những thời điểm nền tảng cho đức tin. Đó là lúc Chúa nói với trái tim ta, là lúc ta nhớ đến một trong những lời của Chúa để ta đoán biết Người ở đó: “Hãy an tâm, Thầy đây mà. Đừng sợ!”.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam