Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 56
Tổng truy cập: 1361560
KHI CÁI ÁCH MANG TÊN TÌNH YÊU
KHI CÁI ÁCH MANG TÊN TÌNH YÊU
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Trong những tuần lễ qua, cả hành tinh đang nóng lên cùng với quả bóng đang lăn trên các sân vận động tại quốc gia Brazil. Nước mắt và nụ cười, thành công hay thất bại, ở lại hay ra đi…tất cả đã làm nên một bức tranh tuyệt vời của cuộc sống, của xã hội, của kiếp người.
Có một điều không ai phủ nhận là, nét đặc trưng của kỳ world cup nầy chính là hình ảnh của bức tượng Chúa Cứu Thế, một biểu tượng của thành phố lớn Rio de janeiro, luôn thấp thoáng trên màn ảnh tv trong các chương trình world cup. Đó là chưa kể, trong mọi cuộc thi đấu bóng đá, hầu hết các cầu thủ của vùng Nam Mỹ, Trung Mỹ và một số các nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nhà, Croatia, Ý…mỗi khi ra sân hay rời sân, họ đều làm Dấu Thánh Giá, một cử chỉ, một biểu tượng của niềm tin vào Chúa Giêsu…
Mà không chỉ biểu tượng thôi đâu! Cả câu chuyện của Thánh Kinh cũng được nhắc đến. Chẳng hạn như trong trận Hà Lan gặp Costa Rica, một bình luận viên trên kênh VTV3 đã ví von rằng: đội Costa Rica như một chàng Đa-vít tí hon đang chiến đấu với gã khổng lồ Goliat Hòa Lan…
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chàng chăn chiên Đa-vít, con út của Giê-sê, thuộc dân Ít-ra-en chiến đấu tay đôi với đại tướng Goliat của dân Philitinh, và đã chiến thắng ngoạn mục chỉ với vài viên đá cuội và chiếc ná. Tuy nhiên, trước đó, khi đối diện với tên Goliat, Đa-vít đã mạnh mẽ và xác tín tuyên bố rằng: “Mầy mang gươm, mang giáo, cầm lao đến với tao. Còn tao, tao đến với mầy nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mầy thách thức…” (1 Sm 17,45).
Có lẽ đây là mô hình mẫu cho mọi cuộc chiến đấu của niềm tin mà Thiên Chúa đã vạch ra trên suốt chiều dài của lịch sử cứu độ. Ngài đã sử dụng những con người, những phương tiện xem ra bé nhỏ, giản đơn, nghèo hèn, để chiến thắng những đầu óc ngông cuồng, những trái tim kiêu căng hợm hĩnh. Một Môsê bé bỏng trôi nổi bồng bềnh trong cái thúng đã vươn lên chiến thắng Pharaô kiêu hùng…; một Juđitha liễu yếu đào tơ đã chặt đầu đại tướng Hôlôphecnê (Gđt 13, 1-17), một Esther hoàng hậu cùng với dân tộc Ít-ra-en đứng bên bờ vực thẳm của sự tiêu diệt, đã quật ngược thế cờ (Et 7, 1-10)… Và đến thời Tân ước, lại những chuyện lạ lụng, vĩ đại vẫn cứ được ký thác nơi những thân phận bé nhỏ nghèo hèn: Đức Maria, Thánh Giuse, các anh dân chài chất phác, thất học bên bờ hồ Gailiê, cô gái làng chơi Maria Mađalêna…Vâng, chính những con người bé mọn ấy, những thân phận khiêm tốn ấy đã làm cho công trình cứu độ vĩ đại của Thiên Chúa từng bước hiện thực trong lịch sử trần gian, đã mang Tin Mừng Cứu Độ giải sáng khắp thế giới.
Và trên hết, như cách diễn tả của sứ ngôn Gia-ca-ri-a trong Bài đọc 1 hôm nay, Đấng Cứu Thế là “Đấng chính trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ…”. Nhưng lại là Đấng “quét sạch chiến xa khỏi Ep-ra-im và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem…”. Đó chính là hình ảnh tiên trưng về Chúa Giêsu, Đấng đã tiến vào Giê-ru-sa-lem cũng trong cung cách hiền lành như thế để hoàn tất sứ mệnh cứu thế bằng cái chết tủi nhục thương đau trên thập giá, một sự hạ mình khiêm nhượng thẳm sâu, một sự hiền lành cho đến mức cuối cùng.
Chắc chắn, chính trong cái trực cảm sâu sắc và đầy xác tín nầy, Chúa Cứu Thế đã thốt lên lời nguyện tạ ơn sốt sắng với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn…”.
Và như thế, bài học đầu tiên, xuyên suốt và cuối cùng mà Đức Ki-tô đề nghị với chúng ta hôm nay vẫn là hoán cải để trở nên khiêm hạ, bé nhỏ: “hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền lành và khiêm nhường”.
Thế nhưng, đối với nhiều người, chấp nhận đi con đường của Đức Ki-tô, chấp nhận thực hành bài học khiêm nhường và hiền lành của Chúa Cứu Thế, con đường của Tám Mối Phước Thật…vẫn luôn là một cái “ách”, một “gánh nặng” mà họ không thể mang nổi, hay nếu có mang, thì cũng trầy trật, dở dang, chẳng đem lại ích lợi gì. Bằng chứng là đã có biết bao người đã ra đi khỏi mái nhà Hội Thánh, đã chọn những bước chân tự do của Giu-đa Is-ca-ri-ốt ra đi trong “bóng tối” với 30 đồng bạc phản bội, thay vì ở lại nơi Bàn Tiệc Lý với Thầy và anh em.
Cũng y chang như thế, ngày hôm nay, có biết bao đôi vợ chồng đã vất đi cái “ách của bí tích Hôn Phối” mà họ đã long trọng cử hành để được được tự do chạy theo những xúc cảm và đam mê của riêng mình; đối với họ đã “xưa rồi diễm ơi cái thứ hôn nhân một túp lều tranh hai trái tim vàng”, còn chăng chỉ là một “của nợ” phải thanh toán, một địa ngục phải thoát ra…. Biết bao bạn trẻ đã khức từ cái “gánh nặng của nhân đức khiết tịnh, trong sạch” để được tự do luyến ái trước hoặc ngoài hôn nhân; biết bao những người mẹ, ông cha sẵn sàng vất đi mạng sống của chính con mình vì sợ “gánh nặng phải đẻ đau, nuôi dạy hay những phiền phức khác cho hạnh phúc cá nhân…”…
Nói chung, vẫn còn biết bao người Ki-tô hữu vẫn xem các giá trị của Tin Mừng và bao lề luật khác của Chúa và Hội Thánh như một cái “ách khó chịu” chẳng cần phải giữ, và mọi cuộc dấn thân để phục vụ cho Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh như một “gánh nặng nề” chẳng đáng để dấn thân…Bởi vì trên đôi vai và cái cỗ của họ không bao giờ xuất hiện một bóng dáng tình yêu như trên vai và trên cỗ của người cha Lê Văn Hồng, đã cõng người con là Lê Xuân Bách suốt 18 năm[1], hay đã lâu rồi, như trên cuộc đời thủy chung, tha thiết của tình yêu nơi người chồng Trương Văn Chín và người vợ tật nguyền đi xe lăn Nguyễn Thị Phương[2]…
Và như thế, với sứ điệp lời Chúa được đề nghị hôm nay, chúng ta lại được dẫn tới một bài học thứ hai: để học được với Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng thì trước hết và trên hết, chúng ta phải đón nhận tất cả trong tình yêu, phải nhận ra cái “ách” và cái “gánh nặng” trên đôi vai cuộc đời chính là “tình yêu”.
