Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 39

Tổng truy cập: 1363813

KHI SỐNG LẠI, NGƯỜI TA KHÔNG CÒN DỰNG VỢ GẢ CHỒNG NỮA.

KHI SỐNG LẠI, NGƯỜI TA KHÔNG CÒN DỰNG VỢ GẢ CHỒNG NỮA.

 

Cách đây ít lâu, trong giờ giáo lý về đề tài “Tứ chung, những sự cuối cùng,” dành cho các anh chị sắp theo Đạo… Tôi giật mình khi có một chị giơ tay phát biểu: “Em không tin.” Chả là hôm đó đang nói về đề tài: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”… nên phát biểu “Em không tin” tức là “Em không tin có sự sống lại”.

Không phải chỉ có cô học viên đó mà cả tỉ người hiện nay cũng chẳng tin. Mà không chỉ thời nay, thời đại khoa học kỹ thuật, mà thời xưa, thời Đức Giêsu, cũng đã có không ít người chẳng tin, trong đó có phái Sađốc mà hôm nay Luca ghi lại cho chúng ta hay. Tin xác loài người ngày sau sống lại là một niềm tin khó nuốt nhất của Kitô giáo, của Đạo chúng ta.

Bởi vì nếu tin xác loài người sẽ sống lại, thì cả nghìn câu hỏi sẽ đặt ra mà không giải đáp: Sống lại tất cả chỗ đâu mà ở? Lấy gì mà sống? Lấy xác nào mà sống lại: xác ông già nếu mình chết lúc già, xác trẻ thơ nếu mình chết khi còn măng sữa, xác xồn xồn nếu mình tắt thở tuổi trung niên, hay là xác nào? Hoặc xác không còn một tí gì nữa: hoả thiêu rồi, trở thành bụi mùn theo thiên niên kỷ, hoặc vung vãi tứ tung không thu được thì lấy xác nào mà sống lại? Và khi sống lại rồi như vậy chuyện vợ chồng xưa sẽ ra làm sao? Đúng là cả trăm câu hỏi. Chỉ xin dừng lại ở câu hỏi cuối phù hợp với bài Tin Mừng hôm nay: khi sống lại chuyện cưới vợ gả chồng sẽ thế nào – nếu như người Sađốc đặt vấn nạn cho Chúa: một bà kia lần lượt lấy 7 anh em ruột. Khi sống lại, bà là vợ của ai, vợ anh cả hay vợ của em út?

Cũng phải cám ơn phái Sadoc vì nhờ một hạch hỏi có vẻ không tưởng của họ: 7 anh em ruột phải lấy một vợ, mà ta có được câu trả lời là bài dạy duy nhất của Chúa Giêsu về sự sống lại sẽ thế nào.

Một vài lần Đức Giêsu có nói về sống lại: Ta là sự Sống lại. Nhưng sống lại sẽ thế nào, thì đây là bài dạy duy nhất của Chúa Giêsu trả lời cho bè Sadoc: khi sống lại không còn dựng vợ gả chồng nữa.

Câu trả lời đầy đủ của Chúa Giêsu là: Con cái đời này mới cưới vợ lấy chồng, chứ những ai xét là xứng đáng hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ lấy chồng nữa, vì họ giống như các thiên thần. Họ là con cái của sự sống lại.

Từ câu trả lời của Chúa, ta thử đặt thành 2 vế:

1. Tại sao khi sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa? Chúa Giêsu đưa ra 2 lý do:

a) Vì họ không chết nữa. Tai sao không chết lại liên quan tới chuyện hôn nhân? Vì hôn nhân là nhằm sinh con đẻ cái, một hành động kéo dài cuộc sống của mình. Khi mình chết đi thì sự sống của mình sẽ nằm nơi con cái. Nói cách khác, sinh con đẻ cái, cha truyền con nối là muốn mình được sống mãi trong con cái. Bố họ Nguyễn con họ Nguyễn cháu nội họ Nguyễn chắt nội họ Nguyễn, Bố là Ken-nơ-đy, con là Kennedy, cháu cũng Kennedy…. Có con cái thì chết mà vẫn sống.

Vậy khi sống lại, không còn chết nữa thì chẳng cần gì phải kéo dài sự sống nơi con cái, do đó chẳng có chuyện hôn nhân nữa. Nhưng lý lẽ này ít thuyết phục được ai, nên Chúa Giêsu đưa thêm một lý lẽ nữa, đó là:

b) Khi sống lại người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa, vì người ta sống như các thiên thần. Chúng ta giải thích thêm: Chúa nói: khi sống lại, người ta sống tựa như các thiên thần.

Chữ “như” ở đây không phải là giống hệt đâu. Bởi vì thiên thần là loài thiêng liêng – và chỉ thiêng liêng mà thôi. Còn con người là thiêng liêng và cả xác thể nữa, dù cho xác đó là xác phục sinh. Con người sống lại vẫn khác thiên thần. Vì thế chữ NHƯ mà Chúa Giêsu nói nhằm đến công việc: như các thiên thần, nghĩa là chẳng còn mải lo chuyện gì khác ngoài việc phụng sự tán dương yêu mến Chúa. Do đó cũng chẳng còn lo chi đến chuyện cưới gả chồng con vợ cái. Để hoá giải những thắc mắc mà trong phần đầu chúng ta đề ra: nào là chỗ đâu mà ở, lấy gì mà sống, hồn nhập xác nào đây, xác Mỹ hay xác Việt, xác già hay trẻ, xác gãy chân cụt tay hay xác lành lặn tươi tốt hay đã tiêu tán ra ma, lấy gì mà nhập lại, thì chữ “như” các thiên thần trong câu trả lời của Chúa giúp ta thảnh thơi.

“Như” có nghĩa là tựa tựa, hao hao. Thiên thần là loài thiêng liêng, sáng láng. Ta sống lại cũng hao hao sáng láng như vậy. Đến đây ta nghe các nhà khoa học – mà là khoa học cao cấp: khoa học nguyên tử lên tiếng về xác sống lại: Họ nói: chuyện xác sống lại không phải là chuyện khó tin vì vật chất và ánh sang có họ gần với nhau.

Khi đạt đến một điều kiện nào đó thì vật chất biến thành ánh sáng (đây là khởi điểm của bom nguyên tử và ánh sáng kết tinh lại là vật chất).

Vậy tại sao chúng ta lại ngạc nhiên, lại khó tin khi theo chương trình của Tạo Hoá: thân xác vật chất của chúng ta sẽ biến thành ánh sáng. Nếu uranium, plutonium huỷ đi, phải vỡ nguyên tử nó ra thì mới biến thành sức nóng năng lượng ánh sáng chói loà được, thì thân xác của chúng ta cũng phải chết đi, huỷ ra, tan ra, mới trở thành thân xác sáng láng vinh quang được. Chúa Giêsu và thánh Phaolô đã lấy hình ảnh hạt lúa để so sánh với sự sống lại. Hạt lúa có chết đi có huỷ tan mới nảy sinh cây lúa.

Vậy chẳng có gì khó tin khi đến một ngày nào đó thân xác tan rã của chúng ta biến thành thân xác sáng láng tựa như thiên thần.

Ta đã bước vào tín điều khó nuốt nhất: xác loài người sống lại. Nếu xác sống lại cũng giống như xác bây giờ, cũng ăn cũng ngủ cũng lập gia đình… thì quả khó tin; nhưng nếu là xác sáng láng thì lại được, khả tín, có thể tin.

2. Vế thứ hai là vế ngược lại. Từ câu trả lời của Chúa ta mở ra một góc cạnh khác. Nếu khi sống lại trên thiên quốc, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa, thì khi đang sống tại trần gian, những người không lấy vợ lấy chồng, họ là ai? Thưa họ là những người sống trước, những người tiên báo cuộc sống phục sinh mai sau. Đó chính là các tu sĩ với lời khấn khiết tịnh, các linh mục với lời hứa độc thân. Cuộc sống của họ minh chứng và tiên báo cho sự sống lại mai sau. Nhưng ngoài họ ra, tất cả những ai đang sống độc thân, tự nguyện hay do cảnh ngộ, những người không lấy ai, hay chẳng ai lấy, những người ở vậy nuôi con và những người không đi bước nữa, họ cũng cách này cách khác sống trước mầu nhiệm phục sinh. Tất cả đều có thể là dấu chỉ cho sự phục sinh mai sau. Vì khi thân xác sống lại, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa. Amen.

Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM

 

42.Mất hết cả đời người!

(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)

Lc 20: 27. 34-38: Còn sống trên trần gian, chúng ta hãy tín thác vào Thiên Chúa hằng sống. Ngài luôn yêu thương chúng ta và muốn cho tất cả chúng ta, ngày sau sẽ được sống với Ngài mãi mãi.

Chiều hôm ấy, một nhà bác học đứng trên bãi biển thấy nước phẳng lặng, trời trong veo, ông liền gọi một ngư phủ lấy thuyền chèo đưa ông ra khơi. Hai người cùng trò chuyện: Nhà bác học hỏi người chèo thuyền có biết đọc không? Người chèo thuyền trả lời: “Không”.

Nhà bác học nói: “Vậy thì anh mất hết nửa đời người rồi, uổng quá! Vì biết đọc sách, người ta sẽ tiếp thu được biết bao điều hay, học thêm được bao nhiêu điều mới l”.

Rồi ông bắt đầu kể cho người ngư phủ: nào là lòng sâu của biển cả, nào là tuổi đời cũng như độ bơi của bao nhiêu loài cá. Người ngư phủ thích thú lắng tai nghe. Nhưng kìa, trên vòm trời xanh thấy điểm nhiều mây đen tđâu bay đến, rồi từng cơn gió mạnh quấy động mặt nước, biển nổi sóng. Gió càng thổi mạnh, mây càng hạ thấp. Người ngư phđâm ra lo sợ và báo cho nhà bác học hay một cơn giông tố sắp xảy đến. Nói chưa dứt thì một làn sóng mạnh đã lật úp chiếc thuyền nan của hai người. Người ngư phủ lớn tiếng hỏi nhà bác học: - “Thưa ông, ông có biết bơi không?” – “Tôi không biết bơi”, nhà bác học trả lời.

- “Thưa ông, thế thì ông mất hết cđời người rồi!”

Người ngư phủ lại hỏi thêm: - “Thưa ông, ông có tin đời sau không?”

Nhà bác học vừa lặn hụp chóng chọi dưới làn sóng vừa trả lời: - “Đời sau là cái gì. Im đi! Để ta chết!”

Nhưng người ngư phủ lại nói thêm: “Thưa ông, thế thì ông chẳng những mất cđời nầy mà còn mất cđời sau nữa. Thật vô phúc cho ông!” Một cơn sóng lớn đã cuốn hút nhà bác học vào lòng sâu biển cả.

Thưa anh chị em,

Đời như ví như cuộc vượt biển trùng khơi: có khi phẳng lặng, có khi đầy sóng gió. Trong cuộc đời ấy, có người tin rằng: sau cuộc đời dương thế còn có cuộc đời mai sau. Nhà bác học trong câu chuyện trên đây cũng như những người theo pháo Sađốc trong Tin Mừng hôm nay đại diện cho hạng người không tin có cuộc sống đời sau. Còn người ngư phủ đại diện cho hạng người tin có cuộc sống bên kia cái chết, trong đó có chúng ta.

Chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Đó là tột đỉnh của niềmhy vọng mà Chúa Kitô đem lại cho chúng ta. Vì nếu không có sự sống lại và cuộc sống đời sau thì tất cả đời người đều vô nghĩa.

Hầu hết các tôn giáo đều nghĩ rằng: chết chưa phải là hết. Con người sau khi chết sẽ được đưa sang một thế giới khác, hoặc được dẫn đến một nơi khác để tiếp tục sống. Nhưng đời sau, đối với họ, là đêm tối, buồn thảm và không có gì hấp dẫn cả. Lý do là vì đó là thế giới của sự chết, của âm phủ.

Các tôn giáo khác có thể tin có sự sống đời sau, nhưng không có tôn giáo nào nói đến sự phục sinh của người chết như kitô giáo. Ngay cả Do Thái giáo, niềm tin vào sự phục sinh của người chết cũng không dứt khoát rõ ràng. Bài đọc I hôm nay trích sách Maccabêô đã nói lên niềm tin nầy: Anh em Maccabêô đã thưa với nhà vua đang định giết hại họ: “Vua chỉ cất mạng sống chúng tôi ở đời nầy, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi là những kẻ đã chết vì lề luật của Ngài, được sống lại trong cuộc sống đời đời ”. Vào thời Chúa Giêsu, người Biệt phái cũng tin như vậy. Nhưng những người thuộc phái Sađốc lại không tin có sự sống lại. Chẳng những không tin mà họ còn chế nhạo những ai tin thân xác con người ngày sau sẽ sống lại. Vì vậy, hôm nay họ kéo đến chất vấn Chúa Giêsu để “chọc quê” Ngài. Vì nếu có sự sống lại của kẻ chết thì sau này một người đàn bàn đã lần lượt lấy bảy anh em làm chồng theo luật pháp, sẽ là vợ của ai? Chúa Giêsu đã giải đáp bằng cách cho họ biết rằng cuộc sống sau phục sinh không phải là một sự tái diễn của cuộc sống trên trần gian. Thân xác phục sinh sẽ là một thân xác được biến đổi, không còn đau ốm bệnh tật, không còn già cả và chết chóc nữa. Những người phục sinh sẽ giống như các thiên thần, không còn cần phải cưới vợ lấy chồng để có con cái nối dõi tông đường nữa.

Chúa Giêsu còn dựa vào Ngũ Thư để chứng minh rằng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là Chúa của kẻ sống. Nếu Thiên Chúa đã là Thiên Chúa của các Tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop thì các Tổ phục là những người đang sống với Chúa, đang có sự sống lại. Ở đây, Chúa Giêsu đã không tả rõ sự sống lại như thế nào. Điều ngài muốn khẳng định ở đây, đó là “Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống”. Và trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu qua những lời giảng dạy và nhất là qua thái độ của Ngài, Chúa Giêsu đã muốn cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa là Đấng ban sự sống, Đấng làm cho sống. Và ngay cả những người tội lỗi, Ngài cũng không muốn họ phải hư mất, trái lại, muốn họ hối cải để được sống và sốn một cách dồi dào. Những phép lạ chữa bênh hay làm cho kẻ chết sống lại của Chúa Giêsu là những dấu chỉ về một Thiên Chúa yêu chuộng sự sống. Và khi Chúa Giêsu đón nhận cái chết trên thập giá, đó cũng là để toàn thắng cái chết, và để trả lại cho loài người sự sống đời đời. Chỉ có căn cứ vào những gì chúng ta biết về Chúa Kitô Phục Sinh, chúng ta mới thấy rõ về cuộc sống của chúng ta sau khi chết. Chúng ta sẽ được sống lại với Ngài.

Chính vì Chúa Kitô đã sống lại mà chúng ta xác tín vào sự phục sinh của những người đã chết. “Thiên Chúa của các Tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop là Thiên Chúa của kẻ sống”. Những người mà chúng ta gọi là đã chết là những người đang sống và sẽ sống đời đời với Thiên Chúa hằng sống. Chối bỏ sự sống lại của những người đã chết là chối bỏ Thiên Chúa hằng sống và chân thật.

Anh chị em thân mến,

Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Một lời đầy an ủi cho tất cả chúng ta. Đừng thất vọng trước cái chết của một người Kitô hữu, của những người thân yêu chúng ta. Sự chia ly chỉ có trong một thời gian và tất cả sẽ gặp lại nhau. Lúc đó, chúng ta sẽ thấy một tình trạng mới của những người con Chúa là được giống như các thiên thần và nhất là nên giống Chúa Kitô trong vinh quang phục sinh.

Còn sống trên trần gian, chúng ta hãy tín thác vào Thiên Chúa hằng sống. Ngài luôn yêu thương chúng ta và muốn cho tất cả chúng ta, ngày sau sẽ được sống với Ngài mãi mãi. Ngay bây giờ, hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa bằng một đời sống tốt đẹp hơn, tin tưởng và hy vọng vào Đấng sẽ phục sinh chúng ta trong cuộc sống hạnh phúc đời đời.

“Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Amen.

 

43.Can đảm - McCarthy

Có hai loại can đảm. Loại thứ nhất ồn ào, giận dữ và quyết đoán và liên kết với những nơi như bãi chiến trường. Loại thứ hai im lặng, trong sáng và không quyết đoán. Tuy nhiên, nó hoàn toàn không khuất phục và không để nghiêng ngả theo những lời mua chuộc nào cũng như những lời đe dọa khủng khiếp nhất.

Chúng ta thấy một gương sáng của loại can đảm thứ hai trong câu chuyện người mẹ và bảy người con trai. Nhưng có những ví dụ gần với thời đại của chúng ta. Biến cố sau đây đã xảy ra trong một khu Do thái Đông Âu trong thế chiến thứ hai.

Nhà cầm quyền Đức chđịnh một người có tên là Ephraim vào chức vụ chủ tịch Hội đồng Do thái. Một ngày kia, họ yêu cầu Ephraim ra đi và suy nghĩ vđiều ấy. Cuối cùng, ông trở lại và trình một danh sách cho nhà cầm quyền Đức. Khi họ xem xét danh sách, thay vì thấy ba mươi tên người, họ thấy một tên người nhưng viết làm ba mươi lần. Đó chính là cái tên Ephraim.

Ephraim biết rằng khi làm điều đó, ông đã ký án tử hình cho mình. Tuy nhiên ông đã từ chối phản bội bất kỳ anh chị em nào của mình, trước sự can đảm như thế người ta cảm thấy nghèo nàn.

Chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng sợ hãi và can đảm loại trừ nhau. Nhưng không phải thế. Lòng can đảm không phải là luôn luôn không sợ hãi. Nó sợ hãi và vượt qua sợ hãi, hoặc tiến hành bất chấp sợ hãi. Nelson Mandella nói: “Tôi học được ý nghĩa của lòng can đảm từ các bạn của tôi trong chiến đấu. Nhiều lần, tôi đã thấy những người đàn ông và đàn bà chứng tỏ một sức mạnh và sự hồi phục thách thức trí tưởng tượng. Tôi đã hiểu rằng lòng can đảm không phải là sự vắng mặt nỗi sợ hãi mà là chiến thắng nó. Người can đảm không phải là người không cảm thấy sợ hãi, nhưng là người thắng nỗi sợ hãi ấy”.

Xác tín mình đang làm điều phải sẽ cho chúng ta một sức mạnh to lớn. Chúng ta hành động vì điều thiện hảo sâu xa nhất ở trong chúng ta – vì hình ảnh của Thiên Chúa trong lòng chúng ta.

Như thế, lòng can đảm là một nhân đức quan trọng bởi vì không có nó, bạn không thể kiên trì thực hành một nhân đức nào khác. Tuy nhiên, thế giới không cần có quá nhiều điều này trong đời sống mỗi ngày của nhiều người khi chúng ta nghĩ đến những nỗi đau khổ mà họ chịu đựng và những nhọc nhằn mà họ gánh vác. Lòng can đảm không to tát như khi leo núi cho bằng khi chấp nhận thất bại mà không mất tinh thần.

Mỗi Chúa nhật, chúng ta kết thúc kinh tin kính với những lời: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”. Tin vào đời sau là một trong những niềm tin quan trọng nhất của Kitô chúng ta. Không có đời sau, đời sống chúng ta trên trần gian này là một cuộc hành trình không dẫn đến một nơi nào cả. Với đời sau, đời sống chúng ta trên trần gian là một cuộc hành trình đến miền đất hứa của đời sống vĩnh cửu.

Hy vọng là một phần quan trọng của đời sống. Nếu cơ thể cần có lương thực, thì tinh thần cần có hy vọng. Chúng ta dành phần lớn cuộc đời mình để chờ mong, hy vọng và khát khao một điều này hoặc điều khác. Nhưng chúng ta biết rằng thế gian này không bao giờ có thể làm đầy những hy vọng và khát khao sâu thẳm nhất của chúng ta. Chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được điều ấy.

Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta không phải để chết mà để sống đời đời: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Viễn cảnh rực rỡ của sự sống vĩnh cửu phải làm cho chúng ta có thể sống vui vẻ mầu nhiệm thân phận mỏng giòn của con người vì nó nằm lơ lửng giữa đất và trời, giữa thời gian và vĩnh cửu, giữa hư vô và vô tận.

 

44.Vĩnh cửu - McCarthy

Chúng ta có thể dùng lý trí để biện luận rằng có đời sau. Nhưng những người đã làm chứng không phải bằng lời mà bằng công nghiệp và một đôi khi bằng cuộc sống của họ là những luận cứ tốt nhất. Đó là những vị tử đạo, bằng việc làm cho Thần Khí các ngài đã chứng tỏ rằng sự sống mạnh mẽ hơn sức mạnh của cái chết. Chúng ta nghĩ đến bà mẹ và bảy con trai của bà (Bài đọc 1). Nhưng có những tấm gương gần với thời đại chúng ta hơn.

Vào tháng 5 năm 1992, báo Observer đăng lại câu chuyện sau đây. Ba mươi nữ tu của Giáo Hội chính thống Nga bị Stalin giam giữ năm 1929 trong một nơi trước kia là tu viện của đảo Solovetsky trên bờ biển bắc của nước Nga. Như mọi tù nhân của các trại giam, người ta buộc các nữ tu phải lao động. Nhưng các nữ tu ấy cương quyết từ chối làm lao động và giải thích rằng họ không thđồng ý “lao động cho những nhân viên của tên chống Kitô” (Antichrist).

Ban quản lý trại giam đã phản ứng nghiêm khắc. Nếu người ta không được y tế xác nhận không có khả năng lao động thì người từ chối lao động sẽ bđánh đập và bđưa đến một hòn đảo trừng trị mà không một ai còn sống để trở về.

Tuy nhiên, thật lạ lùng chính quyền trại giam dường như không muốn áp dụng sự trừng phạt ấy cho các nữ tu. Người đứng đầu bệnh xá của trại giam bối rối trước thái độ của các nữ tu. Dưới mắt ông, họ là những “tù nhân khó khăn”. Tuy nhiên thái độ của họ không giống những “tù nhân khó khăn” mà ông vẫn gặp. Thay vì kêu gào, la hét, các nữ tu chỉ bày tỏ sđơn sơ, khiêm tốn và nhân từ.

Cảm thấy tiếc xót cho các chị ông yêu cầu một bác sĩ xác nhận các nữ tu không có khả năng lao động. Bác sĩ cũng là một tù nhân rất cảm kích trước các nữ tu, các chị bình tĩnh và tự chủ, ăn mặc chỉnh tề sạch sẽ. Khuôn mặt các chị tỏa ra một sự thanh khiết của tinh thần khiến người ta ngạc nhiên và sinh ra lòng tôn trọng sâu xa.

Bác sĩ cố thuyết phục các chị lao động, ông kể ra những gương lao động của các Kitô hữu khác. Khi thấy các chị không bị lay chuyển, ông nói ông sẽ nghĩ ra một bệnh nào đó cho các chị và tuyên bố các chị không có khả năng lao động. “Chúng tôi xin lỗi,”một nữ tu ngắt lời, “điều đó không đúng, chúng tôi mạnh khỏe. Chúng tôi có thể lao động. Nhưng chúng tôi không muốn lao động cho kẻ chống Kitô “.

Bác sĩ đã giải thích rằng các chị sẽ bị tra tấn và giết chết. “Thiên Chúa cũng sẽ giúp đỡ chúng tôi chịu đựng sự tra tấn,” một chị nữ tu bình thản đáp lại. Nhiều năm về sau, người bác sĩ ấy viết: “Nước mắt tôi trào ra. Tôi cúi đầu nhượng bộ các chị trong sự im lặng. Tôi đã muốn hôn bàn chân các ch”.

Ít lâu sau, các chđồng ý may mền bông cho bệnh xá vì người ta cho phép các chị hát thánh thi nho nhỏ trong lúc làm việc. Tuy nhiên, một linh mục đến trại và nói với các chị rằng làm bất cứ việc gì cho các “nhân viên của kẻ chống Chúa” là sai lầm. Vì thế các chị từ chối lao động. Người ta lôi vị linh mục ra ngoài và bắn chết. Không bao lâu sau, các nữ tu cũng chịu chung một số phận.

Các nữ tu tỏ ra không lưỡng lự hoặc hoài nghi hoặc dao động. Nhưng điều đó không có nghĩa việc các chị làm là dễ. Mọi người đều thích sống. Các chị cũng thích sống nhưng không có nghĩa là bám lấy nó bằng mọi giá. Đối với họ, sự sống thật là sự sống muôn đời. Đức tin vào sự sống vĩnh cửu làm cho họ có thể hy sinh đời sống trần gian vì Đức Kitô.

Các nữ tu ấy, tín thác vào Thiên Chúa. Bà mẹ và bảy người con trai cũng đã làm thế. Chúng ta không làm gì hơn là noi gương tín thác Thiên Chúa của họ. Phaolô nói rằng chúng ta có niềm hy vọng chắc chắn. Niềm hy vọng này không bởi chính chúng ta mà bởi Thiên Chúa. Người là Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta là con cái Người. Người tạo dựng chúng ta để sống ở đây và sau này. Viễn cảnh rực rỡ ấy làm chúng ta có thể trân trọng sự sống mà không bám lấy nó. Và nó khuyến khích chúng ta sống một đời sống ngay lành.

 

45.Vấn đề đời sau - R. Gutzwiller

Sau vấn đề quyền bính và luân lý, đối phương tấn công vào mặt giáo lý.

Cần nói ngay, đặt vấn đề như vậy có phần hợp lý. Mỗi lần bắt bẻ, đối phương đều đưa ra một vấn đề có căn cơ. Sự sống lại là một trong những điểm dị biệt quan trọng giữa nhóm Biệt phái và Sađốc. Nhóm Sađốc không tin có sự sống lại. đối với họ, chết là hết. Các tư tế phái Sađốc không đặt lại vấn đề tìm hiểu lập trường của Đức Giêsu về giáo thuyết này. Họ thừa biết Đức Giêsu nói nhiều về đời sau và nhất là về chung cuộc thế giới. Nhưng phải chăng Người là một vị Cứu thế không có sứ mạng gì ở đời này? Niềm hy vọng vào thế giới bên kia, đối với họ, đã chứng tỏ Đức Giêsu không phải là Đấng Xức Dầu của Thiên Chúa.

Vấn đề đời sau có một tầm quan yếu sinh tử đối với toàn thể nhân loại. Thực vậy, nếu không có đời sau, thì con người chỉ có một đường lối duy nhất là tự tạo một cuộc đời trần thế cho thực đẹp, thực hoàn mỹ, sống cho trường thọ và hưởng thụ hết mình. Mọi hy vọng về đời sau sẽ chỉ là ảo mộng và cuối cùng sẽ chuốc lấy thất vọng ê chề. Nhưng nếu có đời sau, thì sự việc sẽ đảo ngược lại, cuộc đời hiện tại chỉ là tạm bợ, là giai đoạn chuẩn bị. Mọi cái đều trông vào lá bài quyết định: tất cả phải quy hướng về đời sau. Tóm lại thái độ của chúng ta tuỳ thuộc vào niềm tin có đời sau hay không. Vấn đề đặt ra không những chính đáng mà còn là vấn đề cơ bản. Tuy nhiên, người Sađốc đặt vấn nạn dưới một điển tích thật buồn cười. Họ tìm được một điểm phi lý, nhưng quá chi li trong niềm tin về sự sống lại. Theo luật Môsê, một người đàn bà goá mà không có con phải kết hôn với em chồng để duy trì giòng dõi cho anh quá cố. Cho nên nhóm Sađốc bèn nghĩ ra một vụ có người đàn bà kết hôn tới 7 lần và sau cùng chính nàng cũng chết. Ở thế giới bên kia, nàng sẽ chung sống với ai? Đặt vấn đề như thế là chưa nói lên đúng trọng tâm của vấn đề ấy là chưa kể vấn đề đó không tưởng. Giải-nghi-học (casuitique) cũng là chuyện hợp lý thôi vì lẽ các nguyên tắc luân lý tổng quát luôn phải được ứng dụng để giải quyết những vấn đề trong hoàn cảnh cụ thể và cuộc sống lúc thế này lúc thế khác. Đó là một chuyện tốt. Nhưng cũng có những nguy cơ: có thể làm mất sự trọng kính chân thực tinh thần của Thiên Chúa. Điều gì cũng đem ra suy tư với lý luận. Người ta tìm những kẽ hở kín đáo và lợi dụng sự tinh tế của luật mà đưa ra những giải pháp không những không phù hợp với chủ đích của lời Chúa mà còn dễ sinh ra sự khinh mạn Lề Luật. Học hỏi lề luật là điều tốt, nhưng nó có thể giảm bớt lòng khiêm nhu tuân phục thánh ý Thiên Chúa.

Ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu tin có đời sau hay không, đối với nhóm Sađốc, đó là điều không quan hệ. Điều họ muốn ấy là lấy một trường hợp lắt léo để làm đầu đề chế nhạo giáo lý về đời sau, và chính Người giảng dạy giáo lý đó nữa: Đức Giêsu.

Đức Giêsu trả lời. Trước tiên Người cho họ biết trường hợp họ đặt ra đó và thái độ của họ chỉ hoàn toàn là chuyện bên lề. Đời sau là một thực tại, nhưng lại rất khác đời này. Nơi cao xanh, tất cả đều biến đổi: không còn cưới hỏi gì nữa. Chúng ta chẳng thể biết liên hệ ra sao giữa vợ với chồng nữa. Không nên lấy tiêu chuẩn thế trần mà xét đoán đời sau. Vốn liếng tư tưởng của con người không có đủ năng lực để diễn tả Thiên Chúa và thế giới siêu nhiên, dù chỉ là tối thiểu. Mọi sự đều khác, lý do dễ hiểu: khi đó Thiên Chúa vô biên sẽ hiển hiện trong vinh quang và vạn sự đều mờ khuất trước ánh quang sán lạn của Người. Ở đời này con người còn có một chút giá trị vì Thiên Chúa chưa hiển hiện. Nhưng ở đời sau Thiên Chúa là vấn đề duy nhất và mọi sự khác hoàn toàn chỉ phụ thuộc. Vấn nạn của nhóm Sađốc bắt nguồn từ cách trình bày sai lầm tự căn bản quan niệm thấp hèn. Nó không dính dáng gì đến niềm tin tưởng ở cuộc đời mai hậu, nhưng là do ý niệm quá ấu trĩ và trần tục của họ. Lần này, Đức Giêsu cũng lại phá tan mưu mô xảo quyệt của đối phương và còn cho họ thấy sự cao cả và vô biên của Thiên Chúa. Sau đó Người xác nhận rằng đời sau có thực với lý chứng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng sống động, Người đã tác tạo sự sống và không nỡ để sự sống biến dần thành hư vô nhưng Người duy trì sự sống qua việc hồi kẻ chết và ban phát sự sống trường cửu. Khi nói Thiên Chúa của Ápraham, của Isaác và của Giacóp, Kinh Thánh không chỉ có ý gợi lại các biến cố thời quá khứ và những nhân vật đã qua rồi: Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết. Vì đó Ápraham, Isaac và Giacóp hiện nay đang sống. Các Ngài sống ở thế giới bên kia vì Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, đã ban sự sống cho các Ngài tồn tại. Niềm tin chân chính vào Thiên Chúa đi đôi với niềm tin bất tử và sự khác biệt giữa cõi đời hiện tại với thế giới mai sau. Chỉ có ở trước nhan Thiên Chúa hằng sống mới tìm được giải đáp đúng đắn cho vấn đề này: giải đáp không phải của phàm nhân mà là của Thiên Chúa. Như vậy là hai lần bắt bẻ của đối phương đều bị phá vỡ cùng một kiểu cách: chính Thiên Chúa làm họ phải bẽ mặt.

 

46.Kẻ chết sống lại

(Suy niệm và Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

1. Trong đoạn trước, Chúa Giêsu đã làm bẽ mặt người biệt phái cố ý giăng bẫy Ngài khi đề cập đến vấn đề nộp thuế cho hoàng đế César. Sau những người biệt phái, là những người không dám chất vấn Ngài nữa, các nhân vật khác bắt đầu nhập cuộc. Họ thuộc về một trong ba phái Do thái đồng thời với Chúa Giêsu. Đó là những người Sađđuceô, nghĩa là “con cáo của Sađoc”, thuộc chi họ Lêvi (Ez 40,46). Họ thuộc giai cấp tư tế, nhưng từ lâu họ không còn giữ đạo Do thái cách thuần túy. Nếu trung thành làm các việc phụng tự bên ngoài, họ lại rất ít quan tâm đến các giáo điều nói về niềm tin tôn giáo: vì phụng vụ đã làm họ thỏa mãn. Hoài nghi kiên quan đến tín điều, họ quả quyết “không có sự sống lại, không có thiên thần” (Cvsđ 23,8), cũng như phủ nhận bất tử tính của linh hồn (theo Josèphe Ant.jud., XVIII,1,4). Điều sau này không đúng. Trong các điều họ phủ nhận, ở đây Lc chỉ nói điều phủ nhận về sự sống lại, bởi vì họ tranh luận với Chúa Giêsu về điểm này.

Sự sống lại là điểm giáo lý khiến họ ly khai với người biệt phái và khi phủ nhận điều đó, họ cho mình là người giữ lại niềm tin cổ truyền của Israel. Họ công nhận sau khi chết, linh hồn vẫn còn sống trong Shéol. Niềm tin vào sự sống lại xuất hiện vào thời các sách Macabêô hoặc vào thời đại trước đó, dưới ảnh hưởng của một đời sống sâu xa hơn, của ước muốn thông hiệp chặt chẽ hơn với Thiên Chúa trong một thế giới tốt đẹp hơn. Sự hiện diện của những hồn ma trong Shéol không thể lấp đầy những khát vọng đó. Chỉ có sự nối kết giữa linh hồn và thể xác bên cạnh Thiên Chúa mới có thể làm họ thỏa mãn. Niềm hy vọng về sự sống lại được củng cố trong suốt các cuộc chiến tranh tôn giáo. Thế nhưng đối với người Sâđđucêô, đó lại là một tín điều mới và họ phủ nhận điều đó, in tuồng họ đã đồng hóa với triết lý Hy lạp.

2. Chúa Giêsu chia sẻ niềm xác tín của người biệt phái và dẫn chứng: thực sự có việc người chết sống lại. Đó là lý do khiến một vài người Sâđđucêô tìm cách chế diễu Ngài.

Họ bắt đầu bằng cách nại đến thế giá của Môisen mà Chúa Giêsu không thể nhìn nhận. Trong sách Đnl (25,5tt), luật Môisen buộc người nào đó, có anh đã cưới vợ nhưng đã chết mà không có con, phải cưới bà góa đó và sinh con thừa tự cho anh mình; đứa con đầu tiên sinh ra do sự phối ngẫu này được xem như là con đẻ của người đã quá cố, được phép nhân danh người quá cố để tiếp tục sống trong Israel. Luật này trở nên khe khắt trong trường hợp cả hai anh em cùng sống chung với nhau, những người Sâđđucêô bỏ qua chi tiết này. Vả lại, chi tiết này không nhập gì đến lập luận mà họ muốn dựa vào để bác bỏ sự sống lại.

Theo họ, việc áp dụng luật này nhất thiết chứng minh rằng: không thể có sự sống lại. Họ đưa ra trường hợp một người chết không con, sáu anh em của người này tuần tự lấy chị dâu mình rồi cũng chẳng ai có con, người thứ bảy cũng thế. Cho quá đáng trong con số 7 có mục đích cho ta thấy việc sống lại là chuyện không thể tin được.

Đến lượt người đàn bà cũng thế. Nếu có việc sống lại bà sẽ ra sao? Ai trong 7 anh em sẽ là chồng bà Bởi vì không ai trong bảy người có con và tất cả đã chấp hành đúng luật Môisen, nên tất cả đều có quyền lợi đồng đều đối với bà. Quả vậy, tình cảnh thật đáng buồn cười khi người ta có một quan niệm vật chất về sự sống lại, có lẽ đó cũng là quan niệm của người biệt phái.

3. Chúa Giêsu bắt đầu cách bác bỏ chính ý kiến sai lầm về sự sống lại. Thật thế, người Do thái tin rằng khi sống lại người ta sẽ tiếp tục cuộc sống ở trần gian này. Tuy nhiên, họ nghĩ rằng cuộc sống này xem ra có thể làm cho họ vui thích. Một tiến sĩ luật danh tiếng đã nói: “trong ngày đó (sau khi sống lại) người đàn bà sẽ sinh con trong mọi ngày”; càng nhiều con, niềm vui của kẻ có con càng lớn lao. Điều mà người Sâđđucêô minh chứng, nhắm đến chính kiểu tin tưởng này về sự sống lại. Thế nhưng Chúa Giêsu lại không tin vào sự sống lại theo kiểu này. kẻ sống lại từ cõi chết không dựng vợ gả chồng và không đính hôn. Đời sống của những người sống lại không phải là sự tiếp nối đơn thuần đời sống trên trần gian.

Người sống lại không thuộc về thế giới trần thế này nữa, nhưng thuộc về một thế giới mai hậu, một thế giới mới. Viễn ảnh lịch sử trong sấm ngữ Do thái nói đến hai thời kỳ, hai thế giới, hai thời đại của thế giới: thế giới này và thế giới khác. Tiếp theo sau thời kỳ hiện tại là thời kỳ của bất công, phiền não, chết chóc, bại hoại tội lỗi, sẽ đến thời kỳ mới vô cùng tận, mọi sự độc dữ sẽ bị tiêu diệt, sự bại hoại luân lý sẽ bị xua trừ, sự vô tín sẽ bị loại bỏ, nơi đó sự công chính sẽ được biểu dương và chân lý sẽ là điều duy nhất được mến chuộng. Tân ước lấy lại hình ảnh này. Con cái của thời này, của thế giới này , phải tùng phục tội lỗi và cái chết; nhưng những người được Thiên Chúa tuyển chọn và ban ân sủng, thuộc về thời kỳ mới này sẽ lãnh nhận đời sống vĩnh cửu và được thông phần vào sự sống lại từ cõi chết (x.Mt 12,2; Lc 16,8; 20,34; “thời kỳ này”; Lc 20,35: “thời kỳ đó”; Mc 10,30; Lc 18,30: “thời sẽ đến”; Mt 12,32: “thời tương lai”).

Hôn nhân được sử dụng trong thế giới hiện tại, bây giờ. Nhưng sẽ không cần thiết trong thời kỳ sẽ đến, vì thời đó người ta không còn phải chết nữa. Đó là sự tiếp tục truyền sinh nhân loại được hiểu ngầm như là ý nghĩa của hôn nhân (Stk 1,28). Khi đạt tới bất tử, con người không còn cần hôn nhân nữa. Người Sađđucêo đã chứng minh sai. Hôn nhân chỉ có trong một thời.

Những người của kỷ nguyên sẽ đến được bất tử vì họ giống như thiên thần. Họ hiện hữu với cách thế thiên thần. Họ được sống như vậy vì là con cái Thiên Chúa. Kinh thánh thường ám chỉ các thiên thần dưới danh hiệu “con Thiên Chúa” (x. chẳng hạn Giop 1,6; 2,1). Họ thông phần vào vinh quang của Thiên Chúa, vào sức mạnh và ánh sáng của Ngài (Cvsđ 12,7). Những người sống lại được dự phần vào dòng dõi Thiên Chúa (1Gio 3,2; Rm 8,21), vinh quang (Rm 8,18), một “thân xác thần thiêng” (1Cor 15,44). “Cũng vậy, về sự kiện kẻ chết sống lại: gieo xuống trong ô nhục, người ta sống lại trong vinh quang; gieo xuống trong yếu đuối, người ta sống lại trong quyền năng; gieo xuống là xác khí huyết, sống lại, sống lại là xác thần thiêng” (1Cor 15,44tt). Những người sống lại không còn phải chết nữa. Những người đạo hạnh của thế giới ngoại giáo, Hy lạp, đương thời ước ao được sống hạnh phúc trong một thứ tình trạng được thần linh hóa, một đời sống không còn bị cái chết đe dọa; họ hy vọng đạt được nhờ cử hành các bí nhiệm hoặc nhờ trực quan, “tri thức”. Nhưng họ không quan niệm được một cái gì thích thú trong sự sống lại thể lý, bởi vì thân xác được coi như là một gánh nặng, một nhà tù và như vậy là mồ chôn của linh hồn. Sự sống lại có giá trị nhiều hơn sự bất tử; người chết sẽ sống lại với tư cách là hữu thể không thể bị hủy diệt và “chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cor 15,52): không phải chỉ có linh hồn sẽ sống, chính con người toàn diện với cả xác lẫn hồn sẽ có đời sống vô cùng tận.

Người sống lại đã được xét là xứng đáng với thời kỳ sẽ đến. Sự sống lại là một tặng phẩm của Thiên Chúa, một tặng phẩm hoàn toàn nhưng không, cũng như nước trời (2Th 1,5). Thế nhưng không phải chỉ có những người Thiên Chúa tuyển chọn và xét xứng đáng mới sống lại mà là tất cả mọi người, tội lỗi cũng như người công chính. Lc nhận biết niềm hy vọng này, rằng sẽ có một sự sống lại của những người công chính và bất chính (Cvsđ 24,15). Nhưng đối với những người công chính, sự sống mới là vinh quang (14,14). Chúa Giêsu ở đây nghĩ đến chính sự sống lại của người công chính khi Ngài nói với họ được xem như là xứng đáng với thời kỳ sẽ đến.

Các câu 37-38 mang lại, nếu không phải là bằng chứng mới, ít nhất cũng một giai đoạn mới người lời minh chứng của Chúa Giêsu. Đó là câu Chúa Giêsu trích dẫn Kinh thánh dựa trên thế giới của Môisen, mà người Sađđucêô vừa viện dẫn. Trong bộ ngũ thư, trong đoạn nói về bụi cây đang cháy (Xac 3,1tt), Thiên Chúa tự xưng là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacop. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống. Từ hai tiền đề đó, hình như phải kết luận về sự bất tử của linh hồn hơn là sự sống lại. Có một khó khăn về nghĩa từng chữ của sách Xac, trong đó Thiên Chúa tự xưng là Thiên Chúa mà tổ phụ dân Israel đã thờ lạy. Thật là thích đáng khi nghĩ Thiên Chúa đã cho đoạn này một nghĩa sâu xa hơn: Thiên Chúa vẫn còn là Thiên Chúa của những ai phụng sự Ngài và hằng tiếp tục sống cho Ngài. Vậy các tổ phụ vẫn còn sống. Để từ một sự bất tử của linh hồn đến sự sống lại mà Chúa Giêsu chắc chắn muốn dựa vào đoạn văn này để chứng minh. Phải nại đến lòng tin tưởng của người Do thái về đời sống ở thế giới bên kia. Người công chính đi vào Shéol, ở đó họ chưa được hạnh phúc đời sống họ vì thế chưa được hoàn toàn. Đời sống của họ, nhờ vâng theo thánh ý Thiên Chúa, đáng được thưởng công, linh hồn họ đáng được Thiên Chúa đưa ra khỏi Shéol để sống đời sống mới hoàn hảo hơn. Đời sống này sẽ được ban cho họ khi sống lại; và chỉ đời sống mới này mà họ sống lại từ cõi chết. Nếu đã chết đối với loài người, thì nay họ vẫn còn sống đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã sáng tạo con người bất tử, chính vì sự đố kỵ của ma quỉ mà cái chết đi vào thế gian (Kn 2,23-24). Ý định của Thiên Chúa không thể mãi mãi bị ngăn chận do sự can thiệp của ma quỉ: con người sẽ tìm lại được quyền bất tử của mình, được diễn tả cách đẹp đẽ trong sự sống lại.

4. Người Sâđđucêô ngượng ngùng vì lập luận của Chúa Giêsu. Ngài được các ký lục hiện diện ở đó hoan nghênh, dù họ là đối thủ của Ngài. Sự hoan nghênh đó vì hai lý do: họ thán phục cách Chúa Giêsu lập luận chống lại người Sađđucêô và minh chứng được niềm tin vào sự sống lại mà họ vẫn có; đàng khác sự thất bại mà họ vừa chịu (về vấn đề nộp thuế cho vua César) cho họ một bằng chứng mới về nguy hiểm họ gặp khi muốn bắt bẻ Chúa Giêsu; trong trường hợp đặc biệt này, họ muốn hoan nghênh Ngài hơn là liên minh vào một cuộc tranh luận mới sẽ làm họ bẽ mặt như những cuộc tranh luận trước.

KẾT LUẬN

Qua lời tuyên bố long trọng của Chúa Giêsu về sự sống lại, qua tất cả các đoạn phúc âm nói về vương quốc Thiên Chúa, một lần nữa tỏ ra cho ta thấy một thứ phúc âm của sự sống. Tuy nhiên, ai xác tín về sự bất tử dành cho những vị thánh sẽ được sống lại trong Chúa (Gio 11,25-26) cũng cảm thấy mình đang sở hữu trong chính mình cái bí mật của đời sống vĩnh cửu đó.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Người Sâđđucêô đến chất vấn Chúa Giêsu về việc người chết sống lại. Ít khi chúng ta gặp phải những người Sađđucêô này, chúng ta thường thấy các cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái hơn. Thật ra nhóm Sađđucêô, một chi tộc Do thái khác, ít hơn nhóm Biệt phái, họ kết thành giai cấp tư tế của đền thờ Giêrusalem và là một phe phái chính trị hơn là tôn giáo. Tuy nhiên họ đối lập với các người biệt phái, bởi lẽ với khuynh hướng rất bảo thủ về Israel, họ giới hạn mạc khải vào 5 cuốn sách đầu tiên trong toàn bộ Kinh thánh và phủ nhận sự sống lại của thân xác. Vậy họ đến hỏi Chúa Giêsu một vấn nạn liên quan đến mạc khải về sự sống lại để làm cho Ngài lúng túng.

2. Chính vì thế, họ phịa ra một câu chuyện khá kỳ lạ. Đi từ một lời khuyên luân lý hoàn toàn xác đáng của luật, đòi buộc bà góa không con phải được em chồng lấy làm vợ. Họ tưởng tượng ra một trường hợp một người đàn bà đã lần lượt lấy 7 anh em và sau đó thắc mắc làm sao sự sống lại có thể có được, vì người đàn bà này không có thể là vợ của 7 anh em trong một lượt, khi cả bảy anh em sẽ được sống trong cuộc sống sau khi chết này. Từ đó, họ kết luận sự sống lại sau khi chết là phi lý, vì như vậy, sự sống lại gây nên những tình cảm vô nghĩa.

3. Vấn nạn, hay đúng hơn thể thức của vấn nạn xem ra đáng buồn cười; thật ra không đáng buồn cười lắm đâu, nó khiến chúng ta nghĩ đến vấn nạn mà hiện nay người ta có thể đặt ra. Bàn về cuộc sống sau khi chết, nhiều người hoặc sẽ phủ nhận hoặc sẽ chế giễu theo quan niệm của họ.

Đối với một số người, cuộc sống sau khi chết là chính cuộc sống hiện tại một khi được hoàn toàn thành công; và tùy theo hoàn cảnh và tính tình, cuộc sống đó đối với mỗi người sẽ là việc nối tiếp tình yêu hôn nhân sâu sắc, tiếp tục được một gia đình hạnh phúc, được hoan lạc bình an trong công bình và chính trực; đối với người khác, cuộc sống sau khi chết là một thế giới nhiệm mầu, đầy quyến rũ nhưng mù mờ, tương ứng với các hoài vọng về một thiên đàng trần thế.

Đối với một số người khác, thiên đàng trần thế không phải là cái gì xa vời nhưng đạt được ngay từ bây giờ, đó là chủ trương của người Mac-xít và tất cả những ai ngây thơ tin vào sự tiến bộ vô hạn định của nhân loại. Sự sống lại từ cõi chết có hay không và sẽ xảy đến thế nào? Có nên tin điều đó không và làm cách nào để xác tín? Đó là những vấn nạn chúng ta đang đặt ra cho Ngài.

4. Ngay lúc đó, Chúa Giêsu lấy lại một ví dụ của các người đối thoại với Ngài; họ nói về sự hôn nhân và sự vĩnh tồn của hôn nhân sau khi chết. Chúa Giêsu nói chỉ có người đời này mới dựng vợ gả chồng; đó là chuyện hợp tình hợp lý trên trái đất, nhưng không thích hợp với những người sống ở thế giới bên kia. Trong thế giới khác, khi sống lại từ cõi chết, người ta không còn dựng vợ gả chồng nữa.

Khi bàn về sự sống lại và đời sau, những người này đã dựa trên kinh nghiệm trần thế của họ. Đó là một sai lầm. Hai thế giới khác biệt nhau, không thể có chuyện so sánh. Để giải thích, Chúa Giêsu nói: “Họ giống như thiên thần”. Điều này không có nghĩa họ không còn là người, nhưng là người đã thoát khỏi điều kịn trần thế; và sự hiện hữu mới của họ cũng khác với sự hiện hữu lúc còn tại thế.

Sau đó Ngài minh xác hai trong số đặc điểm rõ ràng nhất của đời sống sau khi chết. Trước hết Ngài nói: “Họ không còn phải chết nữa”, họ thoát khỏi những định luật của sinh vật học, thoát khỏi luật phát triển được quan niệm bằng những hạn từ: biến đổi, đào thải, mỏng dòn và lão yếu. Và “họ là con cái của Thiên Chúa”; một cuộc sống mới đến thay thế cuộc sống cũ, một cuộc khai sinh mới đã được thực hiện.

5. Câu trả lời của Chúa Giêsu thật quan trọng, vì giải đáp những vấn nạn của người Sađđucêô và của chúng ta. Không thể dựa trên cuộc sống trần thế nàỵ để bàn về cuộc sống đời sau. Phải dựa trên chỗ khác. Nếu đi từ kinh nghiệm bản thân, anh chị em sẽ quan niệm sai lầm, đó là câu trả lời thứ nhất của Chúa Giêsu.

6. Trả lời như thế xem ra tiêu cực, nên Ngài tiếp tục (trả lời) để chứng minh cho người Sađđucêô, việc kẻ chết sống lại, Ngài nại đến Môisen và dùng luận chứng xác tín nhất của họ, vì đối với họ ngoài Môisen không còn vị đại diện tiên tri nào nữa. Chúa Giêsu nói với họ: “Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacop, không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là của kẻ sống; quả vậy mọi người đều sống với Ngài”. Chúa Giêsu khuyên đừng quan niệm về một Thiên Chúa chỉ có thể yêu thương cách bất toàn, tạm thời. Quan niệm như thế là lộng ngôn phạm thượng. Nếu yêu thương ai, Ngài yêu thương mãi mãi, không thể để họ chết mà không cho sống lại. Quả thật, Chúa Giêsu không chứng minh gì cả. Dựa vào kinh thánh, Ngài khẳng định rằng chối bỏ sự sống lại sẽ làm mất đi tầm vóc, mật độ và lòng kính yêu trong niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Nếu tin vào Thiên Chúa của kẻ sống, anh chị em phải tín nhiệm và tin cậy vào Ngài về một đời sau không thể không hiện hữu. Chối bỏ sự sống lại, chính là xếp Thiên Chúa hằng sống và chân thật ngang hàng với các ngẫu tượng câm nín và vô dụng.

7. Câu trả lời của Chúa Giêsu là lời mời gọi tín thác vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng luôn yêu thương chúng ta và hết lòng ước ao một ngày nào đó chúng ta sẽ được sống với Ngài mãi mãi. Ngay bây giờ, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi này bằng một đời sống đầy tin tưởng và hy vọng vào đấng sẽ phục sinh chúng ta.

 

47.Diễn từ về Giêrusalem đổ nát

(Suy niệm và Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

1. Diễn từ này bắt đầu bằng một lời khuyến cáo (cc. 8-9). Chủ đề chỉ được đề cập với các câu 10-11: mô tả các tai họa trong vũ trụ. Diễn từ này bị gián đoạn vì lời khai triển dài dòng về các biến cố sẽ phải đến “trước tất cả các điều đó”, là các biến cố không có giá trị dấu chỉ tiên báo ngày chung cục sắp đến: một đàng là các cuộc bách hại người Kitô hữu sẽ phải chịu (cc.12-19), đàng khác là hình phạt sắp giáng xuống Giêrusalem (cc.20-24). Lúc đó bài diễn từ mới bàn tiếp các tai họa vũ trụ sẽ phải xảy ra khi đến ngày thế mạt (cc.25-33). Diễn từ kết thúc bằng một lời khuyến cáo mới (cc.34-36). Đây là lược đồ qui tâm (expose concentrique) của diễn từ.

A. Lời khuyến cáo đầu tiên (cc. 5-9)

B. Các tai họa vũ trụ (cc. 10-11)

C. Điều xảy ra trước:

a) bách hại người Kitô hữu (12-19)

b) hình phạt Giêrusalem (20-24)

B’. Các tai họa vũ trụ ngày thế mạt (25-33)

A’. Lời khuyến cáo cuối cùng (34-36)

Như vậy đoản văn chúng ta chú giải dừng lại ở giữa bài diễn từ. Tuy nhiên đừng quên rằng mỗi một thành tố đều có ý nghĩa trong toàn thể.

2. Câu người ta hỏi Chúa Giêsu ở câu 7 có hai phần: trước hết hỏi về thời gian (“khi nào?”), đoạn hỏi rõ ràng hơn về dấu chỉ để nhận ra biến cố thực sự đang xảy ra. Cách đặt câu hỏi như thế giống với hai phúc âm nhất lãm kia. Nhưng biến cố Lc nhắm đến là việc phá hủy đền thờ, còn Mt và Mc đi từ việc phá hủy đền thờ sang ngày thế mạt. Rõ ràng hơn Mc 13,4, Mt đặt câu hỏi như sau: “Khi nào các điều đó xảy ra và đâu là dấu chỉ điềm báo ngày Ngài quang lâm và ngày thế mạt đến?” (Mt 24,5). Việc phá hủy Giêrusalem, việc Con Người đến và ngày thế mạt liên hệ mật thiết với nhau. Lc hủy bỏ mối liên hệ đó. Việc phá hủy đền thờ không là thành tố của các biến cố đó. Trong suốt bài diễn từ, Lc cố ý tách rời việc phá hủy đền thờ khỏi biến cố thế mạt, loại bỏ mọi tương quan giữa hai sự kiện đó. Ngay từ đầu, ông đã muốn tránh mọi lầm lẫn giữa hai biến cố. Ông tạm thời lưu tâm đến số phận đền thờ và chỉ đề cập đến ngày thế mạt khi ông có thể minh chứng thế mạt không liên hệ gì đến biến cố năm 70. Câu hỏi trong câu 7 rõ ràng nhắm đến số phận đền thờ, và toàn bộ bố cục diễn từ cũng xác quyết điểm đó.

3. Chúa Giêsu nói lời cứng rắn mạnh mẽ chống lại đền thờ và nói đó được xem như là thời điểm cao nhất trong việc rao giảng phúc âm, vì lời đó tiên báo Israel sẽ bị kết án và loại bỏ. Theo Lc, Chúa Giêsu nói lời đó ngay chính trong đền thờ, sau khi đã thanh tẩy đền thờ, điều đó cho thấy Ngài thực sự quản lý vật sở hữu của Ngài. Đền thờ là dấu chỉ cụ thể Thiên Chúa đang hiện diện giữa dân Người; Israel thấy đền thờ là lý do tồn tại của mình trong tư thế là dân được tuyển chọn. Việc phá hủy từ đây ám chỉ họ đã bị bỏ rơi và cùng khổ, nhục nhã, là những điều mà tiên tri Malakia đã tiên báo (3,21). Trong lúc mọi người hết lời ca tụng, ngưỡng mộ vẻ đẹp đền thờ, Chúa Giêsu chỉ thấy đổ nát thiêu hủy. Qua sự kiện này, Ngài tiếp nối sự nghiệp các tiên tri liên tục tiên báo các sự đổ nát đã xảy ra (Mi 3,9-12; Giêr 7,14; 26,18; Ez 2,21). Đến lượt mình, Chúa Giêsu nói tiên tri và hoàn tất sự đổ nát, vì từ đây Ngài là dấu chỉ duy nhất về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại.

4. Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi về ngày giờ và dấu chỉ cuộc phá hủy Giêrusalem. Thay vì trả lời như thế, c.8 đề phòng các Kitô hữu coi thường các kẻ gian manh sẽ tìm cách đánh lừa họ. Lc trước hết lấy lại phương cách mà Lc đã gán cho họ: họ là những kẻ tự xưng là đến “nhân danh” Chúa Giêsu, họ nói: “chính ta đây”, và tìm cách làm thiên hạ kính trọng họ như là Đấng Kitô. Mc chú tâm nhiều đến hiểm họa Kitô giả, đến nỗi đã nhắc lại trong phần cuối bài diễn từ (Mc 13,21-23); họ sẽ làm nhiều dấu chỉ và phép lạ, và lừa gạt được nhiều người. Lc loại bỏ lời khuyến cáo thứ hai, và việc đề phòng của ông, ở c.8 không xác quyết là họ sẽ thành công trong việc lừa gạt thiên hạ.

Ngược lại Lc thấy trước một hiểm họa khác, đối với ông xem ra khẩn trương hơn: hiểm họa các người gian manh loan báo “thời giờ đã đến gần đến”. Theo Lc, đó là “thời giờ” nào? Dựa vào câu hỏi ở c.7, người ta có thể nghĩ đó là thời gian tàn phá đền thờ. Nhưng chắc chắn Lc không nghĩ đến điều đó. Ta thấy được điểm này nhờ câu thiếp theo, là câu nói đến tai ương mà người ta chỉ có thể kết luận là “ngày tàn” của các tai ương đó sắp chấm dứt. Diễn từ tiếp tục đề cập đến các dấu chỉ, theo đó có thể biết là “sự cứu thoát các con đã gần kề” (c.28), và “Nước Thiên Chúa đã gần đến” (c.31). Sai lầm mà Lc muốn người Kitô hữu đề phòng là sai lầm trong ông lưu ý trong 19,11: “Chúa Giêsu lại nói thêm một dụ ngôn nữa, vì Ngài đã đến Giêrusalem, và người ta tưởng rằng liền ngay đó nước Thiên Chúa sẽ xuất hiện”. Đây là hiểm họa làm Lc lo lắng: là các Kitô hữu háo hức nghe theo ảo giác của những kẻ tưởng giờ thế mạt đã gần kề, rằng Nước Thiên Chúa sắp tỏ hiện trong vinh quang, rằng Con Người sẽ ngự xuống trên đám mây. Các lời loan báo như thế tạo nên một cơn sốt tạm bợ và sẽ gây thất vọng và khủng hoảng đức tin: người ta sẽ thôi chờ đợi, không sống trong hy vọng nữa. Chính vì thế Lc nhấn mạnh: “Các con chớ nghe theo chúng”.

Câu 9 cũng cản giác một nguy hiểm tương tự: nguy hiểm giải thích các biến cố (không chút liên hệ đến thế mạt) như là dấu chỉ ngày thế mạt đã gần kề. Theo Mc, người ta sẽ nghe nói về chiến tranh giặc giã; Lc xác định rõ hơn: “Có chiến tranh và hoan lạc”, là chữ chỉ các cuộc nổi dậy, phản động, và người ta nghĩ ngay đến cuộc nổi dậy của dân Do thái. Lúc bấy giờ chớ sợ hãi. Mc giải thích: “các điều đó sẽ phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận thế”. Ở đây Lc cũng xác định và nhấn mạnh rõ: “Các điều đó phải đến trước, nhưng chưa phải là tận cùng ngay đâu”. Đối với Mc, chiến tranh giặc giã chỉ là dấu chỉ xa của ngày tận thế thì ra chúng biểu hiện “giờ đau khổ đã điểm” (Mc 13,8). Trong Lc, chiến tranh, nổi loạn không có giá trị dấu chỉ tiền phong, dù là dấu chỉ xa; chúng không liên hệ gì với ngày tận thế. Chúng phải xảy ra trước, nhưng không phải là lời loan báo về ngày tận thế.

Lc biết ngày tận thế không thể đến ngay. Ông sợ các ảo giác về vấn đề này sẽ làm lung lạc đức tin của Kitô hữu, khiến họ phải thất vọng. Lời khai mào diễn từ cánh chung đã bị ảnh hưởng bởi mối ưu tư về nguy hiểm trên.

Vì chính vì biết ngày tận thế không đến ngay, nên Lc đã không mô tả các dấu chỉ tiền phong của ngày tận thế: chỉ cần hai câu để mô tả là đủ (cc.10-11). Vả lại, các dấu chỉ đó không cho biết thêm điều gì. Các đối thoại viên của Chúa Giêsu đã xin một dấu chỉ, nhưng không phải dấu chỉ về ngày thế mạt, nhưng là dấu chỉ về việc tàn phá Giêrusalem. Chúa Giêsu không cho một dấu chỉ, nhưng nhiều dấu chỉ và các dấu chỉ này không liên hệ tới việc tàn phá Giêrusalem, nhưng liên hệ tới ngày thế mạt. Hơn nữa, các dấu chỉ này mơ hồ đến nỗi bất cứ thời nào cũng cảm thấy bị chúng ảnh hưởng. Nhưng ngoài bối cảnh lu mờ đó, có một điều rõ ràng: ngày tận thế sẽ không đến ngay.

5. Càng nói phớt qua và không minh xác các dấu chỉ tiền phong đó, Lc càng nhấn mạnh đến thái độ người Kitô hữu phải có cho đến ngày thế mạt. Vì thế ngày thế mạt xa dần trong một tương lai bất định, người Kitô hữu càng cần phải sống trong thời gian, đương đầu với lịch sử. Đặc biệt họ phải anh dũng đối đầu với các cuộc bách hại. Và trong lúc Lc ghi lại diễn từ này, các lời Chúa Giêsu tiên báo về việc bách hại trong tương lai đã thực sự thể hiện trong lịch sử; sách Cvsđ đã minh chứng điều đó (Cvsđ 8 và 12).

Lc đã lưu tâm đến đoản văn liên hệ đến các cuộc bách hại đó. Người ta có cảm tưởng ông muốn khích lệ các người bị bách hại khi nhấn mạnh đến các lý do nhằm làm họ tin tưởng cậy trông trong các cuộc thử thách đó. Như thế lòi tiên báo đã biến thành lời mời gọi tin tưởng phó thác. Và Lc làm nổi bật tất cả những gì đem lại lợi ích cho người bị bách hại.

“Điều đó sẽ giúp các con làm chứng” (c.13). Cách dịch này chẳng để ý gì đến việc thay đổi nhãn quan. Ông đặt mình về phe người bị bách hại, để cho thấy lợi ích của các cuộc thử thách họ phải chịu: đây là bằng chứng chắc chắn cho thấy họ sẽ được cứu rỗi. Do đó đúng hơn phải dịch là: “Điều đó sẽ là dịp để các con làm chứng”. Đây là một lời khuyến khích chịu đựng các đau khổ, chúng là chiến tích hùng hồn biện hộ cho họ trước tòa án Thiên Chúa.

Phải đặt lời khuyên đừng lo lắng phải biện hộ thế nào trước mặt vua chúa quan quyền trong chiều hướng khuyến khích đó, vì lời khuyến khích là sứ điệp thiết yếu của diễn từ. Không những Thiên Chúa sẽ lo liệu bằng cách ban khôn ngoan và miệng lưỡi, nhưng còn lo liệu cho lời nói đó đừng trở nên cớ vấp phạm. Không gì có thể thắng nổi lời nói đó. “Ta sẽ cho các con miệng lưỡi và khôn ngoan, làm kẻ nghịch các con hết thảy đều vô phương chống lại hay bắt bẻ các con” (c.15). Cuối cùng Lc thêm lời hứa: “Dù một sợi tóc trên đầu các con cũng chẳng hư mất” (c.17). Câu này được gặp lại ở chỗ khác, trong một bối cảnh khác hẳn (x. Lc 12,7; Mt 10,30) được đặt ở đây, trong cuối đoản văn mô tả các cuộc bách hại, câu đó đưa ra một viễn ảnh đen tối và nặng nề; nó nhắc lại sự che chở đã được hứa trước. Đây cũng là lời mời gọi mới để tín hữu thêm can đảm và tín thác ngay khi gặp phải cảnh bắt bớ gian truân.

6. “Các con sẽ giữ mạng sống nhờ biết bền đỗ” (c.19). Đây là một câu ngắn của Lc, có một nghĩa tổng quát: nó không còn liên hệ với hoàn cảnh lịch sử của những người sống ngay trước ngày thế mạt. Nó có giá trị trong mọi thời. Thực ra, Lc đã không ám chỉ đến ngày sau hết có trong Mc: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu thoát” (Mc 13,13). Lc biết ngày sau hết không phải là gần đến; ông kết án là gian manh những kẻ chủ trương như thế (c.8). Đó là tất cả ý nghĩa việc Lc đọc lại viễn ảnh cánh chung học của Mc: các cuộc bách hại không liên hệ với thời sau hết. Đúng hơn chúng biểu thị thân phận người Kitô hữu trong thế giới, trong lịch sử nhân loại đang còn tiếp diễn.

Sự bền đỗ đó là sự kiên tâm bền chí giúp người Kitô hữu can đảm tin tưởng đương đầu với những vô vị của cuộc sống thường nhật cũng như các hoàn cảnh đặc biệt của thời bách hại. Đó là quộc thử thách đức tính kiên nhẫn mà Giêremia đã nói, ông là người đã hết lòng tin tưởng vào Chúa, nhưng rồi cũng đã thất vọng vì đó: “Lạy Giavê, Ngài đã dụ dỗ tôi, và quả thật tôi đã bị dụ dỗ, Ngài đã bắt tôi và đã thắng tôi. Mỗi ngày tôi biến thành trò cười, nọi người ai cũng chế nhạo tôi” (Giêr 20,7). Sự bền đỗ theo phúc âm biểu thị “những người nghe lời với thái độ tốt, đã đào sâu lời đó và mang lại nhiều hoa quả nhờ kiên tâm bền chí” (Lc 8,15); sự bền đỗ đó chắc chắn giúp ta được sống cũng như được vào vương quốc (x. Cvsđ 14,22). Nó được Thiên Chúa hứa và minh chứng lòng tín thác vào đấng hoàn tất lời hứa.

KẾT LUẬN

Thời của giáo hội là thời bách hại. Thời gian này đang tiếp tục. Việc giải phóng và ơn cứu độ hoàn toàn chỉ bắt đầu với việc Con Người đến nhưng Ngài chưa đến gấp. Do đó phải kiên nhẫn và bền chí đứng vững.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Đứng bên Chúa Giêsu, có nhiều người trầm trồ khen ngợi Đền thờ và lấy làm hãnh diện sung sướng về các viên đá tốt và các lễ vật quí người ta dâng cúng. Thật thỏa mãn và vui mừng biết bao khi thấy ở chính Giêrusalem có một dấu chỉ minh nhiên sự hiện diện của Chúa. Nhất là hãnh diện biết bao, vì đền thờ nguy nga lộng lẫy là công trình của toàn dân, đồng thời nói lên lòng trung tín của các tín hữu cũng như sự che chở của Đấng toàn năng. Tất cả điều đó khiến họ hài lòng thỏa mãn.

Trước sự ngưỡng mộ chính đáng và quan yếu đó, Chúa Giêsu phán: “những gì các ngươi nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào, tất cả sẽ bị tàn phá”. Nghe vậy chắc các thính giả xôn xao lo lắng lắm. Đền thờ bị phá hủy thì còn đâu sự che chở của đấng Tối Cao, đâu còn chứng tích của lòng trung tín?

Chính vì thế, họ tò mò và quan ngại: “Thưa thày, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?”

Qua câu hỏi này, thính giả Chúa Giêsu cho thấy họ đã nhận thức tầm quan trọng của việc chuẩn bị sống các biến cố đó. Phải khắc phục các tai ương đó, chứ đừng bị chúng bắt chợt. Niềm tin vào đền thờ, nơi Đấng tối cao đang hiện diện, càng sống động. Đền thờ càng trở nên quan trọng vì là dấu chỉ hữu hình của sự hiện diện này, do đó người ta càng khó chịu khi thấy đền thờ bị tàn phá.

Ngày nay phải chăng người ta cũng có một tâm tưởng như thế, khi nghĩ là giáo hội đang trên đường diệt vong? Trước những biến đổi sâu xa do công đồng đem đến, nhiều người tức tối, nuối tiếc phụng vụ cổ xưa, các bài giảng ngày trước, việc bình thản nhàn hạ đã có từ lâu. Niềm tin của các bạn trẻ hôm nay, được biểu lộ một cách khác xưa, có còn là niềm tin nữa không? Các linh mục liên hệ với cộng sản là vô thần, có còn là linh mục nữa không? các nữ tu đến sống với các những nghèo trong các ổ chuột tồi tàn có còn là nữ tu nữa không? Cuối cùng, dù với những ý tưởng ngay lành của thế giới, người ta sẽ chẳng phá hủy giáo hội sao? Cũng như dân Do thái ngày xưa muốn bảo trì đền thờ Giêrusalem của họ, ngày nay người ta cũng muốn giữ gìn giáo hội và những cái gọi là truyền thống của giáo hội, nhưng giáo hội mới cứu người tín hữu.

2. Sau các câu hỏi mà giờ đây chúng ta đã hiểu rõ, Chúa Giêsu mới bắt đầu lên tiếng. Ngài không cho biết khi nào sẽ xảy ra cuộc tàn phá Giêrusalem, cũng như các dấu chỉ tiên báo cuộc tàn phá đó. Ngài không bao giờ trả lời để thỏa mãn tính tò mò hay xoa dịu nỗi ưu tư xao xuyến. Ngài giúp ta can đảm và bình thản đón nhận biến cố. Chính vì thế, Ngài nói trước các nguy hiểm, các sai lệch hoặc các cuộc đào tẩu bội phản có thể xảy ra; đoạn cho biết phải sử dụng năng lực của mình như thế nào cho hợp lý.

Trước tiên là các nguy hiểm và ảo tưởng. Chúa Giêsu canh chừng thính giả khỏi mắc mưu các Messia giả. Vào thời hoan lạc, con người quá xao xuyến đến nỗi phải tìm đến người có thể trấn an và hướng dẫn họ cách quyền uy. Chúa Giêsu cảnh giác họ đừng vội tin những người bịa đặt những phép lạ dễ dãi và những thày phù thủy chữa bệnh tâm tư phiền muộn; đừng vội theo những ai đơn giản hóa sự việc bằng cách đồng hóa đức tin với các hệ thống kinh tế hoặc chính trị của họ.

Chúa Giêsu đề phòng chống lại các ngày thế mạt giả mà chúng ta thường tin cách dễ dàng: chiến tranh, động đất, ôn dịch, đói kém… đó là những lệnh báo động giả, nhiều khi rất đánh động, nhưng chúng ta đừng vì đó mà xao lãng hoặc quên mất điều cốt yếu.

Điều cốt yếu là sống đức cậy trông Kitô giáo trong thế giới, là giữ vững đức tin. Niềm tin luôn làm thế giới chống đối: Chúa Giêsu nói đó là điều không thể tránh được. Môn đệ không hơn thày. Người Kitô hữu có thể bị cám dỗ hoảng sợ và kinh hãi những tội phạm vì lòng yếu đuối của mình. Chúa Giêsu cho họ biết là trong họ có một sự hiện diện siêu phàm đang ngự trị. Khi đến giờ làm chứng tá, người Kitô hữu không phải chuẩn bị đối phó, tự vệ: chính Chúa Giêsu sẽ linh ứng cho họ điều phải nói. Do đó ngay bây giờ phải sống hiện tại cách tin tưởng hoàn toàn phó thác vào Chúa: không một sợi tóc trên đầu chúng ta rụng đi mà không có sự thỏa thuận đồng ý của Ngài. Điều quan hệ là hôm nay hãy sống đời môn đệ Chúa Kitô cách trung tín ngày qua ngày, luôn kiên trì trong đời Kitô hữu. Đó là đường duy nhất đưa đến cứu rỗi.

 

home Mục lục Lưu trữ