Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 82

Tổng truy cập: 1356674

KHÁT VỌNG LÊN TRỜI

KHÁT VỌNG LÊN TRỜI

 

Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.

Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tai diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân. Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi về trời. Vua nghĩ là thiên thần của trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một đền thờ gọi là đền Phù Đổng Thiên Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.

Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.

Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chưng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.

Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.

Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và "được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa" (Mc 16,19).

Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.

Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cưu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: "Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh".

Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính...đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.

Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn mon đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: "Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muon dân, ngự trên tòa uy linh cao cả" (Tv 47, 2-3, 6-9).

Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: "Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống" (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loai về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tang. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hanh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói " Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho " Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được"(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

Bài Tin mừng hôm nay kết thúc Phúc âm Maccô nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo". Nội dung cua việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: "Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em". Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: "Có Chúa cùng hoat động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng". Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta "và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28,19). Vì thế, Ngày Thế Giới Truyền Thông gắn liền với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.

Trong Sứ điệp truyền thông 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khuyến khích những ai làm công tác truyền thông hãy xây dựng những trang web và mạng xã hội: "Có thể giúp con người ngày nay tìm được thời giờ suy tư và tìm hiểu những vấn đề thiết yếu, cũng như tạo khoảng trống cho thinh lặng và cơ hội cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa". Giáo Hội tìm cách hội nhập sứ điệp Tin Mừng vào trong "nền văn hoá mới này" do những những phương tiện truyền thông xã hội tạo nên với những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và với những cách cư xử mới.

Đứng trước một lục địa mênh mông như Châu Á, làm sao có đủ nhân lực và phương tiện để đưa Tin Mừng đến từng nhà? Đây là câu trả lời đích xác: "Giáo Hội cần khám phá những cách thế để tận dụng mọi phương tiện truyền thông đại chúng vào kế hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ, nhờ biết sử dụng cách hữu hiệu mà sức mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp xúc một cách rộng rãi với từng cá nhân cũng như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị của Nước Trời thâm nhập vào các nền văn hóa của Châu Á". (x. Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 48).

Cho dù phương tiện truyền thông hiện đại tới mấy, nhân lực vẫn là yếu tố quan trọng. Sức mạnh của truyền thông cũng phải phát xuất từ đức tin, chứ không từ những kỹ thuật. Đức tin mạnh mẽ là nhờ chiêm niệm: "Trong thinh lặng, tư tưởng phát sinh và có được chiều sâu. Trong thinh lặng, chúng ta hiểu rõ hơn điều mình muốn nói và muốn người khác đón nhận. Trong thinh lặng, chúng ta tìm cách diễn tả chính mình tốt hơn". (Sứ điệp Truyền Thông 2012).Giữa những ồn ào của truyền thông hôm nay, lời rao giảng Tin Mừng qua phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet muốn đạt mục đích và kết quả như mong muốn cần có tĩnh lặng: "Trong thinh lặng của chiêm niệm, Lời hằng hữu hiện diện cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và chúng ta khám phá ra ke hoạch cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử bằng lời nói cũng như hành động" (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Mỗi người Kitô hữu, nhờ thinh lặng, lắng nghe được tiếng Chúa và đi vào cuộc giao tiếp với Chúa, chung ta mới có thể truyền thông Lời Chúa cho người khác. Chỉ có những người tin thực sự và mãnh liệt mới có thể làm cho Tin Mừng đến với mọi người.

Mỗi Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Moi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin mừng cứu độ và loan báo tin vui, mai này chúng ta cũng sẽ về nhà Cha trên trời.

 

62.Hạnh phúc lớn lao--Lm. Nguyễn Hữu An

Phi hành qia Gagarin sau khi đã bay nhiều vòng trong vũ trụ khi trở về trái đất đã tuyên bố rằng:tôi chẳng thấy Thiên Chúa đâu cả. Thế nhưng, nhà Bác hoc Newton khi quan sát vũ trụ bằng kính viễn vọng đã thốt lên: tôi thấy Thiên Chúa qua kính viễn vọng của tôi.

Chúng ta là những người tin Chúa Giêsu Phục Sinh và lên trời cả hồn lẫn xác. Vậy chúng ta trả lời cho vấn nạn đó như thế nào? Chúa Giêsu lên trời nghĩa là gì? Nay người ở đâu? Việc Chúa Giêsu lên trời có liên hệ gì tới cuộc sống hiện tại của chúng ta hay không?

Theo quan niệm của người Do Thái cách đây hơn 2000 năm, vũ trụ này chia ra làm ba phần: Phần dưới mặt đất là là âm phủ dành cho người chết;phần trên mặt đất dành cho loài người đang sống và trời là thế giới của Thiên Chúa và các Thánh.

Để thích ứng với quan niệm bình dân ấy, các Giáo Lý Viên ngày xưa đã trình bày mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu thành hai giai đoạn:

- Giai đoạn I: Sống lại, Đức Giêsu đi từ âm phủ lên mặt đất

- Giai đoạn II: Lên trời, Đức Giêsu bay từ mặt đất lên thế giới của Thiên Chúa.

Trình bày như vậy thì dễ hiểu nhưng không hoàn toàn đúng với thực tế,hậu quả tai hại là người ta dễ hiểu lầm rằng khi lên trời như thế Chúa Giêsu sẽ đi xa trái đất và cuộc sống của loài người, vì trời thì ở trên cao xa tắp, đâu có liên hệ gì tới trái đất. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta.Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian.Thưc ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao.Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đ¨¤ng là một trạng thái hơn là một nơi chốn.Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vao một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi, đã thấm nhuần tinh thần.

Thực ra khi Chúa Giêsu sống lại Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Ngươì bước vào coi vinh quang của Thiên Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha,mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.

Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Đức Kitô ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.

Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Đức Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh chúng ta thôi, bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Chúa Thánh Thần Đức Giêsu sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Nnững người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Đức Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thay là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật, đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào.

Bài Tin mừng hôm nay kết thúc phúc âm Maccô nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở, đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu. Hình thức của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ Đức Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa đã dùng giáo hội như đôi tay để tiếp tục công cuoc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài.Giáo hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của giáo hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Mỗi Kitô hữu là chi thể của giáo hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.

 

63.Vị quan tòa kỳ lạ--Phaolô Ngô Suốt

Vào năm 1871 Charles Robert Darwin đã cho phát hành cuốn sách tựa đề “The Descent of Man” (xin dịch là “Con người được sinh xuống”. Đây là học thuyết tiến hóa mà những người theo phái Duy vật biện chứng hay Xã hội chủ nghĩa tin theo. Chữ xuống (descent) có nghĩa là phải đến từ một nơi nào đó cao hơn, nó cũng có nghĩa là di truyền theo dòng giống. Tuy nhiên những điều mà Darwin muốn nói đến là dòng giống, và chính xác hơn nữa đó là con người được sinh lên (the ascent of man), con người bắt nguồn từ một động vat thấp kém, nhưng do quá trình tiến hóa; con người do một giống khỉ hay vượn cao cấp nào đó mà thành, Cùng một chữ lên (ascent), nhưng người Kitô hữu tin rằng cuối cùng mình sẽ lên với Thượng Đế; còn người vô thần, theo duy vật thì cho rằng con người đã kết thúc ở đây vì: nhân loại do súc vật lên làm người.

Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa lên Trời, ngày Ngài hoàn tất sứ mạng ở trần gian mà Thiên Chúa Cha đã trao cho Ngài. Chúng ta cùng tìm hiểu về không gian và thời gian, về sự trùng hợp lạ lùng, khó hiểu cũng như ý tưởng độc đáo đàng sau bối cảnh tuyệt vời này.

Sau khi sống lại, Thiên Chúa đã ở với các Tông đồ 40 ngày, chứng tỏ rằng Ngài đã Phục Sinh thật sự, vì nếu sau khi sống lại Ngài lên Trời ngay thì sẽ gây biết bao nhiêu là nghi ngờ cho thiên hạ. Thánh Tôma Aquinô nhận xét rằng:” Chúa Giêsu ở trong mồ 40 tiếng đồng là bằng chứng Ngài chết thật sự, Bởi thế Ngài lưu lại trên thế gian 40 ngày là bằng chứng sự sống mới của Ngài”. Đọc Phúc âm chúng ta thấy rằng Núi Olivet là ngọn núi đã được chọn sẵn cho Chúa Kitô. Chính cuộc khổ nạn của Ngài bắt đầu tại đây. Chính tại nơi nay, sau khi Ngài sang bên kia suối Kítrôn, bị môn đệ phản bội, nộp Ngài cho kẻ thù. Nhưng cũng chính tại núi này, hôm nay Ngài lên Trời, Ngài vinh thắng trở về với Cha Ngài. Thứ hai, bốn mươi ngày sau Chúa nhật Phục Sinh la ngày thứ năm (để tiện cho phụng vụ, cũng như muốn làm nổi bật ý nghĩa của ngày Chúa lên Trời nên Giáo Hội dời vào Chúa Nhật). Ngày Chúa bắt đầu cuộc khổ nạn cũng vào ngày thứ năm, Thứ Năm Tuần Thánh, trong vườn Olives Ngài đã toát mồ hôi máu, bị phản bội và bị bắt. Rồi cũng ngày thứ năm hôm nay, Ngài vinh hiển tiến về Thiên quốc. Cùng một thời gian và cùng một không gian nhưng hai sự việc một tốt, một xấu xảy ra. Phải chăng sư đau khổ, chết chóc phải xảy đến, rồi sự hạnh phúc, vinh quang mới đến sau. Hay nói cách khác sự thành toàn, viên mãn không thể có nếu thập giá, đau khổ không xảy ra.

Có thể nghĩ rằng: Thiên Chúa muốn dạy chúng ta một bài học “sống”, đó là hằng ngày Ngài gởi đến cho chúng ta những đau đớn, tai họa, phiền muộn tức là Ngài chuẩn bị cho chúng ta một tương lai huy hoàng, vinh phúc. Ngày mà chúng ta bị bẻ mặt, xấu hổ nhất, có thể đó là sư bắt đầu cho những tán tụng, tôn vinh; bắt đầu cho sự cứu độ. Trong số ngàn ngàn vị Thánh của Giáo Hội, xin được đơn cử một vị Thánh: Inhaxio của Loyola, vị sáng lập Dòng Tên. Ngài là một quân nhân, gần ba mươi tuổi. Một thanh niên bình thường, yêu đời và có rất nhiều tham vọng. Trong trận bị bao vây ở Pampeluna, Ngài bị thương nặng, chân phải bị những mảnh đạn đại bác phá nát. Ngài phải điều trị rất lâu, chịu nhiều đau đớn. Để giết bớt thơi giờ, Ngài hỏi mượn mấy cuốn tiểu thuyết tình cảm để đọc, tiếc thay ở nhà thương Ngài đang điều trị không có những cuốn sách đó, người ta đưa cho Ngài cuốn “Cuộc đời Chúa Kitô” và “Cuộc đời của các Thánh”. Thế rồi, cuộc đời Ngài đã thay đổi hoàn toàn sau khi nghiền ngẫm những cuốn sách này. Đang là một quân nhân, Ngài muốn mình trở thành một quân nhân cho Chúa Kitô. Bất chấp mọi trở lực, Ngài đã biến mơ ước của mình thành hiện thưc, Ngài lập Hội Chúa Giêsu (Society of Jesus), làm rất nhiều điều tốt lành để tôn vinh Thiên Chúa và cứu thoát các linh hồn. Ngài đã trở thành một vị Thánh lớn trên thiên đàng. (Hiện nay những phương pháp cầu nguyện Ngài đề ra được các nhóm Linh Thao sử dụng) Rõ ràng ngày Thánh Inhaxiô bị thương nặng, cũng là ngày bắt đầu cho sự thánh hóa và ơn cứu độ cho cuộc đời Ngài. Nếu Ngài không bị thương tích, đau đớn kéo dài, có lẽ Ngài vẫn là người bình thường như chúng ta. Đó cũng là lý do mà Thánh Tiến Sĩ Augustinô viết rằng:”Đau khổ là một phương thuốc, chứ không phải là một hình phạt”.

Tóm lại, hôm nay chúa vinh hiển về Trời, để tâm hồn chúng ta cũng biết hướng về đó. Và chắc chắn như lời Ngài hứa là Ngài sẽ trở lại để phán xét nhân loại. Ngài sẽ trở lại để làm Thẩm Phán cho cuộc xử chung thẩm. Chỉ khác một điều là Quan Tòa này khi xét xử không cần hỏi tội trạng bị can, không cần nghe trình bày. Ngài chỉ nhìn và đối chiếu 5 vết thương trên người bị can với năm vết thương mà thế gian đã ghi khắc vào cơ thể Ngài. Chỉ cần nhìn mà Ngài cũng biết chúng ta có biết chấp nhận những đau khổ khi xưa, và dùng nó như một phương thuốc cho sự cứu thoát linh hồn chúng ta hay không. Chỉ cần nhìn mà Ngài cũng thấy rõ là chúng ta có biết hy sinh cho tha nhân để gây ơn ích hay không. Xin mượn ý tưởng của Đức cố Tổng Giám Mục Fulton J. Sheen để kết thúc: “Khi Chúa trở lại để đón nhận và xét xử chúng ta lần cuối, Ngài sẽ nhìn xem chúng ta có mang những vết tích thập giá trên thân xác mình không. Ngài sẽ nhìn vào đôi tay của chúng ta để nhìn xem nó có bị đóng đinh, bị chai đá, thương tích vì đã hy sinh khi phải cho đi những cái mà nó làm ra không. Ngài sẽ nhìn vào đôi chân, để xem nó có tím bầm, bị gai nhọn, đinh sét đâm thủng vì đi tìm những con chiên bị lạc khong. Ngài sẽ nhìn vào lồng ngực chúng ta để nhìn xem nó có từng mở rộng để đón tiếp, rồi quyện lẫn với trái tim yêu thương của Thiên Chúa Tình Yêu không”.

home Mục lục Lưu trữ