Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 66
Tổng truy cập: 1358081
KHỞI ĐẦU CÔNG KHAI SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊSU
Vào ngày 30/09/2019 khi cử hành lễ kỷ niệm 1600 năm thánh Giê-rô-ni-mô qua đời, người là dịch giả bản Kinh Thánh La-tin nổi tiếng và là người khẳng định rằng “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô”, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ban Tông Sắc “Aperuit Illis” (“Ngài đã mở trí cho họ”) để ấn định Chúa Nhật III Thường Niên là “Chúa Nhật Lời Chúa”.
Thật ra, mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta tôn kính Lời Chúa là nguồn sống của các tín hữu. Hiến Chế Mặc Khải viết: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (“Hiến Chế Mặc Khải”, số 22).
Vì thế, khi ấn định Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu ý thức nhiều hơn về tầm quan trọng của Lời Chúa trong cuộc sống của mình khi đề nghị “các linh mục ở giáo xứ có thể tìm ra hình thức tương xứng nhất để đặt cuốn Kinh Thánh, hay một trong các sách của bộ Kinh Thánh, cho toàn thể cộng đoàn, để làm nổi bật tầm quan trọng của việc tiếp tục đọc bản văn trong đời sống hàng ngày, để đào sâu bản văn và để cầu nguyện với Kinh Thánh, trong khi tham chiếu bằng cách thế đặc biệt theo cách đọc Lectio Divina” ( “Tông Sắc Aperuit Illis, số 3”).
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thương Niên Năm B thuật lại những đáp trả mau mắn không một chút trì hoãn trước Lời Chúa.
Gn 3: 1-5, 10
Dân thành Ni-ni-vê, dù là một thành phố ngoại giáo, đã đáp trả tích cực bằng hành vi ăn năn sám hối trước lời Thiên Chúa phán qua ngôn sứ Giô-na.
1Cr 7: 29-31
Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy sống tận mức ơn gọi Ki-tô hữu của mình vì chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của ơn cứu độ.
Mc 1: 14-20
Các môn đệ tiên khởi đã đáp trả triệt để bằng cách từ bỏ nghề nghiệp và gia đình trước lời Đức Giê-su kêu gọi.
BÀI ĐỌC I (Gn 3: 1-5, 10)
Sách Giô-na được viết theo thể loại ngụ ngôn luân lý, theo đó trí tưởng tượng trộn lẫn với óc khôi hài; nhưng giáo huấn của sách mở ra những viễn cảnh phổ quát.
Ngôn sứ Giô-na không là tác giả, nhưng là nhân vật chính của câu chuyện được kể trong sách. Chúng ta không biết một chút gì về tác giả. Theo lời kể trong sách, ngôn sứ Gio-na được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ vụ của mình cho dân thành Ni-ni-vê ngoại giáo vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Tuy nhiên, thành đô nầy đã bị phá hủy vào năm 612 trước Công Nguyên, tức là thành đô nầy đã không còn nữa trước đó gần hai thế kỷ. Vì thế, bối cảnh của chuyện kể là hư cấu và nhân vật là tưởng tượng.
*1.Bài học của câu chuyện:
Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải ở nơi tính lịch sử của câu chuyện nhưng bài học mà câu chuyện muốn gởi gắm. Việc chọn thành đô nầy có một ý nghĩa chính xác: Ni-ni-vê là kinh đô của đế quốc Át-sua vào thời cực thịnh. Đây là thành phố thù địch không đội trời chung với dân Do thái và là biểu tượng tinh hoa của thế giới ngoại giáo.
Ấy vậy, khi vị ngôn sứ cất bước công bố sứ điệp của Thiên Chúa chưa hết một phần ba kinh thành, thì toàn thể dân thành đã ăn năn sám hối, từ vua quan cho đến thường dân. Đây mới thật sự là một bài học nhớ đời cho dân Ít-ra-en. Khi đọc câu chuyện này, làm thế nào dân Do thái không thể không nghĩ đến việc ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố những lời cảnh báo nghiêm khắc như thế cho dân thành Giê-ru-sa-lem để kêu gọi họ ăn năn sám hối? Ấy vậy, triều thần và ngay cả vua đã ra lệnh đốt sách của vị ngôn sứ. Đó là lý do tại sao thành đô Giê-ru-sa-lem đã bị đánh chiếm và bị phá hủy, còn dân thành đã phải chịu cảnh lưu đày ở đất khách quê người.
Chính Đức Giê-su nêu gương sám hối của dân thành Ni-ni-vê như một bài học cho thế hệ của Ngài: “Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ nầy và sẽ kết án họ, vì xưa dân nầy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa” (Mt 12: 41).
*2.Ơn cứu độ phổ quát:
Thật ra, nhân vật chính của sách không là ngôn sứ Giô-na mà chính là Thiên Chúa, Ngài không chỉ là Thiên Chúa của dân Do thái, nhưng còn là Thiên Chúa của muôn dân nữa. Ngài quan tâm đến những tội lỗi của một dân ngoại giáo; nhưng trước khi trừng phạt dân này, Ngài sai một vị ngôn sứ đến với họ như Ngài đã từng làm đối với dân Ngài chọn. Như vậy, Thiên Chúa ban khả năng cứu độ cho hết mọi người không trừ một ai. Ngài chỉ cốt cảnh báo để đánh thức lương tri và thúc dục lòng ăn năn sám hối, vì thế, tấm lòng từ bi nhân hậu của Ngài trải rộng ra với hết mọi dân nước.
BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 28-31)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, thánh nhân trả lời những vấn nạn mà cộng đoàn đã nêu lên cho ngài; đoạn ngài loan báo một vấn đề cốt yếu: “Tôi xin nói với anh em điều nầy: thời gian chẳng còn bao lâu nữa”.
*1.Lời loan báo gây sững sốt:
Chúng ta lưu ý rằng bản dịch: “thời gian chẳng còn bao lâu nữa” không thể lột tả hết tư tưởng của thánh nhân. Theo nguyên ngữ Hy lạp, lời loan báo nầy gợi lên một hình ảnh rất sống động: “đây là lúc các buồm thuyền đã được cuốn lại” khi con thuyền sắp cập bến. Vì thế, đây là thời gian thuận tiện, các tín hữu phải hành xử như người sắp cập bến đời đời.
*2.Phần minh chứng:
Tiếp đó, thánh nhân đưa ra những minh chứng được kết nối vào nhau một cách tự nhiên như một chuỗi các mắc xích: từ nay, những ai sống đời sống vợ chồng, đừng gắn bó với những ham muốn xác thịt; những ai sống trong phiền muộn, đừng than khóc như những người không có niềm hy vọng; những ai sống trong niềm vui, hãy nghĩ rằng hạnh phúc trần thế chỉ là thoáng qua; những ai có nhiều của cải, đừng cho mình là chủ nhân; vân vân.
*3.Chủ đích của thánh Phao-lô:
Phải chăng thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sắp đến gần rồi? Cũng có thể lắm, nhưng đó không là điều tất yếu. Thánh nhân đã khai triển chủ đề nầy rồi. Thật ra, trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dường như thánh nhân hy vọng rằng ngày Chúa quang lâm sẽ xảy đến vào thế hệ của ngài: “Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu” (1Tx 4: 15). Nhưng trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sẽ đến khi nào toàn thể dân Ít-ra-en ăn năn sám hối (Rm 11: 25-26). Chúng ta có thể nói rằng đối với thánh nhân, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô đã làm tăng tốc Lịch Sử Cứu Độ. Chúng ta đã bước vào kỷ nguyên cứu độ, nghĩa là sống trong thời kỳ viên mãn. Như vậy, cách ăn nếp ở của những người Ki-tô hữu phải khác với dân ngoại. Chúng ta không được sống nước đôi, bắt cá hai tay, vì chúng ta biết rằng thế giới nầy đang qua đi.
TIN MỪNG (Mc 1: 14-20)
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần thứ nhất nói về “khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giê-su” (1: 14-15) và phần thư hai “Chúa Giê-su kêu gọi bốn môn đệ tiên khởi” (1: 16-20).
*1.Khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su (1: 14-15):
Trong phần thứ nhất, với thông tin “sau khi ông Gioan bị nộp”, thánh Mác-cô cho chúng ta biết Chúa Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài ngay khi sứ vụ của Gioan Tẩy Giả chấm dứt. Hơn nữa, trong Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô cũng sử dụng động từ “bị nộp” để nói về cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Giê-su. Như vậy, qua động từ “bị nộp”, thánh ký cho thấy có một mối tương quan mật thiết giữa sứ vụ của hai người: số phận của Gioan Tẩy Giả tiên báo số phận của Đức Giê-su.
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su được tóm lược ở nơi lời công bố này: “Thời đại đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”. Trước hết, Chúa Giê-su loan báo thời kỳ hiện nay đến hồi chấm dứt và một thời đại mới, thời đại cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Đó là thời Thiên Chúa đã ấn định để thực hiện và hoàn thành các lời hứa của Người.
Kể từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày tại Ba-by-lon, dân Do thái đặt tất cả mọi niềm hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và thiết lập Vương Quyền của Ngài trên mọi dân nước (Mk 4: 7; Xp 3: 15b; Dcr 14: 9; vân vân). Ở đây, Chúa Giê-su khẳng định rằng với sự hiện diện của Ngài, “Triều Đại Thiên Chúa” đã đến và đang hiện diện ở đây.
Sau cùng, Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi tấm lòng sám hối, tức là thay đổi đời sống. Việc thay đổi đời sống này phải được bày tỏ ra bên ngoài bằng việc tin vào Tin Mừng. Nội dung của Tin Mừng được xác định ngay từ đầu: “Tin Mừng của Thiên Chúa”, nghĩa là Tin Mừng phát xuất từ Thiên Chúa chính là Đức Giê-su Ki-tô, Người là hiện thân Tin Mừng của Thiên Chúa.
*2.Chúa Giê-su kêu gọi bốn môn đệ tiên khởi (1: 16-20):
Trong phần thứ hai, thánh Mác-cô soạn thảo hai bài trình thuật ngắn về việc Chúa Giê-su gọi bốn môn đệ đầu tiên (1: 16-18 và 1: 19-20). Hai bài trình thuật tuy có vài điểm khác nhau nhưng bổ túc cho nhau để nêu bật sáng kiến của Đức Giê-su và lời đáp trả mau mắn của các môn đệ. Chính Chúa Giê-su đích thân gặp gỡ các môn đệ đầu tiên này ngay nơi họ đang làm việc và cất tiếng kêu gọi họ đi theo Người, tức là trở thành môn đệ của Người (1: 17 và 1: 20). Sau này trong Tiệc Ly, Chúa Giê-su nói rõ ra: “Không phải anh em đã chọ Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái anh em được tồn tại” (Ga 15: 16). Đối với những ngư phủ biển hồ Ga-li-lê này, Chúa Giê-su dùng chính hình ảnh nghề nghiệp của họ để loan báo sứ mạng sau này của họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”.
Hai bài trình thuật về ơn gọi của bốn môn đệ đầu tiên cung cấp một khuôn mẫu cho ơn gọi của tất cả các môn đệ Chúa Giê-su. Sự kiện các môn đệ đầu tiên này chưa được chuẩn bị tinh thần cũng như tâm lý cốt là để nhấn mạnh trọng điểm của câu chuyện: Đức Giê-su và lời kêu gọi của Người hấp dẫn đến độ không bất kỳ sự chuẩn bị nào là cần thiết; các môn đệ đầu tiên đòi buộc dấn thân theo Người với trọn tấm lòng say mê. Họ sẵn sàng đoạn tuyệt với gia đình và nghề nghiệp (1: 18 và 1: 20) và mau mắn đi theo Đức Giê-su mà không một chút đắn đo cân nhắc hơn thiệt.
Khi Thiên Chúa kêu gọi ai, việc đầu tiên là đòi hỏi người đó phải từ bỏ. Ơn gọi đầu tiên trong Cựu Ước cũng theo một khuôn mẫu như thế. Khi Thiên Chúa kêu gọi tổ phụ Áp-ra-ham, Người cũng đòi hỏi ông: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi…” (St 12: 1). Ơn gọi đầu tiên trong Tân Ước cũng không ngoại trừ. Câu chuyện ơn gọi đầu tiên này nhấn mạnh cái giá phải trả để trở thành môn đệ của Chúa Giê-su: bỏ lại sau lưng gia đình, tức là tình cảm thiêng liêng và cao quý nhất của một con người, và nghề nghiệp, tức là sự đảm bảo cho mình địa vị và kinh tế trong xã hội để cùng “đồng hội đồng thuyền, đồng sinh đồng tử” với Thầy. Vì thế, đối với những ai mà Người muốn liên kết vào sứ mạng của Người một cách tận mức, Đức Giê-su đòi hỏi một tinh thần siêu thoát triệt để: không có bất cứ cái gì ngăn trở người ấy hoàn toàn thuộc về Ngài. Nhưng ai có thể đòi hỏi tận mức đến như thế nếu không phải là Thiên Chúa?
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA GIÊSU KÊU GỌI CON NGƯỜI HỢP TÁC- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Gn 3,1-5.10) : Chúa kêu gọi ngôn sứ Giona đến thành Ninivê rao giảng sự sám hối.
– Tin Mừng (Mc 1,14-20) : Bài tường thuật của Thánh Mác cô về việc Đức Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên.
– Bài đọc II (1 Cr 7,29-31) : Mọi giá trị trần gian đều không bền, vậy hãy xử dụng những của cải thế gian với một tấm lòng không dính bén.
*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm Chúa nhật vừa qua nói về ơn kêu gọi. Lời Chúa hôm nay tiếp tục đề tài đó. Thật ra không phải chỉ những kẻ đi tu mới được Chúa kêu gọi, mà tất cả mọi tín hữu đều được Chúa kêu gọi, mỗi người một sứ mạng theo đấng bậc của mình.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ý thức ơn gọi và sứ mạng của mình.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Lời đầu tiên của Đức Giêsu khi bắt đầu rao giảng là “Hãy sám hối”. Chúng ta hãy ý thức thân phận tội lỗi của mình và sám hối quay về với Chúa.
– Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta “Hãy tin vào Tin Mừng”. Trên thực tế, chúng ta chưa siêng năng đọc Tin Mừng và sống theo Tin Mừng bao nhiêu.
– Nhiều lần Chúa kêu gọi chúng ta làm việc tông đồ, phục vụ Giáo Hội. Nhưng chúng ta cứ giả điếc làm ngơ.
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I (Gn 3,1-5.10)
Trong lịch sử, Ninivê là thủ đô của Đế quốc Assyria, kẻ thù đã nhiều lần tấn công dân do thái. Vì vậy, trong đầu óc người do thái, Ninivê luôn là một thành phố xấu xa, tội lỗi và đáng bị trừng phạt.
Chính vì thế, khi Thiên Chúa gọi ngôn sứ Giona đi Ninivê rao giảng sự sám hối để được thứ tha, Giona rất khó chịu. Ông cũng đi nhưng cố tình đi lạc đến một nơi khác. Nhưng làm sao mà con người có thể đánh lừa được Thiên Chúa. Thiên Chúa cho tàu chở Giona bị bão, thuỷ thủ quăng ông xuống biển. Một con cá lớn nuốt ông vào bụng rồi nhả ông lên bờ biển Ninivê. Cuối cùng Giona chỉ còn đành theo lệnh Chúa vào thành rao giảng. Kết quả là dân thành đã ăn năn sám hối và được Chúa thứ tha.
Câu chuyện này đề cập – một cách phản diện – đến ơn gọi và sứ mệnh của kẻ được gọi : Chúa gọi ai không phải để người đó làm theo ý mình, mà làm theo ý Chúa cho dù ý Chúa rất trái ngược với ý riêng mình ; người được gọi có thể rất bất xứng, như Giona, nhưng đó là một dụng cụ Chúa dùng, và Chúa biết cách dùng để dụng cụ ấy sinh ra hiệu quả.
*2. Đáp ca (Tv 24)
Đây là lời van lơn của người tội lỗi, xin Chúa chỉ đường mở lối cho họ theo. Lời van xin này có thể đặt vào miệng dân thành Ninivê tội lỗi, và dĩ nhiên cũng có thể đặt vào môi miệng của chúng ta.
*3. Tin Mừng (Mc 1,14-20)
Bài Tin Mừng ngắn này gồm hai phần :
– Các câu 14-15 : Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài chọn nơi xuất phát là vùng đất Galilê đa số là lương dân. Nội dung rao giảng chính của Ngài là “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
– Các câu 16-20 : Đức Giêsu kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên là hai cặp anh em Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan. Những điểm đáng lưu ý là : a/ Ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Đức Giêsu (chính Ngài gọi 4 người ấy chứ không phải họ xin đi theo Ngài) ; b/ Ngài gọi họ ngay trong môi trường làm việc của họ (bên bờ biển), trong lúc họ đang làm việc bình thường (vá lưới) ; c/ Đáp lại, người được gọi phải từ bỏ tất cả để theo Ngài.
*4. Bài đọc II (1 Cr 7,29-31)
Thánh Phaolô giúp các tín hữu suy nghĩ về giá trị của những thực tại trần thế : hạnh phúc gia đình, những niềm vui nỗi buồn, những của cái vật chất… So với Nước Trời, tất cả những thứ kể trên đều chỉ là những thứ chóng qua chứ không bền vững. Vì thế Thánh nhân kêu gọi : “ai có vợ hãy ăn ở như không có, người than khóc hãy ăn ở như không than khóc, kẻ hân hoan hãy ăn ở như không hân hoan, người mua sắm hãy ăn ở như không có gì”.
Thật là những lời rất lạ lùng và khó hiểu. Nhưng đó là chân lý. Và chỉ những ai ý thức được chân lý này mới có thể từ bỏ tất cả để đáp lại tiếng Chúa kêu gọi.
*IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Tiếng Chúa kêu gọi
Phụng vụ hôm nay có một chủ đề chính, đó là “Tiếng Chúa kêu gọi”. Bài Cựu Ước nói về việc Chúa gọi tiên tri Giona đi rao giảng lòng sám hối cho dân Thành Ninivê. Bài Trích thư gởi giáo dân Côrintô nói về sự cấp bách phải đáp lại tiếng Chúa gọi mà hoán cải đời sống. Còn bài Tin Mừng thì nói về việc Chúa gọi 4 Tông đồ đầu tiên là Anrê, Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Người thường hiểu “tiếng Chúa kêu gọi” theo nghĩa hẹp, đó là Chúa gọi một người nào đó từ bỏ thế gian đi tu làm việc tông đồ cho Chúa trong cương vị của một Linh mục, hay một Tu sĩ. Hiểu rộng thêm một chút thì “Tiếng Chúa kêu gọi” cũng có thể là ý Chúa có liên quan đến cuộc sống của mình, hoặc là đi tu, hoặc có gia đình. Nhưng hiểu như thế vẫn còn hẹp nghĩa lắm. Không phải là Chúa chỉ gọi chúng ta đi tu hoặc có gia đình, mà tiếng Chúa còn vang lên kêu gọi chúng ta rất nhiều lần trong cuộc đời.
Mặc dù Chúa vô hình nhưng Chúa vẫn nói chuyện với chúng ta bằng nhiều cách thức khác nhau : Thời Cựu Ước Chúa nói với loài người qua trung gian các ngôn sứ. Trong 33 năm Đức Giêsu sống ở trần gian, Chúa trực tiếp nói chuyện với loài người bằng miệng bằng lưỡi, như Chúa đã kêu gọi 4 tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Còn ngày nay, Chúa vẫn nói, vẫn gọi chúng ta bằng nhiều cách thức :
. Có khi là trong một lần chúng ta sốt sắng cầu nguyện.
. Có khi trong lúc ta đọc một đoạn Tin Mừng, nghe một bài giảng.
. Và rất nhiều khi Chúa nói với ta qua những biến cố cuộc đời, nhất là những biến cố buồn, như bệnh tật, thất bại, khổ sở, không được vừa ý.
Chúa vẫn còn nói, còn gọi. Nhưng có người thì nghe, có người thì không nghe ; có người làm theo, có người bỏ qua.
Và khi chúng ta đã được nghe tiếng Chúa, đã được biết Chúa muốn mình phải làm gì, thì chúng ta hãy lập tức không chần chừ đáp lại và làm theo tiếng Chúa kêu gọi, như gương 4 tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay.
* 2. Câu chuyện chàng trị trưởng trẻ
Tin tức trên báo chí (theo VietCatholic News ngày 22/9/2000) về chàng thị trưởng đẹp trai của thành phố Ficarra, mới 34 tuổi, đã lặng lẽ từ nhiệm để đi tu, đã gây chấn động toàn nước Ý. Hôm 20/09/2000, Antonio Mancuso đã chính thức đến trình diện tại một dòng tu ở Milan, bắt đầu cuộc đời một tu sĩ. Antonio cho biết anh đã thấy mình có ơn gọi linh mục từ ngày còn là cậu bé giúp lễ, đã suy nghĩ trong bao năm về vấn đề này và trằn trọc rất nhiều sau khi theo dõi các bài thuyết giảng của Đức Thánh Cha trong Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15. Antonio bỏ lại sau mình chức vụ thị trưởng, căn nhà do cha anh để lại, một mẹ già, hai anh em, và thành phố Ficarra xinh đẹp với 2.000 cư dân dưới quyền. Quyền thị trưởng Franco Tumeo đã xác nhận quyết định của Antonio với thông tấn xã ANSA. Ông nói : “Quyết định mà thị trưởng chúng ta đã chọn cần phải được hoàn toàn tôn trọng và hy vọng rằng không ai lợi dụng chuyện đó. Chẳng cần phải nói, chúng ta cầu chúc cho Antonio Mancuso những điều tốt đẹp nhất với xác tín rằng quyết định của anh là hoa trái của những suy nghĩ trong nhiều năm qua”. Quyết định từ nhiệm của anh sẽ khiến cho thành phố Ficarra phải bầu cử lại sớm hơn, có lẽ vào tháng 6/2001. Tạm thời một ủy ban đặc biệt sẽ thay thế công việc của nguyên thị trưởng. Với bằng chính trị học ưu hạng, Antonio đang là một ngôi sao sáng chói của đảng Dân Chủ Thiên Chúa giáo Ý. Anh đã là thị trưởng trẻ nhất của quốc gia này, lúc mới 27 tuổi, từ 1992 đến cuối tháng 9 vừa qua. Ngày 14/09/2000, một tháng kể từ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Lần Thứ 15, sau nhiều đêm không ngủ, Antonio đã từ giã tòa thị trưởng chẳng nói với ai một lời nào. Thư từ nhiệm đã được gởi đến văn phòng 2 ngày sau đó qua đường bưu điện.
* 3. Chúa cần đến con người
Thiên Chúa là Đấng quyền phép vô cùng, cho nên muốn làm bất cứ điều gì thì Ngài cũng làm được, làm cách dễ dàng, làm cách nhanh gọn, không cần vật liệu và cũng không cần ai giúp đỡ. Việc dựng nên trời đất muôn vật đã chứng mình điều này.
Tuy nhiên, trong việc cứu độ thì Ngài lại cần đến con người : Lịch sử cứu độ thời Cựu Ước bắt đầu bằng việc Thiên Chúa kêu gọi ông Abraham ; lịch sử cứu độ thời Tân Ước, như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật, bắt đầu bằng việc Chúa kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên.
Thánh Augustinô đã suy gẫm và rút ra kết luận : “Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần con góp sức con”.
Công trình tạo dựng của Chúa đã hoàn tất. Nhưng công trình cứu độ vẫn còn phải tiếp tục, vì ngày nay còn rất nhiều người chưa được cứu độ. Như thế, Chúa vẫn còn cần con người. Vì vậy Chúa tiếp tục kêu gọi, và cần có những người đáp lại lời kêu gọi đó để công tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.
Công trình cứu độ những người trong nước tôi, trong xóm tôi cũng còn phải tiếp tục. Nếu không có ai đáp lại lời kêu gọi của Chúa thì công trình ấy phải đình trệ.
*4. “Hãy sám hối“
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ bằng lời kêu gọi “Hãy sám hối”. Lời này được gửi đến ai ? Dĩ nhiên là gửi đến những người tội lỗi trước tiên. Nhưng cũng gửi đến tất cả mọi người nữa, kể cả những người tốt lành.
Nhìn lại cuộc đời Đức Giêsu, chúng ta thấy Ngài gặp rắc rối với người tội lỗi thì ít nhưng với người tốt lành thì nhiều hơn. Tại sao vậy ? Thưa vì kêu gọi người tội lỗi sám hối thì dễ, vì họ biết mình tội lỗi ; còn kêu người tốt lành sám hối thì rất khó, bởi họ không thấy có gì cần sám hối. Cũng như bảo một người bệnh đi bác sĩ thì dễ hơn bảo một người nghĩ rằng mình không có bệnh.
Bởi thế, để đáp lại lời kêu gọi sám hối thì trước hết ta phải thấy không hài lòng với chính mình và kế đó phải mong muốn cho mình được tốt hơn. Phải ý thức có một cái gì đó sai lạc hoặc ít ra là còn thiếu. Cảm nghiệm sám hối bắt đầu với sự nhận biết rằng mình chưa là điều mình phải là.
Tiếp đến, sám hối còn đòi phải có can đảm : can đảm không tự lừa dối mình nữa, và can đảm đối diện với thực tại phũ phàng của bản thân mình. Can đảm chấp nhận tội lỗi của mình và can đảm thay đổi. Sự can đảm nấy rất cần thiết, bởi vì con người thường thích đi trên những đường xưa lối cũ, con người thường đã lún sâu trong những thói quen đã ăn sâu, cho nên thay đổi rất là khó.
Có người cũng thấy một tương lai tốt lành hơn nhưng không thể thay đổi chính mình để đi đến tương lai đó, bởi vì con đường phía trước thì dài và tiến bộ thì rất chậm chạp khó khăn. Đó là lý do tại sao nhiều người thà tiếp tục sống như cũ.
Có người xem sám hối là một việc cực nhọc, tiêu cực và buồn thảm, bởi vì họ nghĩ rằng sám hối chỉ là cảm thấy mình tội lỗi và cố gắng làm việc đền tội. Thực ra sám hối là việc rất tích cực : đành rằng một mặt phải ý thức mình tội lỗi, nhưng mặt khác người sám hối cũng ý thức mình có khả năng làm điều tốt. Như thế, sám hối là có một cái nhìn mới, tiến bước theo một hướng mới, đặt cho đời mình những mục tiêu mới. Nếu hiểu được như thế thì sám hối trở thành một sức mạnh khuyến khích và luôn dẫn chúng ta tới niềm vui. (Viết theo Flor McCarthy)
Đức Tổng Giám mục Helder Camara của Braxin có lần đã chia sẻ kinh nghiệm như sau :
Tôi có người anh lớn hơn tôi 5 tuổi, đã rửa tội từ lúc mới sinh, và từng theo học nhiều năm trong trường dòng. Nhưng lớn lên anh bắt đầu bê trễ, bỏ đọc kinh, bỏ dự lễ, và cuối cùng bỏ… đạo.
Sau khi tôi thụ phong linh mục, anh cùng với tôi sống chung với người chị độc thân. Mỗi lần biết tôi sắp đi giảng tĩnh tâm, anh lại hỏi :
– Hôm nay chú nói về đề tài gì ?
Tôi lại có dịp giải thích cho anh những điều mình sắp giảng. Anh chỉ lắng nghe, không bình luận.
Tám năm sau, anh bị mắc căn bệnh hiểm nghèo. Biết mình sắp chết, anh gọi tôi lại và nói :
– Lâu nay tôi để ý quan sát, thấy không có sự cách biệt giữa lời chú giảng và việc chú làm. Vậy xin hỏi chú, tôi có thể dựa vào Đức tin của Chúa để rước lễ không ?
Tôi trả lời :
– Em tin là Chúa lòng lành vô cùng sẽ đoái thương anh.
Bấy giờ anh tôi nói trong nỗi xúc động :
– Ngay bây giờ thì chưa được đâu, vì tôi chưa xưng tội.
Tôi định tìm cho anh một linh mục khác nhưng anh đòi xưng tội với tôi. Sau khi rước lễ xong, anh thều thào trong nước mắt.
– Tôi tin, tôi tin, chú ạ. Bây giờ tôi tin không phải dựa vào đức tin của chú, mà tôi thực sự xác tín rằng Chúa yêu thương tôi !
Ít phút sau đó anh đã ra đi trong bình an, thanh thản.
*
Sống và chia sẻ niềm tin, đó là cốt lõi đời sống người tín hữu Kitô. Đó cũng là mối quan tâm hàng đầu của Đức Giêsu khi Người bước vào đời công khai rao giảng :“Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người” (Mc.1,17).
Muốn thu hút tha nhân thì chính mình phải có năng lực hấp dẫn.
Muốn hòa hợp với anh em thì chính mình phải biết chấp nhận mọi người.
Muốn chia sẻ niềm tin thì chính mình phải có niềm tin kiên vững.
Sống và chia sẻ niềm tin, bao giờ cũng đem lại kết quả tốt đẹp. Nhưng kết quả thế nào, nhiều hay ít, vào lúc nào còn do Chúa quyết định. Khi Đức Giêsu bảo Phêrô thả lưới, ông đã thưa : “Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xin thả lưới” (Lc.5,5). Kết quả thế nào chúng ta đã biết : cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo lên một mẻ cá bội thu.
Sống và chia sẻ niềm tin, là nhiệm vụ của mỗi người tín hữu Kitô. Nhưng trước tiên phải bắt đầu bằng việc đổi mới tâm hồn, bằng việc “Sám hối và tin vào Tin mừng”.
Sống và chia sẻ niềm tin, là đem tin vui đến cho mọi người. Nhưng trước hết tin vui ấy phải là niềm hân hoan đích thực, gây xúc động mãnh liệt trong lòng người đi loan báo.
Romano Guardini đã ví von : “Sống niềm tin nghĩa là đơn phương nhường chỗ cho Đức Kitô tự biểu lộ và lớn lên trong cuộc sống chúng ta“.
*
Lạy Chúa, theo Chúa không phải dễ dàng vì Chúa đòi chúng con phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi, và từ bỏ chính mình. Nhưng có Chúa cùng đồng hành chúng con vẫn sáng mãi niềm tin. Xin giúp chúng con luôn trung thành theo Chúa cho đến giây phút cuối cuộc đời. Amen.(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
*6. Một câu hỏi bất ngờ
Chuyện này kể về một vị rabbi thánh thiện. Trong tỉnh của ông, những nhà giàu ở một vùng biệt lập nên phải thuê người canh gác ban đêm.
Một đêm kia vị rabbi trên đường về nhà thì gặp một người gác dan đang đi tới đi lui. Vị rabbi hỏi : “Anh đang làm việc cho ai vậy ?” Người gác dan không trả lời mà hỏi lại : “Thế ông đang làm cho ai vậy ?” Câu hỏi quá bất ngờ, xưa nay vị rabbi chưa hề nghĩ đến. Vì thế ông bối rối đáp “Tôi không làm việc cho ai cả”. Nhưng trả lời xong ông còn bối rối thêm. Thế là hai người cứ im lặng đi tới đi lui bên nhau. Một lúc sau, vị Rabbi hỏi người gác dan : “Anh có muốn làm việc cho to không ?”. Người gác dan cũng đáp lại bằng một câu hỏi : “Nhưng ông mướn tôi để làm gì ?” Vị rabbi trả lời : “Để thỉnh thoảng ông lại hỏi tôi câu hồi này : “Ông đang làm việc cho ai vậy ?”.
Đó cũng là câu chúng ta phải thỉnh thoảng hỏi chính mình : “Tôi đang làm việc cho ai vậy ?” (Flor McCarthy)
*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng là những việc mà người Kitô hữu chúng ta phải thực hiện suốt đời. Chúng ta hãy sốt sắng xin Chúa giúp chúng ta.
1). Hội thánh còn đang hành trình trên trần gian thì còn có nhiều gương xấu / Xin cho những người đang làm gương xấu trong Hội thánh biết ăn năn sám hối.
2). Nhìn trong thế giới và trong xã hội chúng ta hôm nay / có nhiều người xấu và việc xấu / Xin cho họ biết nhận ra những hậu quả tai hại của các việc xấu họ làm / để họ thật lòng ăn năn sám hối
3). Có nhiều người đang là nạn nhân của những người xấu và việc xấu / xin cho họ biết tin tưởng ở Tin mừng để được nâng đỡ và ủi an.
4). Chính trong cộng đồng giáo xứ của chúng ta, còn nhiều người làm những việc xấu / Xin cho họ biết ăn năn sám hối và trở về với Tin mừng của Chúa.
Chủ tế : Lạy Chúa là Cha hay thương xót, Chúa đã đánh động cả một thành lớn để họ ăn năn hối cải, xin Chúa cũng đánh động mỗi người chúng con để chúng con biết thật lòng sám hối. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô…
*VI. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Hợp lòng hợp ý với tất cả những người được Chúa kêu gọi, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con lắng nghe những tiếng gọi của Cha, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
*VII. GIẢI TÁN
Chúa kêu gọi mỗi người chúng ta làm tông đồ của Chúa giữa trần gian. Cũng như Giona, cũng như Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan, chúng ta hãy hăng hái vào đời thi hành nhiệm vụ Chúa giao
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam