Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 49

Tổng truy cập: 1359592

KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN

KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN

 

(Trích từ ‘Manna’)

Suy Niệm

"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô." Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.

Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.

Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.

Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.

Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.

Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.

Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ. "Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế gian" (Ga 17,18).

Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết. Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân... Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.

Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ, và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn.

"Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).

Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.

Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội, nhưng họ có một thang giá trị riêng.

Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng. Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.

Họ là nhúm men vùi trong đống bột. Men không được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.

Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây. Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.

Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh, thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.

Tử Đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.

Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng khác. Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...

Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.

Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.

Gợi Ý Chia Sẻ

Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?

Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,

Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.

Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.

Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men, để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.

Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.

Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.

 

2.Anh em làm chứng cho Thầy

(Trích từ ‘Manna’)

Suy Niệm

Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.

Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. "Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ." Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.

Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.

Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà.

Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.

Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.

Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.

Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.

Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.

Ước gì chúng ta không để mất đức tin được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.

Gợi Ý Chia Sẻ

Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi...)

Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?

Cầu Nguyện

Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

 

3.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)

Suy Niệm

Khi một người biết mình sắp lìa đời,

người ấy thường nghĩ đến những người thân yêu phải xa cách.

Đức Giêsu cũng vậy.

Trong lời cầu nguyện với Cha trước giờ ra đi,

Ngài đã nói nhiều với Cha về các môn đệ (Ga 17,9-19).

Đây là những kẻ mà Ngài yêu đến tột cùng và kỳ cùng (Ga 13,1).

Sắp đến giờ chia tay, Thầy trò mỗi người một ngả.

Thầy thì bỏ thế gian mà “đến cùng Cha” (Ga 17,11.13).

Trò thì vẫn còn ở trong thế gian, bị thế gian thù ghét (Ga 17,11.14).

Đức Giêsu biết rõ sức mạnh của thế gian, của bóng tối,

sức mạnh mà Ngài sắp phải đối đầu.

và các môn đệ cũng sẽ phải đối diện, khi không có Ngài ở bên.

Đức Giêsu chia sẻ với Cha nỗi lo của mình về các môn đệ.

Khi còn ở với họ, Ngài đã gìn giữ họ, đã canh giữ (Ga 17,12).

Giờ đây, Ngài nài xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần (Ga 17,11b.15).

Ngài lo cho họ trong cuộc chiến với tên thủ lãnh thế gian (Ga 16,11),

dù Ngài từng nói với họ: “Thầy đã thắng thế gian !” (Ga 16,33).

Đức Giêsu biết đàn chiên rồi sẽ bị tấn công, bị cướp bóc.

Nhưng nhiệm vụ của Cha và Con là bảo vệ,

để không ai cướp được chiên khỏi tay mình (Ga 10,28-29).

Nếu các môn đệ bị thế gian thù ghét, đó đâu phải là chuyện lạ,

vì nó đã thù ghét Thầy trước rồi (Ga 15,18.24).

Bị thế gian khai trừ, chống đối, bị ngược đãi, và bị giết:

đó là thân phận của người môn đệ (Ga 15,20-21; 16,1-2; 17,14).

Đó là thân phận của người không “thuộc về thế gian.”

Thế gian ghét những ai không thuộc về nó.

Người môn đệ được Thầy Giêsu chọn ra khỏi thế gian (Ga 15,19),

rồi lại được Thầy sai vào trong thế gian (Ga 17,18).

Đức Giêsu không xin Cha đem họ ra khỏi thế gian (Ga 17,15),

chỉ mong họ ở trong thế gian mà không thuộc về nó (Ga 17,14.16),

nhưng thuộc trọn về Cha và về Con (Ga 17,6.10).

Nhờ sống giữa thế gian, họ mới làm cho thế gian tin

và nhận biết rằng chính Cha đã sai Con (Ga 17,21.23).

Những lời Đức Giêsu cầu xin với Cha đã ứng nghiệm

nơi cuộc sống và cái chết của các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam.

Chẳng ai biết được chính xác số kitô hữu

đã chịu đau khổ và chịu chết trên mảnh đất quê hương này.

Họ gồm cả nam nữ, trẻ già, linh mục, giám mục và giáo dân,

là lính hay quan, là người Việt hay nhà truyền giáo ngoại quốc.

Họ chết vì đủ kiểu tra tấn, xử trảm, xử giảo, hay chết rũ tù.

Trước khi đón nhận cái chết, họ đã chọn Đức Giêsu là Chúa.

Chọn lựa này khiến họ không thể đưa chân bước qua thập tự,

dù bước qua là thoát gông cùm, được chức quyền, bổng lộc.

Rõ ràng họ không chọn thuộc về thế gian,

không lung lay trước những mời mọc và hứa hẹn của nó.

“Vì danh Thầy” họ chịu những gì Thầy đã chịu (Ga 15,20).

Chúa Cha và Chúa Con đã gìn giữ và che chở họ,

không phải để họ tránh khỏi cái chết thảm khốc,

nhưng để họ can đảm đón nhận cái chết với nhiều tình yêu.

Nhờ ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng được mọi nỗi sợ.

Họ thường tiến ra pháp trường với sự đĩnh đạc an vui.

Vui vì biết cái chết chóng qua sẽ đưa họ ở bên Thầy mãi mãi.

Lúc nào chúng ta cũng phải sống trong thế gian.

Thế gian của các vị tử đạo là thế gian thời phong kiến.

Thế gian hôm nay có nhiều quyến rũ hơn, ru ngủ hơn.

Không có bách hại gay go, nhưng có nhiều cám dỗ ngọt ngào.

Lắm khi chúng ta bước qua thập giá mà không hay.

Xin Cha làm chúng ta nên thánh trong thế gian này (Ga 17,17),

để sau khi sống cuộc vượt qua của riêng mình,

ta được cùng ở với Chúa Giêsu trong nhà Cha (Ga 17,24).

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,

Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.

Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,

lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.

Thế gian này vàng thau lẫn lộn.

Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.

Xin cho chúng con

giữ được bản lãnh của mình,

giữ được vị mặn của muối,

và sức tác động của men,

để đem đến cho thế gian

một linh hồn, một sức sống.

Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,

chỉ sợ mình bỏ sống đạo

vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.

Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng

chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,

những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,

thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui

của người được diễm phúc nên giống Chúa.

 

4.Để làm chứng cho vua quan

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).

Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa. Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi. "Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em" để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)

Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.

Chết vì Đạo là một cách làm chứng.

Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua thánh giá.

Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13)

Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu.

Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.

Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.

Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.

Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.

Đã có người bước qua, và cũng có người không.

Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.

Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.

Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng.

Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...

Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.

Gợi Ý Chia Sẻ

Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?

Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?

Cầu Nguyện

Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,

các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.

Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.

Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.

Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.

Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.

Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

 

5.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

(Bài giảng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam của ĐGM. Giuse Võ Đức Minh)

- Kn 3, 1-9: Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.

- 2 Cr 4, 7-15: Chúng tôi luôn mang trong thân xác mình sự chết của  Đức Kitô.

- Ga 12, 24-26: Nếu hạt lúa miến chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt.

Kính thưa Cộng đoàn phụng vụ,

Bài Phúc Âm của lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay (Ga 12, 24-26), tập trung vào biểu tượng hạt lúa miến, được hiểu là biểu tượng của chính Chúa Kitô, từ đó ý nghĩa toả lan sang các Kitô hữu, đặc biệt các Kitô hữu chết vì đạo đã được Giáo Hội tôn phong Hiển Thánh hoặc Chân Phước để nêu gương cho mọi thành phần Dân Chúa đang tiếp tục cuộc hành trình đức Tin giữa dòng đời.

“Nếu hạt lúa miến không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình”.

Câu này chứa đựng một chân lý thật sâu sắc, đó là: ý nghĩa và giá trị của hạt lúa miến hệ tại cuộc hiện hữu của nó cho kẻ khác, để phục vụ kẻ khác. Nếu không như thế, nó sẽ “trơ trọi một mình’’. “Trơ trọi một mình” là đặc điểm của cuộc hiện hữu vị kỷ, ích kỷ, và vì thế không có ích cho kẻ khác. Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: hạt lúa miến chỉ đạt được phẩm giá cao quý của nó, khi chấp nhận từ bỏ chính mình, để phục vụ sự sống và sự tăng trưởng của mọi người.

“Nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt”.

Chắc hẳn trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nghĩ tới kinh nghiệm trồng trọt của nhà nông: hạt-lúa-giống gieo vào lòng đất phải mục nát, phải thối rữa, phải chết đi, tức là phải chấp nhận mất căn tính hạt lúa, nhìn ở bình diện hiện tượng, để nẩy thành cái mầm, rồi lớn lên thành cây lúa chính, từ đó nẩy sinh thêm nhiều cây lúa phụ, tất cả cùng mang nhiều bông hạt. Chỉ một hạt lúa chết đi, mà sinh ra hằng trăm hạt lúa mới. Đó là sự gia tăng về số lượng. Đến lượt những hạt lúa mới phát sinh từ cái chết của hạt-lúa-giống, cũng chấp nhận bị nghiền nát, nghĩa là chấp nhận mất căn tính hạt lúa, để trở thành tinh bột, hoà mình với nước, với men, nhờ đó dậy men lên, rồi trải qua thử thách của lửa để trở thành tấm bánh thơm ngon và giàu chất dinh dưỡng cho con người. Đó là sự gia tăng về chất lượng. Đối với hạt lúa miến, một cách nào đó, chết đi là tự hạ, tự huỷ ra không; còn gia tăng số luợng và chất lượng là siêu thăng bản chất của hiện hữu. Vì thế, cái chết của hạt lúa miến được Chúa Giêsu chọn làm biểu tượng cho sự tự hạ, tự huỷ của Người như bước chuẩn bị cần thiết cho việc Thiên Chúa siêu thăng và tôn vinh Người qua mầu nhiệm Phục Sinh. Như vậy, Tự hạ và Siêu thăng qua sự Chết và sự Phục sinh, đó là như một quy luật chi phối định mệnh của Hạt Lúa Miến. Mặt khác, vì là một biểu tượng minh hoạ cách sâu sắc ơn gọi của Vua Kitô và của các Kitô hữu, nên Hạt Lúa Miến cũng là một huyền nhiệm.

“Máu các Vị Tử Đạo là hạt giống từ đó nẩy sinh nhiều tín hữu Kitô”.

Câu nói lừng danh này của Tertulianô có giá trị trước tiên đối với dòng Máu của Vua Giêsu, Vị Tử Đạo vĩ đại, đã đổ ra trên Thánh Giá. Máu các Kitô hữu Tử đạo cũng có được khả năng sinh sản thiêng liêng ấy, là vì các ngài đã được nuôi dưỡng bằng Máu-Thánh-Thể của Vua Giêsu chịu đóng đinh. Ngoài ra chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống và cái chết của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, khi chúng ta suy gẫm về các hành động và lời nói của các ngài dưới ánh sáng Lời Chúa.

Trước tiên, tử đạo có nghĩa là làm chứng, làm chứng bằng cách chấp nhận chết hoặc đổ máu mình ra để khẳng định niềm tin vào Thiên Chúa, tiếp nối hành động của chính Vua Giêsu trên Thánh Giá. Cái chết để làm chứng triệt để như thế đuợc đồng hoá với “của lễ toàn thiêu” như Sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 nói với chúng ta (x. Kn 3, 6). Theo tác giả Thư Do Thái, khi Đức Kitô đổ máu mình ra trên Thánh Giá, là lúc Người “tự hiến tế làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí vĩnh cửu thúc đẩy” (Dt 9, 14). Vậy thì, hành động của các Thánh Tử Đạo chấp nhận chết vì đức tin cũng được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần và nhờ đó các ngài trở thành “của lễ toàn thiêu”,“của lễ thiêng liêng” (x. Rm 12, 2; 1 Pr 2, 5) được Thiên Chúa ưng nhận. Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan, Linh mục Tử đạo, cầu nguyện trước khi bị hành hình cùng một lúc với hai Thầy Kẻ Giảng như sau: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài” [1]. Vâng, hành động của các Thánh Tử Đạo tế hiến mạng sống mình làm của lễ toàn thiêu và của lễ thiêng liêng, được tô điểm thêm bởi Hy tế ngợi khen (x. Dt 13, 15; Hs 14, 3…). Cái chết lành thánh của các ngài, cũng giống như cái chết cứu độ của Chúa Giêsu, diễn ra trong tâm tình cầu nguyện sâu lắng.

Thánh Tử Đạo Carolô Cornay Tân, một Linh mục Thừa sai Pháp, trả lời vị quan toà thẩm vấn mình rằng: “Chúng tôi chỉ chuyên lo giảng đạo, khuyên người ta ăn ngay ở lành, dạy con cái thờ cha kính mẹ, kêu gọi thần dân vâng phục vua quan, tôi đâu có thể đi ngược lại giáo huấn của mình mà chống nhà vua được?”[2]. Câu nói sau đây của Thánh Linh mục Tử Đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh thật hết sức ý nghĩa: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tuỳ ý, nhưng linh  hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”[3].

Bài học thứ hai là thái độ kiên định trong sứ vụ làm chứng cho sự thật. Đây là nét nổi bật nhất của Vua Giêsu Tử Đạo và của tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật này, là: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Chính Chúa Giêsu ý thức mình là quà tặng của Chúa Cha. Người đến thế gian, “để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người trở thành Con Đường cứu độ, dẫn tới Sự Sống đời đời và vì thế Người là hiện thân của Sự Thật, nghĩa là của ý muốn cứu độ thế gian của Thiên Chúa Cha. Sự Thật ấy là nội dung chính yếu của Tin Mừng. Về phần mình, các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhất quyết không bước qua hoặc dẫm lên Thánh Giá, biểu tượng của Đạo Giêsu, mà vua quan phong kiến xưa gọi là “tả đạo Gia-tô”; các ngài chấp nhận bị giết để làm chứng trước mặt mọi người rằng Đạo Gia-tô, Đạo Giêsu là Đạo Thật, là Con Đường đích thực dẫn vào Sự Sống bất diệt. Dầu thế gian đón nhận hay khước từ, thì mọi Kitô hữu hôm nay vẫn phải dùng lời nói và cả cuộc sống của mình làm chứng cho Sự Thật đó, theo gương Chúa và các Chứng Nhân đức tin anh dũng.

Bài học thứ ba là lòng bác ái không bờ bến đối với mọi người, kể cả những người giết hại mình. Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nêu gương một cách cụ thể: không những Người dạy các môn đệ phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi” mình (x. Mt 5, 44), mà chính Người, khi bị treo trên Thánh Giá, đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết hại Người (x. Lc 23, 34). Thánh Emmanuen Lê Văn Phụng, trùm trưởng của họ đạo Đầu Nước, Cù Lao Giêng, đã nói lời trăn trối với con trai của mình tại pháp trường: “Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố cáo cha nhé” [4]. Có thể nói: tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam khi bị thẩm vấn, cầm tù và hành quyết, không hề nói một lời trách móc, mỉa mai hay nguyền rủa những kẻ làm hại mình. Càng suy gẫm về những lời đối đáp của các ngài với vua quan bách hại mình, hay những lời các ngài tâm sự với những người thân, chúng ta mới thấy được điều kỳ diệu của Đạo Tình Thương: Tình thương mạnh hơn sự chết; Tình thương chiến thắng hận thù.

Trong ngày kỷ niệm đúng 60 năm truớc, tức vào ngày 24-11-1960, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo tại Việt Nam. Với tâm tình tri ân, chúng ta hãy “Tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đức tin. Hồng ân này đã được các Vị Tử Đạo là Tổ tiên chúng ta đón nhận cách quảng đại, sống và làm chứng; các ngài là những người muốn loan báo chân lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa” [5].

Ngoài ra, chúng ta chân thành xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta biết dùng ân huệ của hồng phúc này và dùng việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài để kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày của chúng ta [6].

Nguyện xin Mẹ Maria, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, để cùng với Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta đi vào huyền nhiệm Hạt Lúa Miến : trổ sinh nhiều bông hạt, làm nên nhiều tấm bánh, bẻ ra, chia sẻ cho đồng bào của chúng ta được sống và sống dồi dào. Chúng ta chia sẻ sự sống, không chỉ bằng bánh vật chất, mà bằng cả bánh nhân văn và văn hoá, nhất là bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể ; có chia sẻ những tấm bánh đó cho  mọi người, nhất là người nghèo và người cùng khổ, mới thực sự tạo được sự HIỆP THÔNG toàn diện và sâu sắc trong Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên “dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau” [7]. Theo nghĩa đó, “xây dựng sự HIỆP THÔNG trong Giáo Hội là chìa khóa của SỨ VỤ” [8] làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. AMEN.      

***

[1] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca 2.

[2] Xem Kinh Sách ngày 24/11, điệp ca 1.

[3] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca của Thánh ca Tin Mừng.

[4] Xem Tài Liệu Làm Việc của Đại Hội Dân Chúa, cước chú 109.

[5] Xem Huấn từ ĐTC Beneđictô XVI ngỏ với HĐGMVN ngày 27-06-2009.

[6] Xem Thư ĐTC Beneđictô XVI gửi ĐC Chủ Tịch HĐGMVN dịp lễ khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện 24-11-2009.

[7] Xem TLLV, chương II.

[8] Xem Sứ điệp Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2010 của ĐTC Beneđictô XVI.

 

6.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)

Là con cháu của các Thánh Tử vì Đạo nước Việt Nam, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng được vinh dự, tự hào về tổ tiên ông bà của mình. Nếu chúng ta được hỏi hay phải minh chứng về các Thánh Tử Đạo, đặc biệt cho những lương dân; chúng ta có mạnh dạn, tự tin để trả lời cho họ? Hơn thế nữa, chúng ta có đang sống đúng với căn tính là con cháu của các Ngài hay không? Nhiều câu hỏi được đặt ra, để mỗi người chúng ta có cơ hội cùng lắng đọng-suy tư. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ai? Tại sao hôm nay chúng ta lại được mừng kính các Ngài cách trọng thể? Điểm son nổi bật nhất của các Thánh Tử Đạo Việt Nam là gì? Chúng ta đã và phải sống thế nào để có  thể chuyển tải và nêu cao những sứ điệp, gương mẫu hào hùng của các Thánh cho mọi người?

Hôm nay, Giáo hội địa phương tại Việt Nam được đặc ân để mừng kính những người con ưu tú của mình, là các Thánh Tử vì Đạo nước Việt Nam, là tổ tiên ông bà chúng ta, là những nhân chứng của Đức tin, nhân chứng cho Chúa và Tin mừng cứu độ. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đã soi sáng, hướng dẫn và giúp cho chúng ta không những biết rõ về các Thánh mà còn giúp chúng ta cách sống chứng tá như các Ngài đã sống.

Tin mừng theo Thánh Matthêu đã cho chúng ta câu trả lời rất mạnh mẽ của Chúa Giêsu về các Thánh tử đạo. “Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết.” Tất cả các Ngài vì danh Chúa, vì Tin mừng, vì sống chứng tá cho niềm tin của mình mà được vinh phúc tử vì đạo, được phúc lãnh nhận ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa đã hứa ban. “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”. Nhưng tại sao khi tin theo Chúa, sống cho Chúa và niềm tin, thì lại bị mọi người ghen ghét, bị bắt hại và ngay cả phải hy sinh cả mạng sống? Chứng tá mà Thánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng, Trùm họ Sáo Bùn để lại: Khi bị bắt giam, tù đày, Ngài đã khuyên nhủ các con: “Dù sự gì xảy đến hay cha phải tử hình, đó là điều cha hằng mong ước, được tử đạo đổ máu ra vì Chúa Giêsu Kitô. Chúng con hãy cầu nguyện cho cha, hãy yêu mến nhau. Dù gặp sự dữ thế nào chúng con đừng yếu lòng chối Chúa.”

Thánh Phêrô hơn bất cứ ai khác, Ngài đã sống và cảm nghiệm điều mà Ngài tin nhận, nên Ngài đã  nâng đỡ khích lệ các tín hữu khi họ phải vì danh Chúa và Tin mừng mà phải chịu đau khổ, cực hình. “Nếu anh em bị sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, vì Thánh Thần Chúa sẽ ngự trên anh em.” (1 Pr 4, 14) Được làm chứng và được chết để minh chứng cho Chúa là một ơn phúc không phải ai cũng có vinh phúc này. Điểm son nổi bật của các Thánh Tử vì Đạo nước Việt Nam đó chính là: tin, chấp nhận và sống trọn vẹn cho Thánh giá cứu độ mà Thiên Chúa ban qua Chúa Giêsu và Hội Thánh. “Chết vì Thánh Giá” là điều mà  nhiều người và các cấp chính quyền thời bấy giờ không thể hiểu, nên họ đã cho rằng, điều này quá điên khùng, khờ dại, vì theo “Tả Đạo” như vậy. Chắc hẳn các Thánh hơn ai hết đã ý thức và hiểu rõ về “cái giá phải trả” khi tin theo làm con cái Thiên Chúa. Nhưng tại sao các Ngài vẫn hiên ngang, can đảm để sống và tuyên xưng cách hào hùng về niềm tin của mình, hơn thế nữa các Ngài còn hân hoan vui sướng khi được sống và minh chứng cách trọn vẹn cho niềm tin đó. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Côrintô cũng đã khẳng định: “Thập Giá chính là sức mạnh của Thiên Chúa ban cho chúng ta". Từ Thánh Giá Chúa, sức mạnh của tình yêu, sự tha thứ và ơn cứu độ được trao ban và lan tỏa, nhờ đó những ai khiêm tốn, mở lòng đón nhận với lòng tin yêu, thì sẽ được ơn Chúa giúp sức, nâng đỡ; chính sức mạnh của Chúa đã hoạt động và bổ sức cho các Ngài. Thánh Anê Lê Thị Thành, dù đòn roi hay cực hình vẫn không hề lay chuyển được, thì quân lính vừa đánh vừa dùng vũ lực mà lôi bà qua Thánh Giá. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá.”

Như vậy, với con đường, cách sống và mẫu gương chứng tá mà các Thánh tử vì đạo đã để lại chính là sự khôn ngoan tuyệt vời. Khôn ngoan khi đón nhận niềm tin và ơn thánh Chúa ban, khôn ngoan khi biết sử dụng những kho tàng ơn phúc đó để sinh hoa kết trái. Qua những khó khăn, gian khổ, cực hình và cả sự hiến thân của các Ngài, không có cái gì đã ra vô ích hay khờ dại hết. Điều này sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 đã minh chứng cho chúng ta biết “Chúa đã chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu”. Với hy lễ được tiến dâng, Chúa không những đón nhận và ban ơn cứu rỗi cho các Ngài, mà Chúa còn thương cho các Ngài được thông phần cộng tác vào trong chương trình cứu độ của Chúa. Chính vì lẽ đó mà Tertuliano đã khẳng định: “Máu các vị tử đạo là hạt giống sinh nhiều giáo hữu.” Thánh Anê Thành khi ở trong ngục tù, cô Lucia Nụ, con gái đến thăm Mẹ, thấy y phục mẹ loang lỗ máu, cô khóc nức nở vì thương mẹ; bà đã an ủi, khích lệ con bằng những lời tràn trề lạc quan “Con đừng khóc nữa, mẹ được mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc? Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con, coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng.”

Nguyện xin Chúa, qua những hy lễ tuyệt hảo được tiến dâng, những chứng tá đức tin tuyệt vời và những gương mẫu sống đạo kiên trung của các Thánh tử đạo, chuyển cầu cùng Chúa mà ban ơn cho chúng con. Để trong mọi hoàn cảnh sống, chúng con luôn khiêm tốn, mở lòng tin nhận Chúa cùng với các ơn phúc Chúa ban. Hầu chúng con xứng đáng được gọi là con cháu của các vị thánh tử đạo Việt Nam hào hùng. Xin cho chúng con với những hy sinh, cố gắng nỗ lực mỗi ngày, luôn sống chứng tá đức tin qua những việc lành, bác ái, dấn thân để danh thánh Chúa và danh hào hùng của các Thánh tử vì đạo được tôn vinh. Amen.

home Mục lục Lưu trữ