Thế nhưng, muốn được như thế, Lời Chúa hôm nay lại đề nghị: phải cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Bởi vì, chỉ có những ai mang Thần Khí của Đức Ki-tô thì mới thuộc về Ngài và mới có cuộc sống mới để bước đi trên những nẻo đường của Ngài (Bđ 2). Nói cách khác, chính Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi con tim và cuộc sống để từ hôm nay, cái “ách” và “gánh nặng” của Tin Mừng, của Chúa Giêsu sẽ mang một tên mới, đó là “Tình Yêu”. Amen.
--------------------------------
[1] Ông Lê Văn Hồng cõng con là thí sinh Lê Xuân Bách, bị teo cơ, lên Hà Nội thi vào Đại học. Ông đã cõng con như thế suốt từ 18 năm nay, kể từ Lê Xuân bách lên 4 tuổi. bản tin của trang mang vnExpress đăng ngày 5/7/2014.
[2] Chị Nguyễn Thị Phương, người phụ nữ nằm liệt giường suốt 9 năm trời, và anh Trương Văn Chín, một người đàn ông khỏe mạnh bình thường, đã vì tình yêu cũng như tình thương sâu sắc mà hy sinh cuộc đời, chấp nhận làm chồng của chị mặc dầu chị bị tật nguyền.
38.Khiêm nhường
Nếu phải kể ra những điều chúng ta cần học hỏi nơi Chúa Giêsu, thì hẳn là nhiều lắm. Tuy nhiên, cái khó là phải bắt đầu từ đâu? May thay chính Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho chúng ta bài học đầu tiên và cần thiết nhất, đó là lòng khiêm tốn, đức từ bi và nhân hậu. Chính Người đã nói: Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Khi xây một căn nhà, thì trước hết chúng ta phải làm nền, phải xuống móng. Nền móng càng sâu, càng chắc thì ngôi nhà càng có thể xây lên cao. Nền móng đâu có phải được làm bằng những vật liệu quí giá và đẹp đẽ, nó chỉ là đá cát, đôi khi cả xà bần, gạch vụn được nện sâu và nện thật chắc. Nó là cái phải không phải để khoe khoang, nhưng luôn bị chôn vùi, bị che đậy và bị người ta chà đạp lên trên. Quả thế, khi chúng ta bước vào bên trong một tòa lâu đài, một hoàng cung hay một ngôi nhà tầm thường nào cũng vậy, chẳng ai để ý đến cái nền, chẳng ai thắc mắ xem nó được làm bằng gì, và chứa đựng những cái chi ở bên trong, nhưng chúng ta sẽ dẫm bước lên nó mà đi.
Con người xét về phương diện cá nhân cũng như tập thể, cũng là một công trình xây dựng, mà nền móng phải là lòng khiêm tốn. Không có nền móng này, không sớm thì muộn chúng ta cũng sẽ bị sụp đổ, bởi vì ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xống, thì sẽ được nâng lên. Hơn thế nữa, trong lời kinh Ngợi Khen, Mẹ Maria đã xác quyết: Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhau.
Lão Tử ngày xưa cũng đã nói: Giàu sang mà kiêu căng là tự rước lấy họa vào thân. Kẻ tự cao tự đại giống như kẻ nhón gót chân để cao hơn người, xoạc chân ra để lớn hơn người. Như vậy sẽ chẳng thể đứng vững và tiến bước. Trái lại bậc thánh nhân cho đến ngày cùng, vẫn không cho mình là lớn, nên mới thành được việc to.
Lịch sử cho chúng ta đầy rẫy những mẫu gương về những cá nhân cũng những tập thể, đặc biệt là những đế quốc hùng mạnh, nhưng kiêu căng, đã bị sụp đổ như thế nào. Những con người như Néron, Napoléon, Hitler…Nhưng đế quốc như Rôma, Mông Cổ…ngày xưa đã thảm bại ra sao, thì ai cũng đều biết. Sự tự cao tự đại thường đi đôi với lòng tạn bạo và bất nhân. Bởi vì kẻ kiêu căng thường bắt mọi người phải khuất phục mình, làm nô lệ cho mình và không ngần ngại dùng bạo lực để đàn áp, chế ngự và tiêu diệt những ai không chịu khuất phục.
Thế nhưng, Chúa Giêsu thì khác. Người đã dạy chúng ta: Ai muốn làm đầu, thì phải trở nên rốt hết và hầu hạ mọi người. Chính Người, trong suốt cả cuộc đời, đã sống khiêm nhu và trong giờ từ biệt các môn đệ, để ra đi chịu chết, Người đã không ngần ngại quì xuống rửa chân cho các ông, để nêu gương khiêm nhường, dồng thời kèm theo đó là bài học bác ái yêu thương, như lời Người đã phán: Con người đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Xưa nay trong Hội Thánh vãn có thói quen đề cao đức khiêm nhường. Nhưng đức khiêm nhường ấy thường được ghép đôi với sự vâng phục. Như vậy xem ra khiêm nhường chỉ là nhân đức của kẻ bề dưới. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã liên kết đức khiêm nhương với lòng bác ái và tinh thần phục vụ. Người coi đó là đức tính của người lãnh đạo, của bậc bề trên. Bởi vì chỉ kẻ khiêm nhường mới có khả năng yêu thương thực sự. Và chỉ kẻ yêu thương thực sự mới thích phục vụ người khác.
Như thế, khiêm nhương không phải là thái độ của kẻ hèn nhát, sẵn sàng chịu khuất phục, nhưng là đức tính của bậc anh hùng, của người đã làm chủ được bản thân mình.
39.Mạc khải cho kẻ bé mọn – R. Veritas
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Bài Phúc Âm của Chúa nhật XIV Mùa thường niên hôm nay được trích trong một đoạn văn hay nhất của thánh Matthêu, người ta gọi đoạn văn này là “Hạt Ngọc Quý Nhất” của Thánh Matthêu. Dòng tư tưởng của đoạn Phúc Âm này thật cao siêu và êm dịu, chúng ta thấy ngay về sự bay bổng và suy tư về Nước Trời. Có lẽ lời cầu nguyện này được thốt ra khi Chúa Giêsu nghe các Tông đồ đi truyền giáo trở về và kể lại cho Chúa các điều họ đã thực hiện, các mối liên lạc giữa Chúa và Chúa Cha về sứ mệnh cứu rỗi làm trung gian, và mời gọi mọi người đến với Ngài. Điều ấy là các mầu nhiệm Nước Trời.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được mạc khải này cho chính mình và cho các Tông đồ: “Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng…” Theo mạch văn và ý muốn của Chúa mà chúng ta hiểu, đây là những người Do thái đang bị đè nặng bởi lề luật và các truyền thống của những biệt phái. Chúa Giêsu đã giải thoát họ khỏi ách lề luật và đem họ đến chỗ thảnh thơi. Vì từ nay những ai đến với Chúa phải đến với tất cả tâm hồn, phải được ghi khắc lề luật mới là luật của Thánh Thần ở bên trong và tự nguyện.
Đoạn văn này rất súc tích tư tưởng, không bao giờ khám phá ra hết, song ít ra chúng ta có thể nhận thấy chính những tư tưởng sau:
Trước hết là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài trên trời vì đã mạc khải những điều này cho các trẻ nhỏ, mà lại không cho những kẻ thông thái và quân tử biết. Những nhà thông thái tự cao tự đại thường cho rằng mình biết tất cả. Lòng tự ái tự cao làm cho họ không nhận ra Lời Chúa, còn những bậc quân tử thì lại tự mãn về lối sống của mình, tự cho mình là chân chính và không cần đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa, không cần ơn cứu rỗi của Ngài. Trái lại những kẻ bé mọn lại biết rằng mình dốt nát trước sự cao cả của Thiên Chúa, họ thấy mình bé nhỏ khốn nạn, và sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn về những hồng ân của Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận ơn cứu rỗi, cảm thấy cần Chúa: “Chúa hạ người quyền hành xuống khỏi vị cao và nâng người hèn mọn lên”.
Chúa Giêsu tự mạc khải Ngài: “Sự thực đã được Cha trao phó cho Ta và không ai biết Cha trừ ra Ta, và cũng không ai biết Ta trừ ra Cha” (Mt 11,27). Lời đó mạc khải về Chúa Giêsu, Ngài đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Một mình Cha biết đầy đủ về Con, vì Cha đã sinh ra Con trong trí và do sự hoàn toàn sung mãn của Ngài. Và chỉ có Con mới biết đầy đủ về Cha và hình ảnh của Con là sự trung thực nhất, là tư tưởng, ý nghĩ của Cha. Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa. Đây là một mạc khải vô cùng quí báu cho chúng ta. Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, song không phải hoàn toàn như chúng ta: “Mọi sự đã được Chúa Cha trao, không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ nào Con muốn mạc khải cho”.
Một tư tưởng nữa của Phúc Âm hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với Ngài: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những kẻ khó nhọc gánh nặng, Ta sẽ bổ sức lại cho”.
Lời kêu gọi đầy lòng nhân hậu và giàu lòng thương xót mà Chúa hứa cho những ai đói khát, những ai mệt nhọc, Chúa sẽ nâng đỡ và Chúa luôn luôn trung thành giữ lời hứa của Ngài. Qua mọi thời đại, tất cả những ai đói khát công chính đều no nê, những ai nặng trĩu tội lỗi đến với Ngài đều được nhẹ nhõm, được bổ sức và được tha thứ. Chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Tội con đã được tha thứ” (Mt 9,2), và chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Đừng sợ, Ta đã thắng thế gian”, (Ga 16,33) và “Ách Ta thì êm ái, gánh Ta thì nhẹ nhàng”, (Mt 11,30).
Chúng ta hết thảy đều phải mang gánh nặng và vất vả, nhưng ở đây chúng ta không có ý nói đến những gánh nặng bên ngoài đè trên vai của mình. Như khốn nỗi, chính trong lãnh vực của tâem linh, thường thì chúng ta cũng phải vất vả nặng nề, xác thịt đè nặng, các ham muốn của tình dục, nhiều tật xấu nào đó kìm hãm tinh thần con người, và sức nặng nào đó đã cản trở con người cũ, không chịu buông tha cuộc đời chúng ta để chúng ta được đi theo Chúa một cách an vui.
Hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy đến với Ngài, Ngài muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng hơn, Ngài muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác êm ái hơn, Ngài đến để phục hồi con người vất vả của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm ra được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn”. (Mt 11, 29-30).
Vậy chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để tìm được nguồn an vui và sự bình an trong tâm hồn. Amen.
40.Gánh nặng của Chúa Giêsu
Chưa bao giờ Chúa Giêsu nói về Cha Ngài một cách long trọng như vậy: “Lạy Cha là Chúa trời đất”. Đây là một trong những lúc mãnh liệt nhất của Tin Mừng. Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài biết rõ vị Chúa tể trời đất đến nỗi chúng ta ngạc nhiên về những ánh sáng đầu tiên của mầu nhiệm khôn lường này: nơi Thiên Chuá duy nhất có những động thái tình yêu, những mối “quan hệ” mà chúng ta trình bày bằng những tiếng: Cha, Con và Thánh Thần. Tôi nghĩ rằng phải dành ra một lúc để chiêm ngắm và cảm tạ vì những ánh sáng đã không thể đến với chúng ta được: “Con chúc tụng Ngài, lạy Cha, Đấng mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Có lúc chúng ta nghĩ rằng chúng ta không là gì cả. Điều này không đúng. Thiên Chúa không yêu thương cái không là gì cả. Chúng ta là một cái gì đó và thậm chí vĩ đại bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Đến sống cuộc sống của chúng ta và biết rõ cuộc sống đó, nhất là cuộc sống của những người bé mọn, Ngài nói với chúng ta: “Hãy đến cùng Ta, hỡi tất cả những ai mỏi mệt và gánh nặng”.
Gánh nặng nào? Gánh nặng của cuộc đời hết sức khó khăn và đôi khi người ta còn chất thêm luật lệ tôn giáo quá đáng hay được chỉ dẫn không đúng. Thế là người ta cảm thấy sợ hãi không thể tuân giữ các giới răn, không bao giờ có thể làm vui lòng Chúa. Điều đó lấy mất tự do nội tâm và niềm vui của chúng ta, tước mất Thiên Chúa khỏi chúng ta. Nếu Ngài là Đấng làm cuộc sống chúng ta nặng nề, thế thì Ngài đâu phải là Thiên Chúa Tình yêu?
Chúa Giêsu đã mạnh mẽ tố giác những kẻ làm gương xấu cho những người bé mọn: “Các luật sĩ và Pharisêu nói mà không làm: họ đặt những gánh nặng lên vai những người khác trong khi họ không muốn đụng ngón tay vào: (Mt 23,3-4).
Có lẽ chúng ta đã bị chấn thương do những kẻ ra sức làm cho chúng ta trở thành những người luôn luôn có mặc cảm tội lỗi. Thật rất khó mà thoát ra được một sự giáo dục vụng về. Tôi chỉ biết có mỗi một cách là không ngừng đến với Chúa Giêsu, chiêm ngắm Ngài, lắng nghe Ngài, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài là Đấng đã nói: “Ta, Ta có thể cho người nghỉ ngơi an bình cùng với Chúa”.
Đó không phải là một an bình với một Thiên Chúa giả hiệu là Đấng luôn luôn bằng lòng với chúng ta theo giá rẻ mạt, Chúa Giêsu nói: “Hãy mang lấy ách của Ta”. Đây thật là một cái ách bởi vì đây là một điều luật. Không ai có thể bỏ qua điều luật, và luật của Chúa Giêsu, tức luật tình yêu, cho dầu bó buộc nhất, vẫn là một sự đòi hỏi vô cùng. Nhưng đây là một sự nghịch lý được Chúa Giêsu khẳng định nếu không thì chúng ta khó mà chấp nhận: “Ách ta êm ái, gánh ta nhẹ nhàng”. Luật của Chúa Giêsu duy trì chúng ta trong sự cố gắng nhưng để cho chúng ta được an bình. Nếu một gánh nặng làm tê liệt chúng ta và làm cho chúng ta buồn khổ thì chắc hẳn đó không phải là gánh nặng của Chúa Giêsu.
41.Hiền lành và khiêm nhường
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Lời Chúa hôm nay thật là phong phú, mỗi câu là một đề tài đáng suy nghĩ. Chúng ta chỉ tập trung suy niệm một câu thôi: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).
Hiền lành và khiêm nhường là hai đức tính căn bản và nền tảng mà mỗi người chúng ta phải có để làm người.
1. Người hiền lành (meek)
Vậy người hiền lành là ai? Trước hết người hiền lành là người có đức độ, lương thiện (good); có lòng thương người (helpful); người tỏ ra kiên nhẫn (patient), dễ tùng phục (submissive), tử tế và hòa nhã với người khác (kind). Người ở hiền thì sẽ có hậu: “Ở hiền gặp lành”, “Cha mẹ hiền lành thì để đức cho con” (ngạn ngữ Việt nam).
Trái nghịch với hiền lành là người độc ác, ích kỷ, nóng tính (nóng tính thì hỏng việc!); người thích mệnh lệnh, ưa “ăn trên ngồi trốc”; người “giận cá bằm thớt”; người hay gây lộn “thượng cảng chân hạ cẳng tay!”; người hay “bới lông tìm vết”; người hay nói xiên nói xỏ, nói móc nói me, gây chia rẽ trong gia đình, cộng đoàn, xã hội, vv và vv…!
2. Người khiêm nhường (humble)
Còn người khiêm nhường là ai? Người khiêm nhường là người biết mình, biết người, biết sự vật đúng như nó là; người không khoe khoang, không phô trương, dù có thành công (not proud or arrogant although successful); người biết tôn trọng người khác và nhường - nhận người khác hơn mình.
Ngược với khiêm tốn là người kiêu ngạo: người tự coi mình là hơn người, khoe khang, nói quá sự thật, hay “vơ đũa cả nắm”, kiểu “cả vú lấp miệng em!”, lúc nào cũng cho mình đúng còn người khác thì sai vv…!
3. Gương khiêm nhường
Đức Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hãy học cùng Người, hãy học trường Giêsu. Bởi nơi Người, chúng ta gặp một mẫu gương đích thực về sự hiền lành và khiêm nhường: Người là Thiên Chúa nhưng đã hạ mình mặc lấy thân phận tôi đòi (Phil 2,6), là vị Thầy nhưng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, Người hiền lành như chiên con bị xén lông mà chẳng mở miệng (Is 53,5-7), và Người đã sống sự khiêm tốn tới tột cùng là cái chết nhục nhã trên thập giá. Nhưng sự hiền lành và khiêm tốn đó lại trở thành dũng lực, là sức mạnh của Tình Yêu và ơn cứu độ cho chúng ta. Người được Thiên Chúa tôn vinh với danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (Phil 2,9). Đúng là “ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên” (Lc 18,14)!
Khi nói về những vị thánh đã học được gương của Chúa Giêsu, ta nhớ tới câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII: Tên thật ngài Roncalli, trước khi làm giáo hoàng, ngài là khâm sứ ở Bungari và Thổ. Trong khi thi hành công vụ, ngài nhận được một bức thư của một linh mục chỉ trích ngài đủ mọi thứ. Ngài đọc thư và không nói gì. Sau đó ngài làm Hồng Y, rồi làm Giáo Hoàng (1958). Về sau vị linh mục đó cùng với giáo dân sang Rôma để yết kiến Đức Giáo Hoàng. Vị linh mục này kể lại buổi yết kiến này: trong khi đứng chờ, đầu óc của ngài cứ nghĩ tới bức thư đó và vừa hối hận vừa lo sợ. Thời gian lâu rồi chắc Đức Thánh Cha đã quên. Không ngờ tới liền, Đức Thánh Cha kéo lá thư trong cuốn sách kinh ra. Cha hoảng sợ, chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi? Nhưng Đức Giáo Hoàng ôn tồn nói: “Con đừng sợ, Cha cám ơn Con. Cha để lá thư trong sách để mỗi ngày đọc và xét mình. Hầu dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại và tránh những lầm lỡ có thể xảy ra trong tương lai. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.
Các thánh thật hiền lành và khiêm tốn như Chúa Giêsu! Chúng ta chưa giống Chúa vì chúng ta chưa học và sống sự hiền lành và khiêm nhường Người. Nên hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy đến với Người và học nơi Người. Khi chúng ta học được sự hiền lành và khiêm nhường thì lòng chúng ta, gia đình và xã hội sẽ có bình an. Amen!
42.Ai là người mở mắt?
Ba chương 11, 12 và 13 của thánh Matthêu xoay chung quanh các chủ đề ‘dấu kín’ và ‘tỏ bày’. Chúa tỏ bày một giáo huấn và tự tỏ bày chính mình. Giáo huấn không phải là hoàn toàn mới lạ vì dân Do thái đã được Thiên Chúa dậy dỗ nhiều. Nhưng Đức Kitô mở những viễn ảnh mới cho những chân lý cũ và có được điều ấy là vì Ngài liên kết những chân lý ấy với con người của Ngài. Mục đích của Ngài là hướng dẫn các tâm trí khám ra bản tính con Thiên Chúa của Ngài. Vì vậy ở đây chân lý không phải là sự khám phá của trí khôn sau những cố gắng học hỏi cho bằng là một cuộc gặp gỡ của toàn thể con người đáp lại một sự sẵn sàng thâm sâu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài vì Chân Lý được tỏ ra như một cuộc gặp gỡ cho những ai có tâm trí không chất chứa và tấm lòng sẵn sàng đón nhận. Đáng lẽ những kẻ đầu tiên đón nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô của Thiên Chúa phải là các vị tiến sĩ luật pháp, vì Lề Luật và các tiên tri loan báo Đức Kitô. Rủi thay, cái học tinh thần quá họ chất chứa nặng nề những lý luận tinh tế, những ý niệm trí thức, những tranh luận diễn giải. Mọi thứ ấy sinh ra tri thức tự mãn và bởi nó sinh ra kiêu ngạo. Vô tình họ đã dựng nên trước tâm trí một bức màn chắn. Trên đó họ thích thú nhìn ngắm hình dáng chính mình và do đó không còn có thể nhận ra lối Chúa đi qua, ở bên kia bức màn. Ý thích của Chúa Cha không phải là muốn các người khôn ngoan và tài khéo dựng nên một màn chắn trước họ, điều này thật tai hại, nhưng là muốn cho các người hèn kém và nhỏ bé có khả năng nhận diện Đấng yêu mến và giải thoát họ.
1) Cho người ‘nhỏ bé’ Chúa ban khả năng nhận biết Chúa Cha qua Chúa Giêsu. Qua các lời nói, việc làm và con người Chúa Giêsu, họ thấy được rằng giữa Đấng tỏ lộ trước mắt họ và Thiên Chúa có một tương quan đặc biệt tạo bằng gắn bó mật thiết và sanh thành như Cha với Con. Tư tưởng Do thái không quan niệm Thiên Chúa như là Cha, nhưng chỉ theo nghĩa Thiên Chúa tốt lành, chăm sóc và tạo thành. Quan niệm Thiên Chúa là Cha đến mức độ con người mang tên Giêsu lại là con đồng bản tính với Ngài, quả thật quá đáng và phạm thượng. Thực ra, mặc khải một việc như thế vượt quá những khả năng nhân loại, đó là một ơn Thiên Chúa ban. Những kẻ được lãnh nhận ơn ấy là các tâm trí hèn kém, đơn giản, cởi mở, ‘nhỏ bé’.
2) Đức Giêsu mà Chúa Cha dùng làm trung gian để tự biểu lộ, Người là ai? Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Chúa Giêsu sống tận cùng mầu nhiệm nhập thể. Đến chia sẻ thân phận làm người. Người muốn xuống tận kinh nghiệm nhân loại của kẻ hèn kém, nhỏ bé nhất và kẻ ấy phải có được một lối đi đến Người. Hơn nữa, vì những kẻ sẵn sàng đón nhận Chân lý, nhất là những tâm trí giản đơn và tình nguyện, vì những kẻ dễ dàng cảm nhận nhu cầu đến Chúa Cha nhiều nhất (ngay cả qua những thái độ phản kháng tiêu cực) là những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn nhất, cho nên Chúa Giêsu thích mặc khải Chúa Cha cho những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn.
43.Chúa Nhật 14 Thường Niên
ĐẾN VỚI GIÊSU, HỌC CÙNG GIÊSU VÀ MANG LẤY ÁCH GIÊSU
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ!
Đọc bài Tin Mừng ngày hôm nay, con nhớ đến một câu hỏi mà một chị giáo dân người Nhật đặt ra cho con khi con dạy chuyên đề về Chúa Ki-tô. Cũng đoạn Tin Mừng này, đặc biệt ở câu 25 (Mt 11, 25), chị ấy suy niệm xong, bèn hỏi con: “tại sao Thiên Chúa lại giấu những chương trình, kế hoạch của Ngài, không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết; ngược lại, Ngài lại mạc khải cho những người bé mọn?” Vừa nghe câu hỏi ấy, thì con đã có câu trả lời! Chẳng phải vì con giỏi giang đâu, mà nếu chúng ta đọc tiếp câu 26 thì sẽ thấy câu trả lời do chính Chúa Giê-su khẳng định: “Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy” (Mt 11, 26)
Có lẽ chúng ta đôi lúc cũng có câu hỏi như chị giáo dân ấy, rồi cuộc sống cứ dần trôi, công việc, gia đình, những nỗi lo toan, muộn phiền, v.v…dường như đưa chúng ta đến một dấu chấm hỏi lớn hơn thay vì đi tìm câu trả lời! Nhưng thiết nghĩ, qua Lời Chúa hôm nay, lời cầu nguyện chân thành của Chúa Giê-su dâng lên Thiên Chúa Cha; Ngài cảm tạ, tán tụng vì chương trình và ý định cao vời của Chúa Cha, và sau đó Ngài mời gọi mỗi chúng ta hãy đến với Ngài, học nơi Ngài sự hiền lành và lòng khiêm nhượng, sau cùng mang lấy ách của Ngài.
Trước hết, ‘đến với Chúa Giê-su’: “…hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức” (x. Mt 11, 28). Chúa mời gọi tất cả mọi người hãy tựa nương bình yên nơi Thánh Tâm Ngài. Khó nhọc, vất vả không chỉ về thể xác, mà cả về tinh thần và linh hồn nữa! Những ai đang mang gánh nặng đời, nặng gánh gia đình, gánh nặng tâm hồn, muộn phiền, đau buồn vì mất mát, tan thương, vì sự xung đột, chiến tranh hay vì sự hận thù, ghét ghen, thù hằn giữa các bộ tộc, sắc dân, v.v…Chúa mời gọi họ và tất cả chúng ta nữa, hãy đến dâng hết cho Ngài, và thầm thỉ với Ngài ‘Giê-su, con…(tên) đây!” Mỗi lần chúng ta chạy đến với Chúa với tất cả tấm lòng, nỗi niềm chân thành chất chứa sự tín thác thì Chúa thương đón nhận, ‘nâng đỡ, bổ sức’ (x. Mt 11, 28). Lúc ấy, chúng ta phần nào hiểu được lời nguyện của Chúa Giê-su (Mt 11, 25) “Thiên Chúa mạc khải cho những kẻ bé mọn…”, họ là những ai đặt niềm tin tưởng vào Chúa, thay vì quá tin vào bản thân; họ là những ai biết trông cậy vào Chúa, thay vì hy vọng vào trần thế chóng qua, điều lệ khập khiễng của xã hội vật chất; họ là những ai yêu mến, nhận lấy sự hướng dẫn của Chúa, thay vì ‘tôn thờ’ lí trí, sự hiểu biết giới hạn của con người, sùng bái sự khôn ngoan hư mất; họ là những người sống theo Thần Khí như Thánh Phao-lô nói một cách đanh thép: “anh chị em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh chị em” (x. Rm 8, 9).
Thứ đến, ‘học cùng Chúa Giê-su, và học nơi Chúa Giê-su’: “…vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (x. Mt 11, 29). Dẫu là Con Thiên Chúa làm người, nhưng Chúa Giê-su ‘đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế…’ (x. Phil 2, 6-7). Ngài hiền lành không từ chối một ai, đón nhận những người tội lỗi, chữa lành bệnh nhân, tật nguyền; Ngài chẳng hề xua đuổi ai đến với Ngài, kể cả những thành phần không được xã hội thời ấy ghi nhận như đàn bà, con trẻ, người goá bụa, người ngoại kiều…Sự diệu hiền của Ngài biểu lộ rõ nét qua lòng thương xót, cảm động đến rơi lệ của vị Vua tình yêu khi nhìn thấy sự đau khổ, bệnh tật, sự hất hủi của thần dân mọn hèn. Và hơn nữa, Ngài luôn khiêm nhường và khiêm nhu, ‘chậm bất bình, và rất mực khoan nhân’ (x. Tv 102, 8-9), cũng như lời tiên tri Da-ca-ri-a tuyên sấm về Ngài “kìa Ðức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Ðấng Chính Trực, Ðấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (x. Dcr 9, 9). Những ai khiêm tốn đích thật, những ai học tính khiêm nhường, khiêm nhu là người biết đặt Thiên Chúa nơi trung tâm đời sống của mình, thay vì đặt cái tôi to tướng làm tâm điểm cuộc đời! Những ai khiêm nhượng thật sự là người biết vị tha, hướng đến anh chị em, nghĩ cho anh chị em thay vì vị kỷ, chỉ biết sống cho bản thân, muốn người khác ‘xoay quanh trục cái tôi’ của mình! Chỉ có những ai học cùng Giê-su khiêm cung thì tâm hồn người ấy sẽ gặp được bình an (x. Mt 11, 29). Trở lại lời tán tụng của Chúa Giê-su dâng lên Chúa Cha “…vì Cha đã giấu, không cho những người hiền triết, khôn ngoan biết; ngược lại, Cha lại mạc khải cho kẻ bé mọn biết” (x. Mt 11, 25). Thiên Chúa không che giấu chương trình yêu thương của Người, và Người không phải là người nhỏ mọn, ích kỷ; nhưng tại sao những ai khôn ngoan, hiền triết lại không nhận ra ý định cao vời của Thiên Chúa? Thiết nghĩ, đó là vì sự kiêu căng, ngạo mạn, lòng tự cao tự đắc của họ đã ‘che’ mất, khiến họ không nhận ra kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa mà thôi. Trái lại, những người khiêm tốn đích thật (sống như Giê-su) là ‘kẻ bé mọn’ lại nhờ ân sủng bình an nơi tâm hồn, sự tín thác, tin tưởng của họ vào Thiên Chúa, giúp họ nhận ra và đón nhận ý định của Người.
Sau cùng ‘hãy mang lấy ách của Chúa Giê-su’: “…vì ách của Ta êm ái, và gánh của Ta nhẹ nhàng” (x. Mt 11, 30). Ở đây Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy mang lấy ách và gánh của Ngài, thay vì mang lấy ách nô lệ của sự đam mê, thú vui, thói đời, nhỏ nhen, ích kỷ, tội lỗi (hình ảnh cái ách: khi chúng ta muốn sử dụng con ngựa, trâu, bò, v.v…thì chúng ta dùng ách đặt lên cổ của nó), và nhận lấy gánh của Ngài, thay vì gánh gồng những muộn phiền, ưu hoài, não nề của sự lo lắng trần thế, hay gánh những chứa chất hiềm tị, hận thù, oán trách trong lòng! Những ai mang lấy ách của Chúa Giê-su và nhận lấy gánh của Ngài thì tâm hồn luôn thảnh thơi vì ‘ách của Ngài êm ái, gánh của Ngài nhẹ nhàng” (x. Mt 11, 30). Nếu chúng ta sống được như vậy thì quả thật như Thánh Phao-lô viết trong thư gửi giáo đoàn Rô-ma “chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động (xấu xa của) thân xác, thì anh em sẽ được sống” (x. Rm 8, 12-13). Thật vậy, khi chúng ta sống theo Thần Khí, chúng ta bỏ những ách tội đời, thói quen không tốt, tránh thú vui, đam mê, ước muốn mà thân xác mang lại. Và hơn nữa, đời sống thiêng liêng, cầu nguyện, hy sinh, hãm mình, bác ái sẽ giúp chúng ta chạy đến với Chúa Giê-su, học cùng với Ngài hiền lành, khiêm nhượng và nhận lấy ách êm ái, dịu hiền của Ngài.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể
Mỗi lần con đến dâng lễ tạ ơn,
Cho con suy gẫm hồng ân,
Năn chạy tới Chúa, ân cần nguyện xin.
Được nâng đỡ, mãi hy sinh
Học nơi gương Chúa, huyền linh diệu hiền.
Khiêm nhu, nhân hậu mãi liên
Xót thương, tha thứ, ngoan hiền, khoan dung.
Trọn đời mang ách thuỷ chung
Dịu ngọt êm ái, gánh cùng Giê-su. Amen!
44.Lòng khiêm hạ - Lm. Vũ Quốc Thịnh CSsR
Trang tin mừng thật ngắn mà chúng ta vừa nghe để lại một bài học dài, bài học lớn, bài học hay, bài học hết sức ý nghĩa của cuộc đời con người: "Anh em hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường". Bài học này quả là một bài học khó đối với mỗi người chúng ta vì lẽ chúng ta đã "lỡ" mang trong mình dòng máu của kiêu ngạo, của bất tuân từ ông bà nguyên tổ.
Nhìn một chút lại hình ảnh đẹp của vườn địa đàng ngày xưa chúng ta sẽ thấy chiều chiều gió thổi hiu hiu, Giavê Thiên Chúa cùng đi dạo với ông Ađam và bà Evà trong vườn Địa Đàng. Thiên Chúa yêu thương ông bà bằng một mối tình hết sức nồng thắm. Thiên Chúa chỉ có một điều quy ước với ông bà là đừng ăn cái trây ở cái cây giữa vườn. Thế nhưng, nghe lời xúi giục của con rắn hay nói đúng hơn phát xuất từ chính lòng kiêu ngạo của con người để rồi con người đã đánh mất đi tình nghĩa với Thiên Chúa và Thiên Chúa đã đuổi khỏi vườn Địa Đàng.
Cái máu kiêu ngạo của ông bà nguyên tổ hình như đã truyền vào máu mỗi người chúng ta để rồi bài học khiêm nhường mà Thiên Chúa dạy cho ông bà ở cái thời xa xưa ấy không hề vô giá trị mà rồi ngày hôm nay, Giêsu - Con Thiên Chúa - đã phải lập lại cái bài học quý báu ấy.
Chúa Giêsu - con Thiên Chúa - đã vâng phục Chúa Cha, vì yêu thương, vì muốn cứu con người khỏi sự hư mất do sự kiêu căng. Thánh Phaolô đã viết nên điều ấy trong thư của Ngài gửi tín hữu Philip:
"Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mëc lấy thân nô lệ
tở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế
Người lại còn hạ mình
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết
cết trên cây thập tự,
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu
trổi vượt muôn ngàn danh hiệu
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu,
cả trên trời dưới đất
và trong nơi âm phủ
muôn vật phải bái quý
và để tôn vinh Thiên Chúa Cha
mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
"Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Pl 2,6-11)
Thiên Chúa, là một vị Chúa, vậy mà Ngài đã trút bỏ vinh quang, Ngài trút bỏ địa vị của một vị Thiên Chúa và mặc lấy thân phận của Người tôi trung có sứ mạng cứu chuộc.
Ở vùng biển, người đi mò ngọc trai lặn xuống nước để tìm ngọc quý, có một kinh nghiệm đặc biệt. Anh cố lặn sâu xuống, nhưng nước lại đẩy anh lên. Chúng ta biết định luật Archimède về sức đẩy của nước từ dưới lên. Vật thể càng nặng, khối càng to, thì lượng nước tách ra càng lớn. Vì vậy, sức đẩy lên trên càng mạnh, như thể muốn đưa anh ta lên lại mặt nước. Nhưng anh vẫn cố lặn xuống vì sinh kế. Quả là vất vả. Nhưng anh sẽ vui mừng biết bao khi nhìn thấy hạt ngọc trong vỏ trai dưới đáy biển.
Việc tìm kiếm sự khiêm tốn cũng giống như việc tìm kiếm của người mò ngọc trai. Phải lặn xuống dưới, xuống mãi tới đáy, tới chỗ mà sự thật về con người của chúng ta nằm ở đó. Và cũng có một sức mạnh, mạnh hơn sức nước biển, sức mạnh của kiêu căng, tìm cách đẩy chúng ta trồi lên, đưa chúng ta lên trên chính mình và trên người khác. Thế nhưng hạt ngọc ở dưới đáy, nằm trong vỏ trai của tâm hồn ta, lại quá quý giá, khiến ta không bỏ cuộc, nếu không muốn thất bại.
Phải vượt qua khu vực ảo tưởng cho mình là lớn, để đi tới hữu thể đích thực của ta, con người thật của ta. Vì, như thánh Phanxicô Assisi nói, "con người trước mặt Thiên Chúa như thế nào, thì thực sự là thế ấy, không hơn"
Con người có hai cuộc đời, một cuộc đời thật, một cuộc đời tưởng tượng. Cuộc đời tưởng tượng xây dựng bằng ý kiến của mình hay dư luận của người khác. Chúng ta thường cố làm đẹp và gìn giữ con người tưởng tượng của ta, và làm ngơ với con người thật. Có được một nhân đức hay một công trạng nào, thì tìm hết cách này cách khác làm cho người ta biết đến, càng sớm càng tốt, để được ca ngợi, để trở thành có giá trước mặt người khác. Chúng ta dùng nhân đức hay công trạng đó để làm phong phú cho con người tưởng tượng của ta.
Thế nên, tìm kiếm sự khiêm tốn là tìm kiếm cho chính hữu thể, tìm kiếm sự trung thực. Đây là điều liên hệ đến con người nói chung, chứ không riêng gì cho người kitô hữu. Khiêm tốn là điều có tính cách nhân vi. Những từ la-tinh để chỉ về con người và khiêm tốn phát xuất từ một gốc có nghĩa là đất (humus). Con người được tạo dựng bởi đất, phải biết hạ mình xuống đất. Phải biết khiêm tốn.
Triết gia Nietzsche, người Đức, hăng hái đả kích luân lý kitô giáo, vì luân lý này rao giảng sự khiêm tốn. Ông đã đụng chạm đến một trong những ân huệ đẹp nhất mà luân lý kitô giáo đem đến cho thế giới.
Phần chúng ta, hãy tin tưởng vào người hướng dẫn bảo đảm nhất là lời Chúa. Nhờ quyền năng của Thần Khí, lời Chúa giúp ta trở thành những người mò ngọc trai. Chúng ta không thể và không muốn điều gì khác hơn là tìm viên ngọc quý trong vỏ trai.
Theo Thánh Phaolô, người nào hiểu khiêm tốn là sự thật, người đó là người khôn ngoan, biết chừng mực. Phaolô cũng khuyên các tín hữu đừng có một ý tưởng sai lầm và phóng đại về mình, phải biết đánh giá đúng về mình. Kiểu nói "hãy đánh giá mình cho đúng mức" cũng tương đương với kiểu nói "ham thích những gì hèn mọn". Qua đó, Thánh Phaolô muốn nói: người ta khôn khi khiêm tốn, và người ta khiêm tốn khi khôn. Biết hạ mình là tiến đến gần sự thật.
Thánh nữ Têrêxa Giêsu viết: "Một ngày nọ, tôi đã tự hỏi vì sao Chúa yêu thích sự khiêm tốn đến thế. Bất chợt, không cần suy nghĩ, tôi có ý tưởng này: đó là vì Ngài là Chân lý tối cao và vì sự khiêm tốn là chân lý". Vậy là thánh nữ cũng đi đến kết luận như Thánh Phaolô. Thiên Chúa đã thông truyền cho thánh nữ chân lý lời Ngài không bằng con đường chú giải suy luận, nhưng bằng con đường minh chiếu bên trong.
Kinh Thánh cho chúng ta thấy một mẫu gương tuyệt vời về sự khiêm tốn: Đức Maria. Trong lời kinh Magnificat, Đức Maria ca ngợi Thiên Chúa đã nhìn đến phận nữ tỳ hèn mọn. Khi nói về sự hèn mọn của mình, Người không có ý nói về sự khiêm nhường của mình đâu, nhưng là nói đến thân phận thực sự hèn mọn của mình, thuộc vào số những người hèn mọn nghèo khó trong Kinh Thánh. Việc Người minh nhiên nhắc đến bài ca của bà Anna, mẹ Samuel (1Sm 1,11), cho thấy điều đó (Đức Maria sử dụng cùng một từ có nghĩa là lầm than, son sẻ, thân phận thấp hèn). Chứ ở đây không phải Người ý thức về sự khiêm tốn của mình. Làm sao Người dám ca ngợi sự khiêm tốn của mình? Tự cho mình là khiêm tốn thì còn khiêm tốn nỗi gì? Đó là kiêu ngạo. Và làm sao ta dám nghĩ Người coi việc Thiên Chúa tuyển chọn mình là do mình khiêm tốn? Việc tuyển chọn hoàn toàn là do ý Thiên Chúa, là ơn nhưng không của Thiên Chúa, chứ đâu phải vì Mẹ khiêm tốn. Hơn nữa, nghĩ như thế là không hiểu được cả cuộc đời của Mẹ.
Đức Maria khiêm tốn trong cả cuộc đời, cho dù gặp bao nhiêu khó khăn thử thách. Ta có thể nhận ra điều này trong cách Người theo dõi con mình: yên lặng, xa xa vậy. Thậm chí không muốn đứng ở hàng đầu để nghe Đức Giêsu giảng cho dân, mà còn đứng ở ngoài nữa, đến nỗi phải nhờ người khác xin với Chúa để được gặp (Mt 12,46tt).
Dù là Mẹ Chúa, Đức Maria không coi việc ở gần Chúa như ở gần một kho tàng dành riêng cho mình. Người từ bỏ mình, nhận thân phận một nữ tỳ, giống mọi phụ nữ khác. Lời khuyên của Phaolô được áp dụng cách hoàn hảo nơi Mẹ. Mẹ không ước vọng những điều cao sang, chỉ hài lòng với những gì hèn mọn.
Chúng ta cũng có thể thấy sự khiêm tốn kiểu trên trong cuộc đời của nhiều vị thánh. Một hôm, có một người bạn hỏi Phanxicô Assisi xem làm sao mà mọi người đều chạy theo ngài, và muốn thấy ngài như vậy. Phanxicô trả lời: đó là vì Thiên Chúa không thấy ai xấu xa hơn ngài, không ai tội lỗi hơn ngài. Đấng thánh nghĩ rằng người ta tò mò muốn xem một tội nhân, nhưng dân chúng lại tò mò muốn xem một thánh nhân. Thánh Bênađô thì nói đơn sơ như sau: "Người thực sự khiêm tốn luôn muốn được coi là xấu xa, chứ không muốn được tuyên dương là khiêm tốn".
Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta thấy có cái gì đó không ổn. Tất cả mạng sống, của cải, tiền bạc, địa vị, danh vọng của chúng ta đều thuộc về Chúa. Chúa là chủ, chúng ta chỉ là người quản lý nhưng chúng ta lại đánh đổi cái vị trí tuyệt vời ấy. Chúng ta có cái gì đó giống giống ông bà nguyên tổ. Ông bà được Thiên Chúa mời gọi trông nom, quản lý, giữ gìn và Thiên Chúa ưu đãi nhưng không chịu. Muốn làm chủ Thiên Chúa nên đã gây ra biết bao nhiêu chuyện đổ nát trong hành trình đời người. Chúng ta là người quản lý, người đầy tớ của Chúa vậy mà chúng ta không biết, chúng ta đánh tráo vị trí ấy nên rồi cuộc đời của chúng ta cũng giống như cuộc đời của ông bà nguyên tổ. Suốt cuộc đời phải vất vả lầm than do sự cao ngạo của mình. Lời thánh vịnh 130 thật hay:
Lòng con chẳng dám tự cao
Mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi
Đường cao vọng chẳng đời nào bước
Việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu
Hồn con con vẫn trước sau
Giữ cho thinh lặng giữ sao an bình
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ
Trông con hồn lặng lẽ an vui
Cậy vào Chúa Israel ơi
Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm (Tv 130,1-3)
Vâng! Như Thánh Phaolô tông đồ nói có cái gì mà chúng ta không lãnh nhận từ Chúa đâu mà chúng ta vênh vang? Tốt hơn hết là chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta tâm tình khiêm hạ.
Khi và chỉ khi chúng ta nép mình vào lòng Chúa như trẻ thơ nép mình vào lòng mẹ chúng ta mới bình an thật sự. Nép mình vào vật chất, vào của cải, vào dục tình, vào địa vị đến một lúc nào đó chúng ta sẽ điên đảo, quay cuồng với vật chất, của cải, dục tình, địa vị và bi đát cuối cùng là chúng ta sẽ bị tất cả những thứ ấy đè bẹp cuộc đời chúng ta và chúng ta sẽ đánh mất đi ân phúc mà Thiên Chúa dành cho ta như thuở ban đầu Thiên Chúa dành cho ông bà nguyên tổ.
Một chuyện vô cùng nghịch lý mà chúng ta vui vẻ sống cái nghịch lý ấy giữa đời thường. Thử hỏi mỗi người chúng ta có thích sống với những người kiêu ngạo hay không? Vậy mà nhiều lần nhiều lúc vô thức hay hữu thức chúng ta lại cư xử một cách quá kiêu ngạo với anh chị em đồng loại. Chính từ sự kiêu ngạo, cái tôi qúa lớn của mỗi người chúng ta đã bây biết bao nhiêu tổn thương, bao nhiêu đổ nát cho anh chị em đồng loại. Chẳng nói gì xa đến anh chị em đồng loại, chúng ta thử xét ngay trong mái ấm, trong gia đình của chúng ta xem, chúng ta sống như thế nào, có khiêm hạ như Chúa, như Mẹ, như các thánh đã sống hay không? Hay là chúng ta lên mày lên mặt với những người kém may mắn hơn chúng ta?
Điều chúng ta không thích, chúng ta đừng làm cho người khác. Chúng ta không thích người khác kiêu ngạo với chúng ta thì chúng ta đừng kiêu ngạo với người khác.
Muốn như thế, không còn cách nào khác hơn cái cách mà Chúa mời gọi mỗi người chúng ta. Thật tuyệt vời, Chúa nói: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng..."
Cuộc đời của mỗi người chúng ta, ít nhiều trong chúng ta, ai ai cũng mang những gánh, những vác thật nặng nề để rồi nghe lời Chúa nói với chúng ta hôm nay, chúng ta lại hoàn toàn yên tâm đến với Chúa để chúng ta trút nhẹ gánh lo vào tay Chúa.
Chúa vẫn ở đó để chờ chúng ta, còn chúng ta thì sao?
Đó là câu trả lời của mỗi người chúng ta sau khi tham dự Thánh lễ, sau những lần cầu nguyện và nhất là những lần phải đối diện với những lo âu vất vả của cuộc đời.
Nguyện xin Chúa là thầy dạy lòng khiêm nhường đến và ở lại với mỗi người chúng ta để Ngài dạy chúng ta ngày mỗi ngày biết cách sống khiêm nhường hơn.
Xin Chúa giúp chúng ta sau những vất vả lo toan của cuộc đời không đi tìm nơi nào khác vì chỉ nơi Chúa chúng ta mới được nghỉ ngơi, được bồi dưỡng và được bình an đích thực.
45.Chúa Nhật 14 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)
Sức mạnh thực sự đến từ đâu? Từ tiền bạc-của cải, súng đạn-vũ khí, hay quyền lực? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay minh chứng cho chúng ta biết: Sức mạnh đích thực đến từ những hành động bác ái-yêu thương của những con người “hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Điều mà trong thực tế xã hội ngày nay hiếm và ít khi chúng ta bắt gặp. Tại sao lại như vậy? Dẫu biết rằng ai trong chúng ta cũng muốn trở nên những người hiền lành và khiêm nhường, nhưng để trở nên và sống đúng thì thật là khó? Tại sao vậy?
Lúc còn học tại Chủng viện bên Philippines, trong một lần đi mục vụ ở một nhà tù tại Manila, tôi có dịp gặp và trò chuyện với một thanh niên, nhìn khuôn mặt thì hiền lành, dễ thương. Nhưng khi nhìn thấy cánh tay và chân của anh, tôi giật mình vì những hình xăm, những vết sẹo lồi chằng chịt. Sau một hồi giới thiệu và nói chuyện, khi anh ta đã mở lòng, tôi liền hỏi, tại sao lại có những vết sẹo lớn dày đặc như vậy trên cả tay và chân, có đau không, sao lại có nhiều vậy…? Cậu ta bắt đầu rớm mắt và kể cho tôi; đó là sau những lần bị bạn tù ăn hiếp và đánh đập; để cho người ta khỏi làm vậy nữa, cậu bắt đầu lấy những vật nhọn, rạch tay chân mình, sau đó chà sát muối, ớt và giấm lên và khi vết thương lành thì sẽ nỗi sẹo lên, càng nhiều sẹo như vậy, thì các bạn khác sẽ không còn dám ăn hiếp và bắt nạt nữa. Còn chúng ta thì sao? Thực tế của chúng ta thế nào? Liệu chúng ta có muốn trở nên người có sức mạnh theo cách thế gian, hay “hiền lành và khiêm nhường” thực sự?
Bài đọc 1 nói cho chúng ta biết, có vị vua sẽ đến, ông sẽ giải phóng Gierusalem, từ đây sẽ không còn chiến tranh, bạo lực. Vị vua này lại là người công chính, vị vua khiêm tốn, đến ban ơn giải thoát và cứu độ. Hình ảnh vị vua cưỡi trên lưng lừa là hình ảnh không có trong thực tế; vì vua luôn trên chiến sa, trên voi, ngựa, với giáo mác và vũ khí. Nhưng hình ảnh vị vua này báo trước hình ảnh Đức Giêsu Kitô-Con Thiên Chúa. Vua Giêsu sau này đã trên lưng lừa vào thành Gierusalem để chịu khổ nạn và chịu chết, chết trên thập giá. Vị vua Giêsu này mời gọi những ai tin, chấp nhận, theo và sống như Ngài, thì được Ngài giải thoát khỏi ràng buộc của tội lỗi và sự chết, ban cho họ sức mạnh của tình yêu, để có cuộc sống bình an đích thực.
Trong bài đọc 2, Phaolo nhắc nhở cho chúng ta biết: có hai loại sức mạnh đến từ Thần khí và đến từ xác thịt-thế gian. Sức mạnh của Thần khí đem lại ơn cứu sống, bình an, ơn thánh cứu độ. Trong khi đó sức mạnh của xác thịt-thế gian gây nên hận thù, đau khổ, chia rẽ, hủy diệt và chết chóc. Qua cách sống cũng như sự khôn ngoan của Phaolo, mời gọi chúng ta, hãy sống theo sức mạnh của Thần khí, sức mạnh đến từ Đức Kitô Giêsu, Đấng đã vượt qua cuộc khổ nạn, cái chết, đã sống lại và ban Thánh thần cho chúng ta. Qua thư gởi cho tín hữu Roma này Phaolô cũng mời gọi chúng ta hãy sống cung cách hiền lành, khiêm nhường, công chính và sự thật. Thật là khó để cho chúng ta thực hiện được điều này, đặc biệt với những người đang vì đức tin, vì Chúa và vì Tin mừng mà bị bách hại, tù tội và ngay cả với cái chết. Thật vậy, chỉ có ai dám chọn Chúa, tin vào Chúa và sống theo sự hướng dẫn của Thần khí thì họ mới đủ sức để vượt qua tất cả mọi sự.
Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dâng lời chúc tụng tạ ơn Chúa Cha cho “những con người bé mọn”, đồng thời Ngài mời gọi những con người này “Hãy đến với Ta…khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ bổ sức cho các ngươi”. Vì chỉ có những con người phận nhỏ-bé mọn này mới dám chấp nhận Chúa Giêsu, tin Ngài và sống cho Ngài. Chấp nhận Chúa Giêsu là vị Vua của họ, vị Vua hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Khi tin và chấp nhận họ tiến bước theo con đường của tình yêu, tha thứ, hòa giải và ban ơn.
Thưa ACE, vậy chúng ta có chọn Chúa và theo đường lối của Ngài, hay chúng ta vẫn cứ chọn theo cách và đường lối của chúng ta? Lời Chúa và sự khôn ngoan của thần khí đã hướng dẫn cho chúng ta, chuyện còn lại là sự lựa chọn của chúng ta. Chắc chắn khi lựa chọn và theo Chúa, không bảo đảm cho chúng ta khỏi những đau khổ. Nên Chúa đã mời gọi chúng ta hãy chạy đến với Ngài để được nâng đỡ, bổ dưỡng, và ban cho sức mạnh. Thật vậy, khi chúng ta đến với Chúa qua cầu nguyện, qua các bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và Thánh thể, chúng ta thực sự sẽ được sức mạnh và ơn Thánh. Xin cho mỗi người chúng ta biết cam đảm để chọn Chúa, tin vào Chúa và vâng theo những đường lối, thánh ý Ngài trong suốt cuộc sống chúng ta. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam