Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 119
Tổng truy cập: 1350273
HƯA VÂNG VỚI THIÊN CHÚA MỖI NGÀY.
THƯA VÂNG VỚI THIÊN CHÚA MỖI NGÀY.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Trên bình diện thuần tuý nhân loại, đây là một lối giới thiệu kỳ lạ. Đấng là khuôn mẫu đời sống của mọi Kitô hữu trọn lành, được mô tả trong hoạt cảnh bỏ nhà ra đi! Nói đúng ra, thánh sử mời gọi chúng ta hãy vượt qua cái bề ngoài, chỉ nên chú ý tới nội dung câu chuyện. Trước hết chẳng có gì là bi thảm, chúng ta để sang một bên nỗi lo âu nhất thời của hai ông bà. Sau đó, chúng ta học được ba thái độ đạo đức căn bản:
1) Thiên Chúa không cho chúng ta biết trước tình tiết cuộc đời chúng ta sẽ như thế nào. Đức Maria và thánh Giuse biết rõ con trẻ Giêsu là AI. Tuy nhiên, hai ông bà không hiểu biết theo lối chúng ta hiểu biết ngày nay nhờ thần học và giáo lý. Mỗi ngày một chút, hai ông bà phát hiện thêm sự thật của mầu nhiệm bao phủ cuộc đời mình và tầm mức bao la của số mệnh Chúa. Đối với Đức Maria và thánh Giuse, mỗi giai đoạn tăng trưởng của Chúa, là một khám phá, luôn luôn đòi hỏi hai ông bà phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa, mỗi ngày phải đáp ứng bằng một tiếng vâng. Ngày này qua ngày khác, hai ông bà lúc nào cũng phải hành động, quyết định, suy xét và nhiều phen chẳng hiểu tại sao, luôn luôn phải thích ứng với những đoạn đường Chúa thúc đẩy phải tiến tới. Chúng ta chẳng khác gì Đức Maria và thánh Giuse. Sau khi thưa vâng với Thiên Chúa để chấp nhận số mệnh mình, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi hãy suy xét và hành động ngày này qua ngày khác, để mỗi ngày lại thưa vâng với Người. Trước hết Thiên Chúa đòi chúng ta gia nhập toàn diện vào số mệnh Người đề nghị. Sau đó, Thiên Chúa đòi chúng ta một sự gia nhập có tính cách chi tiết hơn và đặt giá cho sự gia nhập từng ngày trên đuờng định mệnh mình.
2) Công việc của Thiên Chúa phải đặt trước mọi sự, chúng ta phải hiểu như vậy khi đọc lên câu trả lời của Chúa Giêsu: “Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?”. Câu đáp đối với chúng ta có đôi chút sỗ sàng. Chúng ta cần giữ lại điều này: Thiên Chúa đáng chúng ta dành cho Người một sự ưu tiên tuyệt đối trong cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa là trên hết và trước hết trong đời ta, điều đó có nghĩa là không được suy tôn bản ngã của chúng ta lên bằng Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta có được hạnh phúc là nhờ ơn Thiên Chúa chứ không nhờ khả năng của ‘cái ta’.
3) Chúng ta phải tìm Chúa Giêsu ở nơi chốn Người đang ngự. Sự giải thích cổ xưa nhất về lời đáp của Chúa Giêsu làm nổi rõ sự việc Người ở trong đền thờ, trong nhà Cha Người, là điều tất nhiên, và muốn tìm Người thì phải đến đền thờ mà gặp Người. Khi nào chúng ta có ấn tượng đã mất Chúa, tất nhiên chúng ta hãy đến thánh đường cầu nguyện dưới chân nhà tạm, nếu có thể được.
31.Hạnh phúc
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Đối với những người Kitô-hữu, để sống một cuộc đời có ý nghĩa, là sống theo “thánh ý Thiên Chúa”. Chúa Kitô đã dạy cầu nguyện, trong phần đầu Kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Để trung thành với hướng đi ấy, con người không được nô lệ thế gian với lối sống hưởng thụ sa đọa, có một trái yêu thương tha thứ, và khôn ngoan trước bẩy rập Sa-tan. Chúa Giêsu đã dạy cầu nguyện, phần tiếp theo trong Kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”.
Sống trọn lời nguyện ấy, con người sẽ được Hạnh Phúc.
Vậy Hạnh Phúc là hoàn toàn thuộc về Chúa. Là hoàn toàn vâng theo Thánh Ý Của Chúa.
Nhân vật chính trong Thánh Gia Thất là Chúa Giêsu. Ngài vâng phục Thiên Chúa để “đến thế gian”, và đến thế gian để “thi hành thánh ý Chúa Cha”. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xuất hiện khi Ngài mới 12 tuổi, nhưng lời nói của Ngài đã khẳng định sứ mệnh của Ngài ngay khi Ngài còn bé sống với cha mẹ trong gia đình. “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của cha con sao?”.
Kế đến là Mẹ Maria. Khi Mẹ Maria nghe lời sứ thần truyền, Mẹ đã “xin vâng”. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc.1,38).
Cuối cùng là Thánh Giuse, ngài đã vâng lời Thiên Chúa sau khi sứ thần Chúa đến báo mộng cho ngài: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt.1,24).
Để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa, không phải dễ dàng. Nói một cách khác, không phải lúc nào cũng có thể vâng theo thánh ý Thiên Chúa với lòng vui tươi thanh thản. Phải chiến đấu với nội tâm và lắm khi đầy đau khổ, lạc lỏng, bơ vơ.
Ta có thể suy niệm những giờ phút chiến đấu nội tâm của Chúa Giêsu trong cuộc thương khó của Ngài. Lời nguyện của Chúa Giêsu ở vườn cây dầu: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha”. “Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc.22,42). Trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã kêu lớn tiếng: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt.27,46).
Mẹ Maria tràn ngập niềm vui với bài Magnificat, nhưng Mẹ cũng phải chiến đấu dữ dội với những niềm đau trong lòng Mẹ. Bị chồng là Giuse hiểu lầm định tâm từ bỏ, lời ra tiếng vào của thiên hạ. Những đau buồn và lo âu theo từng bước đi của con mình. Như ông cụ Si-mê-on đã nói với Mẹ Maria: “Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà…” (Lc.2,35)
Thánh Giuse khi vâng theo thánh ý Chúa cũng phải chịu rất nhiều những đau khổ. Tôi nhớ khi còn nhỏ, tháng Thánh Giuse, thường nghe đọc “bảy sự buồn và bảy sự vui ông Thánh Giuse”. Có nhiều người thường nói: “Tội nghiệp thánh Giuse, mấy Thánh sử không cho ông thánh Giuse nói câu nào cả! Ngay cả như trong Tin Mừng hôm nay, bầu khí có vẻ “căng thẳng” như vậy, mà không thấy ông thánh Giuse có ý kiến gì”. Nhưng những gì được kể lại rất ít về thánh Giuse lại cho ta thấy rất nhiều về tâm hồn của ngài. Từ đêm thao thức toan trốn đi, đến đêm huyền diệu ở Hang Đá BêLem, rồi trốn sang Ai Cập, rồi quay về quê nhà, cuối cùng về làng Nagiarét… cho thấy một tâm hồn phong phú đầy nhẫn nhục, can đảm và luôn trung thành tuân theo thánh ý Chúa.
Vị trí mỗi một thành viên trong Thánh Gia Thất được phân chia rõ rệt, bổn phận và trách nhiệm cụ thể, khác nhau, nhưng đan kết vào nhau thành một, yêu thương cho nhau và vì nhau, ngay cả Chúa Giêsu, Ngài khẳng định sứ mạng của mình đối với Chúa Cha, nhưng cũng sống tròn đạo làm con và liên đới trong tình gia đình chặt chẽ. “Người đi xuống cùng cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc.2,51).
Có thể có một điều gì đó, những thành viên trong gia đình chưa hiểu nhau trọn vẹn, nhưng tình thương luôn là cuộc hành trình nhẫn nại, tiếng nói con tim là những suy niệm thầm kín sâu thẩm, nên hạnh phúc không dễ gì tan vỡ. Cuộc sống Thánh Gia Thất thật êm ái và bình an ở làng Na-da-rét. Một cuộc sống thanh bần, đầy yêu thương và thánh thiện. Mầu nhiệm về Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đâu thể một sớm một chiều mà hiểu thấu được. Thánh Gia Thất còn cần thêm một thời gian để suy niệm về thánh ý Thiên Chúa, về chương trình của Thiên Chúa..“Nhưng ông bà không hiểu lời Người nói”. “Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu thì ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc.2,50-51).
Ngày nay, cuộc sống Gia Đình gặp nhiều thử thách. Một nửa những cuộc hôn nhân tan vỡ. Lý do sâu xa nhất vì người ta không có tình yêu chân chính. Tình yêu chân chính chỉ có được khi người ta biết sống theo thánh ý Chúa. Khi trong gia đình mọi người đều biết sống vì thánh ý Chúa, vì Đức Tin, thì họ sẽ biết sống vì nhau và cho nhau. Nguồn tình yêu đến từ tình yêu Thiên Chúa là tình yêu vô tận, không bao giờ cạn kiệt, là tình yêu bất tử.
Không sống vì Chúa, con người sẽ vì mình. Sự đổ vỡ của hôn nhân ngày nay phần lớn là từ lối sống chạy theo sự hưởng thụ ích kỷ. Sự hưởng thụ đi dần vào bản năng thống trị đòi hỏi được cung phụng và mất dần lòng bác ái. Lối sống hưởng thụ là con đường thênh thang dẫn đến sa chước cám dỗ và sự dữ. Thực tế cho thấy, có nhiều gia đình khi nghèo thì rất hạnh phúc, khi trở nên giàu có thì xáo trộn và tan vỡ. Vợ chồng thi nhau hưởng thụ đủ kiểu và họ choáng ngợp trước những thú vui tạm bợ mà họ lầm tưởng là hạnh phúc dài lâu. Những thống kê cho thấy những học sinh giỏi và thành đạt phần lớn là con nhà nghèo, còn một lượng rất lớn những học sinh bỏ học, ăn chơi, phá phách là những hạng con ông cháu cha hoặc con nhà giàu có.
Lạy Thánh Gia Thất,
Xin thánh hóa mọi gia đình. Xin cho mọi gia đình tìm thấy hạnh phúc trong thánh ý Chúa. Xin cho tình yêu mái ấm Na-da-rét sưởi ấm tất cả mọi gia đình trong thế giới hôm nay. Amen.
32.Mái Ấm Tình Thương
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” - Thiên Phúc)
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế, nói: chỗ này không phải chỗ con ta ở. Rồi dọn nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước cách buôn bán đảo điên. Bà mẹ thấy thế, lại nói:
"Chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, về nhà cũng bất chước học tập lễ phép. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói: "Chỗ này là chỗ con ta ở đây.
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ: "Người ta giết lợn làm gì thế. Bà mẹ nói đùa: "Để cho con ăn đấy". Nói xong, bà nghĩ lại, hối rằng: "Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao!". Rồi bà đi mua thịt lợn, đem về cho con ăn thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng: "Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như mẹ đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy". Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ công giáo dục quí báu của bà mẹ hay sao?
****
Thánh Gia Thất là mẫu gương giáo dục tuyệt vời cho các gia đình cũng như cho các cộng đồng tu viện.
Thánh Gia Thất là trường huấn luyện cho Chúa Giêsu, chuẩn bị ngày lãnh nhận sứ mạng Chúa Cha giao phó.
Thánh gia thất là chuẩn mực chính xác nhất cho các người cha, người mẹ và con cái trong gia đình.
Giuse đích thực là một người cha: Sáng ngời trong đức tin mạnh mẽ, nêu cao niềm phó thác cậy trông và tận tình chăm lo cho trẻ Giêsu cùng mẹ thánh Người. Người làm chủ gia đình với tinh thần đầy trách nhiệm, và siêng năng cần cù lao động, trong làng quê nghèo Nadarét.
Maria chính là người mẹ: Gương mẫu trong đời sống nội tâm, và sâu lắng trong tâm tình cầu nguyện. Mẹ chính là người nội trợ đảm đang, chu toàn công việc gia đình, và chăm sóc dạy dỗ con trẻ Giêsu.
Chúa Giêsu là người con thảo hiếu: "Hằng vâng phục cha mẹ" Giuse và Maria, lớn lên mỗi ngày trong sự khôn ngoan và nhân đức, nhất là luôn lo việc "bổn phận ở nhà Cha".
Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình có thuận hoà, thì xã hội mới an vui. Lễ Thánh Gia chính là lễ của mọi gia đình. Noi gương Thánh Gia Thất, các gia đình chúng ta luôn sống có trật tự trên dưới, liên đới trong tình hiệp thông, và chăm lo cho nhau trong tình yêu thương đầm ấm.
Con Thiên Chúa chỉ ra giảng đạo có ba năm, nhưng đã phải chuẩn bị ở mái trường Nadarét suốt ba mươi năm. Nadarét là trường dạy cầu nguyện dạy lao động, dạy yêu thương. Nadarét là một vùng quê hẻo lánh, nhưng lại mang một mái ấm tình thương. Mái ấm Nadarét rất đỗi bình thường, nhưng cũng lại rất khác thường.
Một mái ấm luôn chan hoà bầu khí yêu thương và đạo hạnh.
Một mái ấm luôn ngập tràn tiếng cười vui vì hạnh phúc.
Một mái ấm mà các thành viên luôn để ý quan tâm cho nhau
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, trước tiên phải có Chúa hiện diện.
Mái ấm Nadarét luôn hạnh phúc vì lúc nào cũng có Chúa ở giữa Giuse và Maria. Nếu mỗi gia đình chúng ta đều mời được Chúa đến ở trong gia đình thì chính Người sẽ là dây liên kết để chúng ta yêu thương nhau, là sức mạnh để chúng ta vượt thắng mọi sóng gió, là mẫu gương để chúng ta nhẫn nhịn và tha thứ cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, mỗi người chúng ta cũng hãy sống cho đúng cương vị của mình là cha, là mẹ, là chồng là vợ, là con cái. Thánh Phaolô khuyên: "Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng hãy thương yêu vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự. Vì đó là đẹp lòng Chúa " (Cl 3,21)
****
Lạy Chúa, là nguồn mọi tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con tấm gương Thánh Gia Thất, làm khuôn mẫu cho mọi quan hệ giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình. và giữa cộng đoàn tu viện với nhau.
Xin cho chúng con biết kính trọng và yêu thương Nhau, không phán xét khi hồ nghi, không kết án khi chưa tường, không phụ rẫy khi còn cứu vãn được, nhưng thông cảm và tìm hiểu, nâng đỡ và tha thứ, và trên hết luôn tìm sống theo thánh ý Chúa. Amen.
33.Lễ Thánh Gia Thất.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Sau biến cố năm mười hai tuổi, Chúa Giêsu cùng cha mẹ lên Giêrusalem dự lễ Vượt Qua và Ngài tự ý ở lại ba ngày. Đức Giêsu đã trở về Nadaret, thực hiện đúng lời Em-ma-nu-en-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta đã được tiên tri loan báo. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy Thiên Chúa đang dự phần vào những công việc thân thiết quen thuộc nhất trong gia đình, đây là Thiên Chúa đang tự mặc lấy hình người, đang sống cuộc đời chúng ta. Sự thật là như vậy, và chúng ta có thể nói nhiều điều quý báu về Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa đã bước vào một căn nhà tầm thường và gia đình tầm thường.
Ai cũng nghĩ rằng nếu Thiên Chúa đến thế gian, chắc Ngài phải đến với tư cách một nhà vua, đến sống trong cung điện nguy nga của bậc đế vương đầy thế lực, quyền quý, sang trọng. Nhưng ở Nadaret Chúa Giêsu đã sống như mọi người khác, nhà Ngài ở và cách Ngài ăn mặc cũng giống như người đương thời (Lc 8, 44), Ngài ăn uống như người đồng hương (mt 9, 19). Ngài dùng tiếng nói nơi Ngài ở, trong Phúc Âm, không ai tìm được một danh từ chuyên môn nào, Ngài trình bày những mầu nhiệm tôn giáo cao siêu bằng những từ ngữ thông thường của nơi Ngài sống, Ngài dùng cách diễn tả tư tưởng cùa người đồng thời và lối văn họ quen dùng. Ngài biết những bận tâm, những nhu cầu của họ và không ngạc nhiên khi nghe họ nói: “Chúng ta sẽ ăn gì? Chúng ta sẽ mặc gì?” Ngài dùng những thành ngữ của họ, dầu có nhiều khuyết điểm và thiếu văn hoa. Tỷ như để định vị trí cho một người không những không nghe theo những lời khuyên nhủ kín đáo nhưng cả những cảnh cáo của Giáo Hội, Ngài dùng diễn ngữ này: “Ngươi hãy coi nó như một dân ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18, 17). Trong mọi sự Chúa Giêsu không có gì tỏ ra xa lạ với những người đến để được cứu rỗi. Ngài thật sự ở giữa chúng ta, chung sống với chúng ta, nên giống chúng ta hoàn toàn ngoại trừ tội lỗi. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thánh hoá một lần đủ cả việc con người được sinh ra, thánh hoá mái gia đình khiêm nhượng của giới bình dân và thánh hoá toàn thể tuổi ấu thơ.
2. Thiên Chúa đã bằng lòng làm công việc của loài người mà không xấu hổ.
Suốt ba mươi năm trường, Ngài đã không làm một điều gì ngoại thường, Ngài âm thầm sống như một người dân thường, học nghề nơi cha nuôi và tự tay làm việc nuôi sống bản thân và gia đình. Ngài hoàn toàn giống mọi người dân làng đến nỗi họ ngạc nhiên khi Ngài bắt đầu giảng dạy: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria, anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Gioxep, Simon và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13, 54-56). Thiên Chúa trong Chúa Giêsu đã đến thế gian như một công nhân. Chẳng bao giờ chúng ta nhận thức đầy đủ sự kiện Thiên Chúa thấu hiểu công việc hằng ngày của chúng ta tới mức độ nào. Ngài biết nỗi khó nhọc để kiếm đủ sống của chúng ta; Ngài biết nỗi khó khăn khi gặp khách hàng khó tính hay khách hàng không chịu trả tiền. Ngài biết tất cả những khó khăn trong cuộc sống chung trong một gia đình, và Ngài biết từng vấn đề chúng ta thường gặp hằng ngày. Theo Cựu Ước, lời rủa sả sau khi loài người phạm tội trong vườn Địa đàng: “Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có đủ mà ăn” (St 3, 19), nhưng theo Tân Ước, sự làm việc thông thường được khoác lên một ánh hào quang khi có bàn tay Thiên Chúa chạm vào.
3. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy một Thiên Chúa yêu thương.
Lúc tình yêu thương bước vào đời sống thì đau đớn cũng vào theo, nếu chúng ta có thể sống hoàn toàn tách biệt mọi người, có thể thu xếp cuộc đời thế nào cho mình dửng dưng được với hết mọi sự, mọi người, thì cũng sẽ không còn đau đớn, buồn khổ, lo lắng. Nhưng trong Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa đang hết sức chăm sóc cho loài người và tha thiết với loài người. Ngài cảm thấy đau đớn cho loài người và với loài người. Thật ra, chính tình yêu là khởi điểm của sự hiện diện của Chúa Cứu Thế nơi chúng ta. Chính vì Ngài yêu chúng ta nên Chúa Cha ban Ngài cho chúng ta. Thật vậy, như lời Thánh Gioan: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Và cùng chính vì tình yêu mà Chúa Giêsu đã xả diệt thân mình “trở nên hoàn toàn giống anh em Ngài” vì Ngài “không lấy làm xấu hổ gọi chúng ta là anh em Ngài” (Dt 2, 17. 11). Tình yêu đòi phải nên giồng. Vì Ngài quá yêu anh em của Ngài sống trong thế gian nên có thể nói dĩ nhiên Ngài đẩy mạnh đến cùng mức độ nên giống họ (Ga 13, 13). Cécil Northcott trong quyển “Chúa hiển hiện đời nay” thuật lại một cuộc thảo luận trong trại hè dành cho thanh thiếu niên đại diện nhiều quốc gia trên thế giới: “Một đêm mưa khi các trại sinh thảo luận về nhiều phương cách khác nhau làm sao nói cho người khác biết về Chúa Giêsu. Họ hỏi một nữ trại sinh Phi châu: “Maria, ở nước cô thì cô làm thế nào?” Maria trả lời: “Chúng tôi không có hội truyền giáo, cũng không phát truyền đơn về đạo. Chúng tôi chỉ sai một hoặc hai gia đình tín hữu đến sống, làm việc trong làng. Khi dân làng thấy cuộc sống Kitô như thế nào, họ đều muốn trở thành Kitô hữu”.
4. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa sống trong trắng và thánh thiện giữa loài người.
Nếu sau này Ngài có thể quả quyết: “Ai thấy Ta là thấy Cha” thì trong thời gian sống tại Nadaret, Ngài cũng vẫn luôn mang đặc tính ấy mặc dầu nhiều người không nhận ra. Ngài quả thật có nên giống chúng ta trong mọi sự, nhưng không trong tội lỗi. Không những suốt đời Ngài không hề có một khuyết điểm nào, nhưng qua cuộc sống, Ngài đã biểu lộ thiên tính. Không bao giờ Ngài thông đồn, dù bằng lời nói hay bằng việc làm, bằng cử chỉ với những tội lỗi nơi người đồng hương, vì Ngài thấy ở đó khởi đầu để đồng bào Ngài ghét Ngài.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam