Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 87

Tổng truy cập: 1357794

Khiêm Nhường...

Suy niệm của Lm. Trần Ngà

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học rất quý báu. Xét về mặt tâm linh hay tu đức thì đây là một bài học có tác dụng giúp ta có những phẩm chất đạo đức đáng quý; xét về mặt đối nhân xử thế thì bài học nầy cống hiến cho ta bí quyết thu phục nhân tâm.

Bài học nầy được Chúa Giêsu rút ra từ kinh nghiệm cuộc sống của Ngài và truyền dạy lại cho chúng ta, đó là:

"Hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng."

Người dịu hiền khiêm nhường là người nhận ra thân phận mình vốn thấp hèn yếu đuối nên biết hạ mình xuống thấp.

Nước lúc nào cũng chảy về chỗ trũng; cũng thế, tình thương và ân sủng của Thiên Chúa cùng với tình thương và lòng quý mến của mọi người thường tuôn về với những người có đức tính dịu hiền và khiêm nhượng.

Vậy ai học được tâm tình dịu hiền và khiêm nhượng như Chúa Giêsu, người ấy sẽ được đón nhận tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa cũng như của mọi người chung quanh. Ay là người thành đạt nhất, hạnh phúc nhất.

Tôi xin mượn lại hai câu chuyện sau đây để làm sáng tỏ chân lý nầy.

Chuyện ngụ ngôn của Esop: gió và mặt trời.

Ngày nọ, thần gió gặp thần Mặt Trời và hai bên muốn so tài hơn thua. Mặt trời nói với gió:

- Ai trong chúng ta lột được áo choàng của người bộ hành đang đi kia được là người chiến thắng.

Gió chấp nhận ngay cuộc so tài và đòi ra tay trước. Nó thổi tới tấp, cát bụi tung bay mịt mù, nhưng càng thổi mạnh bao nhiêu thì người bộ hành càng ghì chặt chiếc áo choàng của mình bấy nhiêu. Cuối cùng gió kiệt sức và nhường lại cho Mặt Trời thi thố tài năng.

Mặt trời từ từ chiếu dọi ánh sáng của nó xuống, cách nhẹ nhàng nhưng tạo nên sức nóng hầm hập, khiến người bộ hành không chịu nổi hơi nóng đành phải cởi áo khoác ra.

Thế là mặc dù Gió hung bạo mạnh mẽ nhưng đành thua cuộc; còn Mặt Trời dùng đường lối êm dịu nhẹ nhàng mà dành được chiến thắng.

Đó mới là chuyện ngụ ngôn tây phương, có tính cách sáng tạo để răn đời, còn đây mới là chuyện thực, vào đời chiến quốc bên Trung quốc.

Liêm Pha và Lạn Tương Như

Vua Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có công hơn mà lại đứng dưới nên tức giận, hăm hễ gặp mặt Lạn Tương Như là giết.

Tương Như nghe nói thế thì tìm cách lánh mặt Liêm Pha mãi.

Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra.

Bọn xa nhân thấy thế tức giận, bèn họp nhau hỏi Tương Như:

"Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên yêu mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm tướng quân doạ ngài, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thể vậy? Chúng tôi thật lấy làm xấu hổ, vậy xin đi thôi, không ở nữa."

Tương Như nói: "Các ngươi xem Liêm tướng quân có hơn được vua Tần không?"

Bọn xa nhân thưa: "Không".

Tương Như nói: "Lấy như cái oai của vua Tần, thiên hạ không ai dám chống, Tương Như nầy một mình dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất thừa cơ đánh Trịêu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ vậy thôi".

Bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng: "Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao độ nổi đại chí của tướng công".

Liêm Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: "Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm", bèn trần vai áo đến trước cửa Tương Như tạ tội: "Tính tôi thô bạo, đội ân tương quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!"

Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết bạn sống chết có nhau.

(Trích lại của Thu Giang Nguyễn Duy Cần, trong cuốn: ‘Thuật xử thế của người xưa’)

Thế là bằng đường lối nhịn nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và chinh phục được cả con người lẫn tâm hồn Liêm Pha.

Đúng như Pascal nhận xét: "Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi biết quỳ gối xuống...."

Người tự cao tự đại cho mình là giỏi, cho mình là đúng, không cần học ai, nên không bao giờ giỏi, không bao giờ thành công trên đường đời; trái lại chỉ thu tích thêm căm ghét của người khác.

Người khiêm tốn là người thấy được mình còn nhiều mặt yếu kém, nên sẵn sàng nghe người khác chỉ giáo cho và nhờ đó sẽ trở thành người khôn ngoan và giành được thắng lợi.

Nhưng nói cho cùng, cái thắng lợi lớn nhất đời người là được mọi người chung quanh yêu thương quý mến và chỉ có những ai có tâm hồn dịu hiền khiêm nhượng mới đón nhận được diễm phúc nầy.

 


Khiêm nhường

Nếu phải kể ra những điều chúng ta cần học hỏi nơi Chúa Giêsu, thì hẳn là nhiều lắm. Tuy nhiên, cái khó là phải bắt đầu từ đâu? May thay chính Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho chúng ta bài học đầu tiên và cần thiết nhất, đó là lòng khiêm tốn, đức từ bi và nhân hậu. Chính Người đã nói: Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.

Khi xây một căn nhà, thì trước hết chúng ta phải làm nền, phải xuống móng. Nền móng càng sâu, càng chắc thì ngôi nhà càng có thể xây lên cao. Nền móng đâu có phải được làm bằng những vật liệu quí giá và đẹp đẽ, nó chỉ là đá cát, đôi khi cả xà bần, gạch vụn được nện sâu và nện thật chắc. Nó là cái phải không phải để khoe khoang, nhưng luôn bị chôn vùi, bị che đậy và bị người ta chà đạp lên trên. Quả thế, khi chúng ta bước vào bên trong một tòa lâu đài, một hoàng cung hay một ngôi nhà tầm thường nào cũng vậy, chẳng ai để ý đến cái nền, chẳng ai thắc mắ xem nó được làm bằng gì, và chứa đựng những cái chi ở bên trong, nhưng chúng ta sẽ dẫm bước lên nó mà đi.

Con người xét về phương diện cá nhân cũng như tập thể, cũng là một công trình xây dựng, mà nền móng phải là lòng khiêm tốn. Không có nền móng này, không sớm thì muộn chúng ta cũng sẽ bị sụp đổ, bởi vì ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xống, thì sẽ được nâng lên. Hơn thế nữa, trong lời kinh Ngợi Khen, Mẹ Maria đã xác quyết: Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhau.

Lão Tử ngày xưa cũng đã nói: Giàu sang mà kiêu căng là tự rước lấy họa vào thân. Kẻ tự cao tự đại giống như kẻ nhón gót chân để cao hơn người, xoạc chân ra để lớn hơn người. Như vậy sẽ chẳng thể đứng vững và tiến bước. Trái lại bậc thánh nhân cho đến ngày cùng, vẫn không cho mình là lớn, nên mới thành được việc to.

Lịch sử cho chúng ta đầy rẫy những mẫu gương về những cá nhân cũng những tập thể, đặc biệt là những đế quốc hùng mạnh, nhưng kiêu căng, đã bị sụp đổ như thế nào. Những con người như Néron, Napoléon, Hitler…Nhưng đế quốc như Rôma, Mông Cổ…ngày xưa đã thảm bại ra sao, thì ai cũng đều biết. Sự tự cao tự đại thường đi đôi với lòng tạn bạo và bất nhân. Bởi vì kẻ kiêu căng thường bắt mọi người phải khuất phục mình, làm nô lệ cho mình và không ngần ngại dùng bạo lực để đàn áp, chế ngự và tiêu diệt những ai không chịu khuất phục.

Thế nhưng, Chúa Giêsu thì khác. Người đã dạy chúng ta: Ai muốn làm đầu, thì phải trở nên rốt hết và hầu hạ mọi người. Chính Người, trong suốt cả cuộc đời, đã sống khiêm nhu và trong giờ từ biệt các môn đệ, để ra đi chịu chết, Người đã không ngần ngại quì xuống rửa chân cho các ông, để nêu gương khiêm nhường, dồng thời kèm theo đó là bài học bác ái yêu thương, như lời Người đã phán: Con người đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.

Xưa nay trong Hội Thánh vãn có thói quen đề cao đức khiêm nhường. Nhưng đức khiêm nhường ấy thường được ghép đôi với sự vâng phục. Như vậy xem ra khiêm nhường chỉ là nhân đức của kẻ bề dưới. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã liên kết đức khiêm nhương với lòng bác ái và tinh thần phục vụ. Người coi đó là đức tính của người lãnh đạo, của bậc bề trên. Bởi vì chỉ kẻ khiêm nhường mới có khả năng yêu thương thực sự. Và chỉ kẻ yêu thương thực sự mới thích phục vụ người khác.

Như thế, khiêm nhương không phải là thái độ của kẻ hèn nhát, sẵn sàng chịu khuất phục, nhưng là đức tính của bậc anh hùng, của người đã làm chủ được bản thân mình.


Mạc khải cho kẻ bé mọn

R. Veritas

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Bài Phúc Âm của Chúa nhật XIV Mùa thường niên hôm nay được trích trong một đoạn văn hay nhất của thánh Matthêu, người ta gọi đoạn văn này là “Hạt Ngọc Quý Nhất” của Thánh Matthêu. Dòng tư tưởng của đoạn Phúc Âm này thật cao siêu và êm dịu, chúng ta thấy ngay về sự bay bổng và suy tư về Nước Trời. Có lẽ lời cầu nguyện này được thốt ra khi Chúa Giêsu nghe các Tông đồ đi truyền giáo trở về và kể lại cho Chúa các điều họ đã thực hiện, các mối liên lạc giữa Chúa và Chúa Cha về sứ mệnh cứu rỗi làm trung gian, và mời gọi mọi người đến với Ngài. Điều ấy là các mầu nhiệm Nước Trời.

Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được mạc khải này cho chính mình và cho các Tông đồ: “Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng…” Theo mạch văn và ý muốn của Chúa mà chúng ta hiểu, đây là những người Do thái đang bị đè nặng bởi lề luật và các truyền thống của những biệt phái. Chúa Giêsu đã giải thoát họ khỏi ách lề luật và đem họ đến chỗ thảnh thơi. Vì từ nay những ai đến với Chúa phải đến với tất cả tâm hồn, phải được ghi khắc lề luật mới là luật của Thánh Thần ở bên trong và tự nguyện.

Đoạn văn này rất súc tích tư tưởng, không bao giờ khám phá ra hết, song ít ra chúng ta có thể nhận thấy chính những tư tưởng sau:

Trước hết là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài trên trời vì đã mạc khải những điều này cho các trẻ nhỏ, mà lại không cho những kẻ thông thái và quân tử biết. Những nhà thông thái tự cao tự đại thường cho rằng mình biết tất cả. Lòng tự ái tự cao làm cho họ không nhận ra Lời Chúa, còn những bậc quân tử thì lại tự mãn về lối sống của mình, tự cho mình là chân chính và không cần đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa, không cần ơn cứu rỗi của Ngài. Trái lại những kẻ bé mọn lại biết rằng mình dốt nát trước sự cao cả của Thiên Chúa, họ thấy mình bé nhỏ khốn nạn, và sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn về những hồng ân của Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận ơn cứu rỗi, cảm thấy cần Chúa: “Chúa hạ người quyền hành xuống khỏi vị cao và nâng người hèn mọn lên”.

Chúa Giêsu tự mạc khải Ngài: “Sự thực đã được Cha trao phó cho Ta và không ai biết Cha trừ ra Ta, và cũng không ai biết Ta trừ ra Cha” (Mt 11,27). Lời đó mạc khải về Chúa Giêsu, Ngài đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Một mình Cha biết đầy đủ về Con, vì Cha đã sinh ra Con trong trí và do sự hoàn toàn sung mãn của Ngài. Và chỉ có Con mới biết đầy đủ về Cha và hình ảnh của Con là sự trung thực nhất, là tư tưởng, ý nghĩ của Cha. Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa. Đây là một mạc khải vô cùng quí báu cho chúng ta. Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, song không phải hoàn toàn như chúng ta: “Mọi sự đã được Chúa Cha trao, không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ nào Con muốn mạc khải cho”.

Một tư tưởng nữa của Phúc Âm hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với Ngài: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những kẻ khó nhọc gánh nặng, Ta sẽ bổ sức lại cho”.

Lời kêu gọi đầy lòng nhân hậu và giàu lòng thương xót mà Chúa hứa cho những ai đói khát, những ai mệt nhọc, Chúa sẽ nâng đỡ và Chúa luôn luôn trung thành giữ lời hứa của Ngài. Qua mọi thời đại, tất cả những ai đói khát công chính đều no nê, những ai nặng trĩu tội lỗi đến với Ngài đều được nhẹ nhõm, được bổ sức và được tha thứ. Chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Tội con đã được tha thứ” (Mt 9,2), và chỉ có Chúa Giêsu mới nói được: “Đừng sợ, Ta đã thắng thế gian”, (Ga 16,33) và “Ách Ta thì êm ái, gánh Ta thì nhẹ nhàng”, (Mt 11,30).

Chúng ta hết thảy đều phải mang gánh nặng và vất vả, nhưng ở đây chúng ta không có ý nói đến những gánh nặng bên ngoài đè trên vai của mình. Như khốn nỗi, chính trong lãnh vực của tâem linh, thường thì chúng ta cũng phải vất vả nặng nề, xác thịt đè nặng, các ham muốn của tình dục, nhiều tật xấu nào đó kìm hãm tinh thần con người, và sức nặng nào đó đã cản trở con người cũ, không chịu buông tha cuộc đời chúng ta để chúng ta được đi theo Chúa một cách an vui.

Hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy đến với Ngài, Ngài muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng hơn, Ngài muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác êm ái hơn, Ngài đến để phục hồi con người vất vả của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi sẽ tìm ra được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn”.(Mt 11, 29-30).

Vậy chúng ta hãy năng chạy đến với Chúa, để tìm được nguồn an vui và sự bình an trong tâm hồn. Amen.


Gánh nặng của Chúa Giêsu

Chưa bao giờ Chúa Giêsu nói về Cha Ngài một cách long trọng như vậy: “Lạy Cha là Chúa trời đất”. Đây là một trong những lúc mãnh liệt nhất của Tin Mừng. Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài biết rõ vị Chúa tể trời đất đến nỗi chúng ta ngạc nhiên về những ánh sáng đầu tiên của mầu nhiệm khôn lường này: nơi Thiên Chuá duy nhất có những động thái tình yêu, những mối “quan hệ” mà chúng ta trình bày bằng những tiếng: Cha, Con và Thánh Thần. Tôi nghĩ rằng phải dành ra một lúc để chiêm ngắm và cảm tạ vì những ánh sáng đã không thể đến với chúng ta được: “Con chúc tụng Ngài, lạy Cha, Đấng mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Có lúc chúng ta nghĩ rằng chúng ta không là gì cả. Điều này không đúng. Thiên Chúa không yêu thương cái không là gì cả. Chúng ta là một cái gì đó và thậm chí vĩ đại bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Đến sống cuộc sống của chúng ta và biết rõ cuộc sống đó, nhất là cuộc sống của những người bé mọn, Ngài nói với chúng ta: “Hãy đến cùng Ta, hỡi tất cả những ai mỏi mệt và gánh nặng”.

Gánh nặng nào? Gánh nặng của cuộc đời hết sức khó khăn và đôi khi người ta còn chất thêm luật lệ tôn giáo quá đáng hay được chỉ dẫn không đúng. Thế là người ta cảm thấy sợ hãi không thể tuân giữ các giới răn, không bao giờ có thể làm vui lòng Chúa. Điều đó lấy mất tự do nội tâm và niềm vui của chúng ta, tước mất Thiên Chúa khỏi chúng ta. Nếu Ngài là Đấng làm cuộc sống chúng ta nặng nề, thế thì Ngài đâu phải là Thiên Chúa Tình yêu?

Chúa Giêsu đã mạnh mẽ tố giác những kẻ làm gương xấu cho những người bé mọn: “Các luật sĩ và Pharisêu nói mà không làm: họ đặt những gánh nặng lên vai những người khác trong khi họ không muốn đụng ngón tay vào: *Mt 23,3-4).

Có lẽ chúng ta đã bị chấn thương do những kẻ ra sức làm cho chúng ta trở thành những người luôn luôn có mặc cảm tội lỗi. Thật rất khó mà thoát ra được một sự giáo dục vụng về. Tôi chỉ biết có mỗi một cách là không ngừng đến với Chúa Giêsu, chiêm ngắm Ngài, lắng nghe Ngài, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài là Đấng đã nói: “Ta, Ta có thể cho người nghỉ ngơi an bình cùng với Chúa”.

Đó không phải là một an bình với một Thiên Chúa giả hiệu là Đấng luôn luôn bằng lòng với chúng ta theo giá rẻ mạt, Chúa Giêsu nói: “Hãy mang lấy ách của Ta”. Đây thật là một cái ách bởi vì đây là một điều luật. Không ai có thể bỏ qua điều luật, và luật của Chúa Giêsu, tức luật tình yêu, cho dầu bó buộc nhất, vẫn là một sự đòi hỏi vô cùng. Nhưng đây là một sự nghịch lý được Chúa Giêsu khẳng định nếu không thì chúng ta khó mà chấp nhận: “Ách ta êm ái, gánh ta nhẹ nhàng”. Luật của Chúa Giêsu duy trì chúng ta trong sự cố gắng nhưng để cho chúng ta được an bình. Nếu một gánh nặng làm tê liệt chúng ta và làm cho chúng ta buồn khổ thì chắc hẳn đó không phải là gánh nặng của Chúa Giêsu.


Ai là người mở mắt?

Ba chương 11, 12 và 13 của thánh Matthêu xoay chung quanh các chủ đề ‘dấu kín’ và ‘tỏ bày’. Chúa tỏ bày một giáo huấn và tự tỏ bày chính mình. Giáo huấn không phải là hoàn toàn mới lạ vì dân Do thái đã được Thiên Chúa dậy dỗ nhiều. Nhưng Đức Kitô mở những viễn ảnh mới cho những chân lý cũ và có được điều ấy là vì Ngài liên kết những chân lý ấy với con người của Ngài. Mục đích của Ngài là hướng dẫn các tâm trí khám ra bản tính con Thiên Chúa của Ngài. Vì vậy ở đây chân lý không phải là sự khám phá của trí khôn sau những cố gắng học hỏi cho bằng là một cuộc gặp gỡ của toàn thể con người đáp lại một sự sẵn sàng thâm sâu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài vì Chân Lý được tỏ ra như một cuộc gặp gỡ cho những ai có tâm trí không chất chứa và tấm lòng sẵn sàng đón nhận. Đáng lẽ những kẻ đầu tiên đón nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô của Thiên Chúa phải là các vị tiến sĩ luật pháp, vì Lề Luật và các tiên tri loan báo Đức Kitô. Rủi thay, cái học tinh thần quá họ chất chứa nặng nề những lý luận tinh tế, những ý niệm trí thức, những tranh luận diễn giải. Mọi thứ ấy sinh ra tri thức tự mãn và bởi nó sinh ra kiêu ngạo. Vô tình họ đã dựng nên trước tâm trí một bức màn chắn. Trên đó họ thích thú nhìn ngắm hình dáng chính mình và do đó không còn có thể nhận ra lối Chúa đi qua, ở bên kia bức màn. Ý thích của Chúa Cha không phải là muốn các người khôn ngoan và tài khéo dựng nên một màn chắn trước họ, điều này thật tai hại, nhưng là muốn cho các người hèn kém và nhỏ bé có khả năng nhận diện Đấng yêu mến và giải thoát họ.

1) Cho người ‘nhỏ bé’ Chúa ban khả năng nhận biết Chúa Cha qua Chúa Giêsu. Qua các lời nói, việc làm và con người Chúa Giêsu, họ thấy được rằng giữa Đấng tỏ lộ trước mắt họ và Thiên Chúa có một tương quan đặc biệt tạo bằng gắn bó mật thiết và sanh thành như Cha với Con. Tư tưởng Do thái không quan niệm Thiên Chúa như là Cha, nhưng chỉ theo nghĩa Thiên Chúa tốt lành, chăm sóc và tạo thành. Quan niệm Thiên Chúa là Cha đến mức độ con người mang tên Giêsu lại là con đồng bản tính với Ngài, quả thật quá đáng và phạm thượng. Thực ra, mặc khải một việc như thế vượt quá những khả năng nhân loại, đó là một ơn Thiên Chúa ban. Những kẻ được lãnh nhận ơn ấy là các tâm trí hèn kém, đơn giản, cởi mở, ‘nhỏ bé’.

2) Đức Giêsu mà Chúa Cha dùng làm trung gian để tự biểu lộ, Người là ai? Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Chúa Giêsu sống tận cùng mầu nhiệm nhập thể. Đến chia sẻ thân phận làm người. Người muốn xuống tận kinh nghiệm nhân loại của kẻ hèn kém, nhỏ bé nhất và kẻ ấy phải có được một lối đi đến Người. Hơn nữa, vì những kẻ sẵn sàng đón nhận Chân lý, nhất là những tâm trí giản đơn và tình nguyện, vì những kẻ dễ dàng cảm nhận nhu cầu đến Chúa Cha nhiều nhất (ngay cả qua những thái độ phản kháng tiêu cực) là những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn nhất, cho nên Chúa Giêsu thích mặc khải Chúa Cha cho những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn.


Thiên Chúa của chúng ta khiêm hạ thế nào.

Mọi tôn giáo trên thế giới đều đòi hỏi những tín hữu phải tự hạ trước vị thần linh của họ, nhưng tôn giáo của chúng ta là tôn giáo duy nhất mà Con Thiên Chúa đã tự hạ trước dân của Người.

Chúa Cha đã sống với Chúa Con trong tình âu yếm của Chúa Thánh Thần tự đời đời. Đời sống của Thiên Chúa là một đời sống vinh quang và hoàn hảo, nhưng đến khi thời gian viên mãn Thiên Chúa đã sai Con của Người làm Đấng Cứu Độ chúng ta, làm con người giống như chúng ta mọi đàng ngoại từ tội lỗi. Một lời kinh của Giáo hội đã dâng lên Chúa Giêsu: “Khi Người trở nên con người để giải thoát chúng ta, Người đã không khinh chê lòng dạ của Đức Nữ Trinh” (Te Deum). Sự Nhập Thể là một hành động cao cả của sự khiêm nhượng.

Một số người nói rằng nếu chúng ta có thể thấy Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể với tất cả sự rực rỡ vinh quang thần tính của Người, chúng ta sẽ sấp mình thờ lạy trong sự sợ hãi, không dám đưa mắt nhìn lên vẻ mặt huy hoàng của Người. Nhưng đó không phải là mối quan hệ mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có với Người. Chúa Giêsu hiến tặng cho chúng ta một sự mời gọi nồng ấm, hãy sống thân mật với Người trong tin tưởng và yêu mến mà không có sợ hãi. Người đã không thể nói thẳng cách rõ ràng hơn. Người nói: “Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Kể từ khi chúng ta không còn sợ hãi Chúa Giêsu, nhưng là thân mật với Người. Chúng ta đừng bao giờ ngần ngại mang đến cho Người những gánh nặng của chúng ta để Người nâng đỡ cho. Chúa Giêsu đã nói về ách của Người. Ách là một cái cày bằng gỗ nặng, nó được đóng để đặt lên cổ của đôi bò, để giữ chúng lại và để chúng kéo xe. Có lẽ khi còn nhỏ, Chúa Giêsu đã thấy thánh Giuse đóng những cái ách như vậy và đã biết nó nặng như thế nào rồi. Người quyết định sẽ dạy cho mọi người biết tôn giáo của Người không giống như cái ách nặng nề bằng gỗ đó. Đó là lý do vì sao Người phán: “Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.

Tiên tri Zacaria, được linh ứng bởi Thánh Thần đã thấy một hình ảnh Đấng Mêsia ngự đến. Ông tuyên bố với toàn dân: “Hãy nhìn xem Vua ngươi đang đến”. Và vụ Vua này không đến với hoàng bào vương giả và không cỡi trên một con ngựa chiến. Đúng hơn Người hiền lành, cỡi trên một con lừa non nớt, con lừa con của lừa mẹ. Người đã đến không phải cỡi trên mình ngựa như một vị vua oai nghi tiến vào cuộc chiến nhưng trên một con vật chậm chạp mà người nông dân dùng để dọn đất.

Chúa Giêsu đã làm viên mãn hình ảnh này bằng việc Người tiến vào thành phố Giêrusalem vào Chúa Nhật Lễ Lá. Nơi đó, Người đã trải qua hành vi lớn lao nhất của sự khiêm nhượng: ấy là cuộc thương khó và cái chết của Người trên thánh giá để cứu chuộc chúng ta. Ý tưởng về một Thiên Chúa khiêm hạ như vậy khiến cho không một trí tưởng tượng của con người nào có thể nghĩ tới. Chỉ khi Thiên Chúa mạc khải, tư tưởng chúng ta mới có thể nghĩ tới và tình yêu của người dành cho chúng ta trở thành một thực tại trong đời sống của chúng ta.

Trong mỗi thánh lễ chúng ta lắng nghe trong lòng chúng ta lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả và gánh nặng, Ta sẽ đến bổ sức cho các ngươi”. Khi đi đến với Chúa Giêsu là chúng ta xếp hàng đi hướng về vị chủ tế để rước lễ, vị chủ tế hành sự như Chúa Giêsu, giới thiệu với chúng ta Mình và Máu Thánh của Người, làm của nuôi thiêng liêng bổ sức thần linh cho chúng ta. Chúng ta đến với Chúa Giêsu bởi vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Trong Người, linh hồn của chúng ta tìm thấy sự nghỉ ngơi vì ách của Người thì êm ái và gánh của Người thì nhẹ nhàng.


Hiền lành

Ngài sẽ chẳng bẻ gãy cây sậy đã dập nát, cũng chẳng thổi tắt tim đèn còn khói. Đó là những lời tiên tri Isaia đã loan báo về Đấng Cứu Thế, qua đó chúng ta thấy được khuôn mặt của Ngài. Một khuôn mặt hiền hòa khả ái.

Thực vậy, Ngài đã không đến trong sấm chớp mưa dông, nhưng đến trong một đêm đông lạnh giá. Ngài không phải là một vị tướng lãnh oai hùng trong chiến trận, nhưng là một người cha giàu lòng thương xót.

Khí giới của Ngài không phải là gươm giáo và súng đạn, nhưng là giới luật yêu thương. Đúng thế, Ngài đã xác quyết:

- Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau.

Và Ngài còn nhấn mạnh hơn nữa:

- Nếu ai tát má bên phải của con, thì hãy đưa cả má bên trái cho nó nữa.

Đồng thời, Ngài đã khuyến khích chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài. Thế nhưng noi gương bắt chước Ngài ở điểm nào, nếu không phải như Ngài đã khẳng định:

- Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhưỡng trong lòng.

Ngài là Thiên Chúa quyền năng, thế mà đã trở nên như một con chiên hiền lành trước người thợ xén lông.. Vì thế, hiền lành chính nhân đức của người mạnh và phải có bản lãnh mới kiềm chế nổi sự nóng giận của mình. Vậy nhân đức hiền lành nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta?

Kinh nghiệm cho thấy: chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những buồn phiền, vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi, khuyết điểm của mình. Hơn thế nữa, bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng.

Bởi đó, chúng ta cần phải biết quên đi và tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng, vì một sự nhịn là chín sự lành.

Chính sự hiền lành sẽ tạo nên trong gia đình một bầu khí hòa thuận và êm ấm:

- Chồng giận thì vợ bớt lời,

Cơm sôi nhỏ lửa, chẳng đời nào khê.

Chính sự hịền lành sẽ bắc được một nhịp cầu cảm thông và sẽ tạo được những mối liên hệ tốt ngoài xã hội giữa chúng ta với nhau, bởi vì:

- Già néo thì đứt giây.

- Bên thẳng thì bên phải chùng,

Cả hai đều thẳng, thì cùng đứt dây.

Kinh nghiệm cũng cho thấy những đổ vỡ xảy ra phần lớn chỉ vì sự nóng giận, nhiều khi rất vô lý của chúng ta.

Thực vậy, quan sát một con sư tử mắc bẫy. Bẫy chỉ là những sợi dây. Thế nhưng, nếu con sư tử càng lồng gầm gừ, càng dãy dụa thì những sợi dây lại càng xiết chặt. Còn nếu nó bình tĩnh, dùng hàm răng nhọn hoắt mà cắn dần những sợi dây, thì chẳng mấy chốc, nó sẽ được giải thóat.

Bởi đó, người ta thường bảo:

- Giận quá thì mất khôn.

Sự nóng giận là như dầu đổ vào lửa, làm cho lửa bùng cháy lên. Trong khi đó, sự hiền lành là như thùng nước dập tắt ngọn lửa. Đúng thế, sự hiền lành bao giờ cũng xoa dịu, cũng hàn gắn. Một thanh sắt nóng đỏ, nếu đem ngâm trong nước, nó sẽ nguội ngay lập tức.

Để kết luận, tôi xin kể lại mẫu gương của thánh Phanxicô Salêsiô. Thời còn trai trẻ, ngài là một người có tính nóng như lửa đốt, hơi một chút là nổi sùng, hơi một chút là quát tháo. Phải mất hơn hai mươi năm tập luyện. ngài mới trở thành một vị thánh hiền dịu và dễ thương.

Ngày kia, có một người đang tức giận đối với ngài. Ông ta xua bày chó sang tòa giám mục để chúng sủa vang. Còn ông ta và đám gia nhân thì bước vào phòng ngài và chửi bới om xòm. Chính ông ta đã nhổ nước miếng vào mặt ngài. Thế nhưng, ngài vẫn yên lặng, bình tĩnh rút khăn ra lau. Chính thái độ hiền hòa khả ái này đã cảm hóa được ông ta, khiến ông ta sám hối và quay trở về cùng Chúa.

Như vậy, hiền lành không phải là hèn nhát, nhưng là anh hùng. Kẻ khác đánh chúng ta và chúng ta đánh trả lại, thì đó chỉ lả phản ứng thông thường của loài vật. Trái lại, kẻ khác đánh chúng ta mà chúng ta vẫn tha thứ, vẫn cầu nguyện cho họ, thì đó mới là thái độ anh hùng, xứng đáng với địa vị của con người.

Hơn thế nữa. sự hiển lành còn là một phương tiện hữu hiệu nhất để cảm hóa người khác, bởi vì chỉ với một giọt mật, người ta có thể bắt được nhiều ruồi hơn cả một thùng dấm chua.

home Mục lục Lưu trữ