Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 84

Tổng truy cập: 1364214

KHỦNG HOẢNG NIỀM TIN

 

KHỦNG HOẢNG NIỀM TIN

Lửa đang bùng lên khắp nơi. Từ những vụ ôm bom tự sát tại Trung Đông tới những cuộc đặt bom phá hoại các nhà thờ tại Nam Dương, lửa đã thiêu sống bao sinh mạng và sản nghiệp. Lửa cũng được đề cập trong Tin Mừng hôm nay như mạc khải về sứ mạng Đức Giêsu nơi trần gian. Sứ mạng đem lại hòa bình hay phân hóa nhân loại?

BẬP BÙNG

Ngày Chúa sinh ra, thiên thần ca hát: “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”(Lc 2:14) Đức Giêsu chính là sự bình an Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Người từng nói: “Thầy để lại bình an cho các con.” (Ga 14:25) Người vẫn được tôn xưng là “Thái Tử hòa bình.” Vậy tại sao hôm nay Chúa quả quyết ngược lại (Lc 12: 51)? Lời quả quyết đó làm nhiều người ngạc nhiên và nghi ngờ về sứ mệnh của Chúa trên trần gian. Nếu Người đến “đem sự chia rẽ” đến mối tương quan sâu xa nhất giữa các phần tử trong gia đình, làm sao tránh khỏi chiến tranh ngoài xã hội, quốc gia và quốc tế?

Tự bản chất sứ mệnh Đức Giêsu là sứ mệnh hòa bình. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.” (Ga 14:27) Sứ mệnh đó đã được thực hiện nhờ cuộc hòa giải giữa Thiên Chúa và con người trên thập giá. Thực tế không thiếu người ngộ nhận hay khước từ công cuộc cứu độ của Chúa. Như thế, họ tự tách lìa khỏi đoàn người đón nhận ơn cứu độ. Không đón nhận ơn cứu độ tức là còn sống trong thế đối nghịch với Thiên Chúa. Chính vì thế mới thấy tự do như một định mệnh. Thiên Chúa tôn trọng tự do con người. Lời Chúa như một tặng phẩm, chứ không như một gông cùm xiềng xích nhân loại.

Nhưng nếu chấp nhận sứ mệnh cứu độ của Chúa, đương nhiên con người phải có một quyết định dứt khoát và cam kết sống chết với Đức Kitô. Chính ý chí cương quyết này sẽ làm cho môn đệ Chúa khác với mọi người. Sở dĩ có thể quyết định và cam kết như thế, vì lòng người môn đệ nung nấu ngọn lửa do Thầy đã ném vào mặt đất (Lc 12:49). “Lửa ấy đã cháy bùng lên!” (Lc 12:49) Lửa đã lan khắp mặt đất. Đó là “lửa thanh tẩy của Chúa Thánh Linh đã đến với các môn đệ trong Tông Đồ Công Vụ, chứ không phải lửa thiêu hủy trong ngày phán xét.” (NIB 1995:266) Trong sách Ngụy Phúc âm cũng nói đến lửa sứ mệnh Đức Giêsu: “Ai gần Tôi là gần lửa; ai xa Tôi là xa Nước Chúa.” (Tin Mừng Thomas 82) Khi Thánh Linh xuất hiện, một dân mới đã được tách ra khỏi thế gian.

Nhưng trước khi ngọn lửa Thánh Linh lan khắp thế gian, chính Đức Giêsu cũng đãbị ngọn lửa đó thiêu đốt, đến nỗi “lòng Thầy khắc khoải biết bao.” (Lc 12:50) Ngọn lửa đã thiêu Thầy tới chết mà Thầy gọi là “phép rửa Thầy phải chịu.” (Lc 12:50) Tâm hồn Thầy bị giằng co và chìm ngập trong buồn sầu ứa lệ. Toàn thân Thầy rúng động “cho đến khi việc này hoàn tất.” (Lc 12:50) Thầy đã trải qua một cơn xao động tột độ khi đến gần Giêrusalem. Sự dằng co đó đánh dấu một chuyển mình lớn lao đưa Đức Giêsu vào một khúc ngoặt quan trọng. Quả thực, chính Người cũng phải làm một quyết định rất lớn trước khi thực hiện sứ mệnh Chúa Cha trao cho Người. Sứ mệnh đó khởi đầu bằng việc rao giảng Tin Mừng và kết thúc nơi cái chết thê thảm trên thập giá. Đó là đường lối Người đã chọn. Vì quyết định và lựa chọn đó, Người đã trở thành nạn nhân đầu tiên của sự chia rẽ giữa những người tin và không tin (NIB 1995:266). Đúng như lời ông Simêon đã nói tiên tri từ thuở xa xưa (Lc 2:34-35). Người đã từng bị cả đối phương lẫn người thân chống đối (Ga 1:11; Lc 4:28-30) Kết quả Người đã bị dồn vào chân tường, bị kẹt cứng giữa hai lằn đạn. Người đã chết để lộ ra những nét kinh hoàng trong cuộc đối đầu đó, đồng thời mạc khải trọn vẹn Nước Thiên Chúa.

Nước Thiên Chúa đã tạo thành một lằn ranh giữa những người tin và không tin. Nghĩa là Đức Giêsu đến để “đem sự chia rẽ” (Lc 12:51) và chống đối. Ngay từ xa xưa tiên tri Giêrêmia cũng đã từng đóng vai trò tương tự. Oâng đã tuyên sấm ngược với lòng mong đợi của mọi người. Bởi vậy ông đã bị kết án: “Con người ấy chẳng mưu hòa bình cho dân này, mà chỉ gây tai họa.” (Gr 38:4) Biết làm sao được?! Ngôn sứ chỉ nói sự thật. Sự thật mất lòng. Căng thẳng. Căng thẳng đến độ ngôn sứ Giêrêmia suýt chết đói “trong hầm không có nước, mà chỉ có bùn.” (Gr 38:7) Còn Đức Giêsu thì chết khát thực sự trên thập giá. Đúng là “sứ điệp bình an dưới thế bao giờ cũng phải kèm theo sự đối kháng man dại (2:14; 12:51; 19:42; 24:36). Thật là ngược đời, trong khi hòa giải là công tác của vị tiền hô thiên sai (Ml 4:5-6; Lc 1:17), thì đặc điểm của cuộc khủng hoảng cánh chung là sự chia rẽ bi thảm.” (NIB 1995:267)

Cái gì cũng có mặt trái, kể cả mạc khải của Thiên Chúa. Quả thế, nếu không dám nhìn thẳng vào sự thật, không bao giờ Đức Giêsu nói những lời chói tai hôm nay. Nói khác, Lời Chúa “phơi bày mặt trái của mạc khải, lời cam kết, và những giá trị Nước Trời.” (NIB 1995:267) Lời Chúa đã can thiệp sâu vào những tương quan rất thân mật giữa các phần tử trong gia đình. Không phải chỉ phân rẽ những mối tương quan đó, nhưng Lời Chúa còn “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy.” (Dt 4:12) Nghĩa là một cuộc chiến xảy ra ngay trong bản thân mỗi người khi quyết định nghe theo Tin Mừng Bình an của Chúa.

Bình an nào cũng phải trả giá. “Bất cứ nơi đâu Lời Chúa được đón nghe, sự chia rẽ cũng xảy ra giữa những người lắng nghe Lời Chúa (xc Ga:43; 9:16; 10:19).” (NIB 1995:267) Không thể không có mâu thuẫn và xung đột trong chính cá nhân và cộng đoàn. Có thế mới thấy Nước Chúa không dựa trên sức mạnh con người. Chúa có thể lợi dụng cả những đối kháng đó để mưu ích cho Nước Chúa. Vấn đề còn lại là con người có dám quyết định bước theo tiếng Chúa mời gọi hay không. Thực tế, “lời mời gọi con người đi tới quyết định là lời mời gọi phân rẽ.” (E.Earle Ellis 1966:182) Đó là một bi kịch. Nhưng đó cũng là sự thật cho những ai sống theo tiếng mời gọi liên tục của Thiên Chúa.

Lời mời gọi đó nhắm tới việc tạo lập “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2:14) Nhưng không thể chiếm sự bình an đó một cách dễ dãi. Phải có một cuộc phấn đấu cam go mới có thể cam kết sống với Chúa và khước từ những tiêu chuẩn trần thế. Từ đó, “thái độ chúng ta đối với của cải vật chất cũng phải thay đổi và những trách nhiệm tinh thần phải được quan niệm một cách nghiêm chỉnh hơn.” (NIB 1995:267) Chính vì thế, theo Đức Giêsu có nghĩa là thay đổi não trạng và nếp sống cho phù hợp với những tiêu chuẩn Nước Trời. Nghĩa là, mọi sự phải được đánh giá theo thánh ý Chúa. Từ nay, “những ai cam kết sống theo Đức Giêsu đều thấy mối tương quan với tha nhân, kể cả với những người thân thương nhất, đều bị sự cam kết đó chi phối.” (NIB 1995:267) Đức Giêsu đã cống hiến cho các môn đệ một tiêu chuẩn sống: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.” (Lc 11:28) Nói khác, không còn con đường hạnh phúc nào ngoài việc theo sát lời Chúa. Chính Đức Giêsu đã tìm được sức mạnh nơi thánh ý Chúa Cha để đem lại hạnh phúc cho chính mình và toàn thể nhân loại.

Nếu Đức Giêsu đã không sống theo Lời Thiên Chúa, chắc chắn Người đã không thể thành công khi ném lửa xuống trái đất. Ngày nay, muốn tiếp tay với Chúa thiêu đốt cả trần gian, chúng ta phải để lời Chúa xâm chiếm trọn con tim và cuộc đời mình. Từ đó, “chúng ta sẽ thay đổi nếp sống cũ, dựa trên những giá trị, thứ bậc ưu tiên, mục đích và hành vi thành hình từ sự cam kết sống với Chúa Kitô. Những thay đổi này sẽ nhanh chóng tạo nên những khủng hoảng trong những mối tương liên quan trọng.” (NIB 1995:267) Mọi suy nghĩ sẽ đảo ngược. Mọi vấn đề sẽ phải đặt lại. Cuộc đời thánh Phaolô là một điển hình. Sau khi trở lại, thánh nhân đã chứng kiến một thay đổi ngoạn mục trong tâm hồn và nếp sống: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô.” (Pl 3:8)

HAI CUỘC KHỦNG HOẢNG.

Kinh nghiệm của thánh Phaolô cũng là kinh nghiệm của tất cả những ai đang nung nấu ngọn lửa Thánh Linh trong tâm hồn. Ngọn lửa lan tới đâu, tất cả đều biến đổi tới đó. Tất cả đều bứt tung trong lửa. Trong ngọn lửa đó, “chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình.” (Dt 12:1) Ngọn lửa đó cũng soi sáng để “mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin.” (Dt 12:2) Từ đó, chúng ta mới thấy tất cả đổi mới. Chính niềm tin là ánh sáng hắt ra từ ngọn lửa Thánh Linh sẽ cho ta thấy hết mọi sự, từ những giới hạn, thiếu sót và tội lỗi chúng ta đến hồng ân Thiên Chúa tuyệt vời trong vũ trụ và con người.

Chính vì thiếu vắng niềm tin đó, nhân loại hôm nay vẫn chưa tìm được lối thoát. Cơn khủng hoảng hôm nay bắt nguồn từ việc chối từ Thiên Chúa trong cuộc sống. Bởi vậy, muốn có hòa bình, phải tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Muốn đạt tới niềm tin đó, con người sẽ trải qua một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng này khác hẳn cuộc khủng hoảng vô thần. Một bên báo hiệu sự trưởng thành. Một bên dẫn tới tiêu vong. Những khủng hoảng đó dẫn tới những đối kháng khác nhau về mức độ và bản chất.

Hôm nay, Kitô hữu đang trải qua những khủng hoảng và gặp những đối kháng khắp nơi trên thế giới. Từ những cuộc bắt bớ, chém giết tại những nước không tôn trọng nhân quyền đến những giới hạn về nhiều mặt đối với những tín hữu đang tranh đấu cho sự sống. Ngay trên đất nước tôn trọng tự do và nhân quyền như Hoa kỳ, Kitô hữu cũng có thể bị bách hại. Chẳng hạn, hiện nay “Hội Đồng Thành Phố New York đang cứu xét một đề nghị cấm phổ biến truyền đơn, lên tiếng phản đối, cố vấn, hay đến gần các phụ nữ nằm trong bệnh viện phá thai. Biểu tình phản đối phá thai có thể là một hành vi phi pháp và những người phạm pháp có thể lãnh sáu tháng tù.” (CWNews 16/8/2001) Phong trào ủng hộ phá thai phải mạnh tới mức nào mới ảnh hưởng tới cơ quan lập pháp như thế! Nhưng ĐGM Thomas Daily đã công khai phê bình: dự luật đó “trực tiếp tấn công những quyền tự do của người dân New York và đặc biệt nó giới hạn việc thực thi quyền tự do ngôn luận và tôn giáo không thể chấp nhận được.” (CWNews 16/8/2001)

Cuộc đối kháng giữa những người phò và chống sự sống con người đang tạo nên khủng hoảng khắp nơi. Những người ủng hộ phá thai hay những kẻ sát nhân đang bách hại con người một cách có hệ thống và tổ chức trên cấp độ quốc gia cũng như quốc tế. Chẳng hạn, Quĩ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân hàng Thế giới, và Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ Châu chỉ chi viện nếu các nước Châu Mỹ La tinh tham dự vào những chương trình kế hoạch hóa gia đình của Liên hiệp quốc. Bằng chứng, sau cơn động đất tàn hại vừa qua, El Salvador đã được Quĩ Tài trợ Dân số của Liên Hiệp Quốc viện trợ cả những viên thuốc và dụng cụ phá thai (CWNews 16/8/2001)

Rõ ràng niềm tin đang mất dần ảnh hưởng trên lương tâm con người. Cuộc khủng hoảng vào tận gia đình và lan tới phạm vi quốc tế. Cuộc khủng hoảng đó bắt nguồn từ niềm tin nơi Thiên Chúa. Đức tin cũng là ngọn lửa Đức Giêsu ném vào mặt đất. Ngọn lửa ấy đang bùng lên từ trong tâm hồn đến cộng đoàn, mặc dù đang gặp trở ngại từ nhiều phía. Nhưng cuối cùng ngọn lửa sẽ lan ra khắp vũ trụ, vì Đức Giêsu đã quả quyết: “Thầy đã chiến thắng thế gian!” (Ga 16:33)

 

57.Lửa và Bình An – Lm. Jos Nguyễn Cao Luật

Ngọn lửa của Đức Giêsu...

Chắc có lẽ nhiều người được xem trên Tivi những hình ảnh các buỗi lễ khai mạc Thế Vận Hội. Hình ảnh gây ấn tượng nhiều nhất hẳn là nghi thức đốt lửa khai mạc. Từ mấy tháng trước, trước khi ngọn lửa được bùng lên tại lễ đài của sân vận động, ngọn lửa ấy đã được đốt lên tại núi Olympia - Hy-lạp - quê hương của Olympic. Và rồi ngọn lửa được rước về xứ sở được vinh dự tỗ chức Thế Vận Hội, được trao cho các vận động viên nỗi tiếng, những người có danh giá: mỗi người một đoạn đường. Những người này thay phiên nhau rước ngọn đuốc Olympic đi khắp đất nước, và đến ngày khai mạc, ngọn đuốc được đưa về sân vận động và được thắp lên trên lễ đài.

Cũng trong những hình ảnh của Olympic, vào ngày bế mạc, khi ngọn lửa trên lễ đài được tắt đi, thì mỗi người tham dự cầm một ngọn đèn, tượng trưng cho tinh thần Olympic. Ánh sáng từ những ngọn đèn nhỏ, với muôn ngàn màu sắc khác nhau, làm cho bầu khí thật cảm động. Ngọn đèn trên tay, như là thu nhỏ của ngọn lửa Olympic, sẽ được giữ mãi, nhớ mãi, mỗi người cảm thấy mình gần người khác hơn, đầy tinh thần yêu thương và thông cảm.

Xin mượn những hình ảnh ấy để gợi ý chia sẻ cho bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ mệnh bày tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người đến giữa vận hội trần gian và đốt lên ngọn lửa của Thiên Chúa. Người đã rước ngọn lửa đó đi khắp đất nước Do thái, vượt ra khỏi những biên cương do con người tạo nên. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa đám dân Do thái đang chờ mong Đấng Cứu Tinh. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa những người dân ngoại. Người đã làm bừng lên trong tâm hổn mọi người ngọn lửa như ông Gioan Tẩy Giả đã loan báo. Ông Gioan Tẩy Giả thanh tẩy bằng nước, còn Đức Giêsu thanh tẩy trong Thần Khí, tức là gió và lửa. Tất cả lời nói và hành vi của Đức Giêsu đều cho thấy một ngọn lửa đích thực, lửa vĩnh cửu, lửa thiêng, để rổi cuối cùng, Người lấy chính mạng sống của mình để đốt lên một cách dứt khoát trên lễ đài thập giá, trên đổi Can-vê. Chính lúc ấy, Người đã thốt lên: "Mọi sự đã hoàn tất."

Đức Giêsu đã thắp lên ngọn lửa vĩnh cửu bằng chính cái chết của Người. Trước đó, Người đã trao cho các Tông Đổ sứ mệnh đem ngọn lửa đi khắp thế gian, đến tận cùng cõi đất. Theo lệnh của Đức Giêsu, các Tông Đổ đã đem ngọn lửa ấy đến các dân, loan báo cho mọi người, không trừ một ai, để tất cả được nghe biết về Tin Mừng cứu độ.

Và rồi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, ngọn lửa ấy được chuyền tay, lan đến khắp mọi nơi. Đã có biết bao con người đem cả cuộc đời của mình, đem chính mạng sống của mình để bảo vệ ngọn lửa, để công bố cho thế giới về tình thương của Thiên Chúa.

... đến các Kitô hữu

Ngọn lửa ấy hôm nay được chuyển đến các Kitô hữu, được thắp lên trong tâm hổn họ. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mỗi người đã được trao cho một cây nến sáng, với lời nhắn nhủ hãy giữ cho ngọn lửa cháy mãi. Người Kitô hữu sẽ mang ngọn lửa ấy và đốt lên trong vận hội trần gian. Nơi đâu họ có mặt, nơi ấy là vận động trường, và ở đó cần có lửa. Với những hoàn cảnh sống khác nhau, về cả nơi chốn và điều kiện, người Kitô hữu có nhiều cơ hội để mang ngọn lửa Tin Mừng thắp sáng mọi ngõ ngách cuộc đời.

Nhưng ngọn lửa ấy là gì?

Mọi người hẳn biết ngọn lửa ấy chính là Đức Tin, hay nói khác đi, chính là tinh thần Kitô giáo, là Tin Mừng, là sứ điệp cứu độ.

Mỗi người đều biết công dụng của lửa. Ở Đà Lạt, vào những ngày mùa lạnh, ngoài chức năng soi sáng, lửa còn dùng để sưởi ấm, tức là để xua tan khí lạnh, để chống lại giá rét. Đúng thế, người ta có thể hình dung ra câu chuyện Đức Giêsu ở trong Đền Thờ: Người cầm roi xua đuổi hết những người buôn bán, và trả lại sự trang nghiêm thánh thiện cho nơi thờ phượng. Ngọn lửa của Đức Giêsu vừa có tính cách huỷ diệt, vừa có chức năng soi sáng và đốt nóng. Do đó, người Kitô hữu đem ngọn lửa nhận từ Đức Giêsu để phá tan những u tối, những ngờ vực và soi sáng con đường để bước tới. Người Kitô hữu đem ngọn lửa để đốt cháy những gì không phù hợp với Nước Thiên Chúa, và làm cho ngọn lửa bừng lên ở khắp mọi nơi.

Cũng phải nói thêm rằng, ngọn lửa ấy chính là Đức Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trần gian để nhân loại được sưởi ấm nhờ tình thương của Thiên Chúa. Người đến để soi sáng đêm tăm tối trần gian và làm cho con người chìm sâu trong ngọn lửa vĩnh cửu, để rổi chính họ sẽ trở thành lửa cho người khác. Và Đức Giêsu cũng đã đem cả cuộc đời của Người để làm cho ngọn lửa ấy không bị dập tắt, nhưng được bùng lên mãnh liệt. Để thi hành sứ mạng này, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết, đã chịu đổ máu mình. Người Kitô hữu cầm ngọn lửa là Đức Giêsu cũng sẽ phải sống như vậy, họ sẽ phải biến cuộc đời của mình thành một ngọn lửa. Họ sẽ phải đem theo ngọn lửa đó cho đến đích, không để cho ngọn lửa bị tàn lụi, nhưng luôn cháy sáng, như Đức Kitô đã làm.

Trở lại hình ảnh của cuộc rước đuốc Olympic: các vận động viên rước đuốc là những người được tuyển chọn, những người nổi tiếng, không phải bất cứ ai cũng được vinh dự đó. Người Kitô hữu có cảm thấy hãnh diện khi mình là vận động viên của Đức Giêsu đem ngọn lửa đi rước khắp cuộc đời? Và, như vận động viên phải giương cao ngọn đuốc, người Kitô hữu cũng phải kiên trì và dũng cảm bày tỏ đức tin của mình. Họ không được đem giấu ngọn lửa, cũng không làm lửa tắt, nhưng hiên ngang sống niềm tin, dù có những trở ngại, khó khăn.

Liệu chúng ta có dám nhận mình là vận động viên của Đức Giêsu? Dám chứ, vì tất cả đều đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.

Bình an từ cuộc chiến đấu

Trong suốt thời kỳ rao giảng công khai, Đức Giêsu vẫn không ngừng bày tỏ sứ mệnh của Người là quy tụ, là đưa những con chiên lạc về đàn, những người đang tản mác về một mối. Ai cũng hiểu như thế. Vậy mà, trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu lại quả quyết: "Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ" (Lc 12,51). Tại sao Đức Giêsu lại nói đến chia rẽ? Phải chăng Người tự mâu thuẫn?

Để trả lời điều này, chúng ta phải vượt qua cái nhìn quá "tầm thường" về Đức Giêsu. Bình an, tình yêu... Đúng, nhưng trước đó là phải đương đầu với những khó khăn, phải chiến đấu, và phải liều mạng nữa. Bình an không phải là được yên thân, tránh được những trở ngại, nhưng là chiến thắng, là vượt ra khỏi, là dám sống những giá trị lớn lao. Bởi vì nếu như thế, bình an, Nước Trời là thứ dễ dàng quá, chỉ cần ngổi không cũng có được. Chỉ sau khi vượt qua cái chết Đức Giêsu mới thực sự chúc bình an cho các môn đệ. Và đó là bình an, là tình yêu của con người đã đi qua những đau khổ lớn lao nhất, kể cả cái chết. Đã có lần Đức Giêsu cho biết rằng, chỉ những người nào mạnh mới được vào Nước Trời, và như thế phải bước qua cửa hẹp.

Bình an Đức Giêsu trao tặng không giống bình an của trần gian. Muốn được hưởng bình an ấy, chúng ta phải đi theo Đức Giêsu, trên chính con đường Người đã đi, đó là dám phiêu lưu, dám liều mạng. Người đi theo Đức Giêsu là người phải chọn lựa, phải đấu tranh, ngay cả với những người thân quen nhất. Người đi theo Đức Giêsu phải dám hy sinh tất cả, từ bỏ tất cả, để chỉ chọn lựa một mình Người. Người đi theo Đức Giêsu là kẻ bước trên con đường chênh vênh, đầy khó khăn, nhưng vẫn tràn đầy niềm vui và hy vọng vì biết rằng mình không bị vấp ngã. Đức Giêsu vẫn đi bên cạnh và như vậy họ được bình an.

Do đó, sự quy tụ mà Đức Giêsu mong muốn không phải là một thứ hoà hợp nhạt nhẽo, vô vị, nhưng là một sự chọn lựa tích cực, một sự nôỵ lực với tất cả khả năng của mình.

Cuộc đời người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu để bảo vệ ngọn lửa giữa những bão táp. Chiến đấu để đem ngọn lửa thắp sáng lên trong mọi ngõ ngách, mọi bí ẩn của tâm hổn. Chiến đấu để đưa ngọn lửa về tới đích. Chiến đấu để đạt được bình an, thứ bình an đích thực, bởi vì Đức Giêsu đã giao hoà thế gian với Thiên Chúa khi chịu đóng đinh trên thập giá.

Ôi Thiên Chúa, đối với chúng con, sự thúc giục của Chân Lý thật mãnh liệt, thế nhưng, ai đã đón lấy sự thúc giục ấy thì được biến đổi, trở nên rất giản dị.

Khi nhìn thấy Thiên Chúa, họ cùng với Thiên Chúa nhìn xem thế giới vô ơn và tàn bạo này, và đón nhận vào trong tâm hổn mình cuộc Thương Khó vĩnh cửu.

Thiên Chúa không có tiếng nói họ là tiếng nói thay thế Người.

Thiên Chúa không có xác thân, họ hiến dâng thân mình để chịu khổ thay Người, và để hoàn tất những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô.

Họ đơn giản như ngọn lửa, như tiếng kêu, đơn giản như lưỡi dao sắc bén phân rẽ xác thịt với thần trí.

(theo P. Claudel.)

 

58.Đời sống của người môn đệ Chúa Kitô

Các bản văn Lời Chúa hôm nay giới thiệu cho chúng ta một lối sống dường như có thể gọi là không biết mềm dẻo, không biết trước biết sau!

Trước hết, ta gặp ngôn sứ Giêrêmia: ngài phản đối đường lối chính trị muốn đi theo Ai-cập; ngài khuyên vua Xítkigiahu (Sêđêcia) theo Nabucôđonôxo để được yên ổn. Bởi vì quần thần không nghe nên Giêrêmia bị tống ngục. Nhưng ngài cứ nhất định loan báo những tai họa sẽ đổ xuống trên Dân Chúa nếu họ không rời xa con đường gian ác họ đang theo. Thế là người ta kết án ngài là người chủ bại, người ta sỉ vả ngài là đã làm nao núng tinh thần của dân chúng… Kết quả là ngài bị bỏ xuống một cái hầm nước chỉ có bùn, để cho ngài chết đói và chết ngộp.

Ta tự hỏi:Vị ngôn sứ có cần phải lao khổ như thế không?

Rồi Chúa Giêsu chính là vị Mêsia mà Israel vẫn mong đợi. Nhưng trong khi người ta trông chờ Người đến trong vinh quang khải hoàn, để giải phóng quê hương, Người lại cứ khư khư tự giới thiệu là một người nghèo, khăng khăng rao giảng một cuộc hoán cải nội tâm, nhất định coi thường những thành công ngoạn mục. Người sẽ là dấu hiệu của sự chia rẽ và mâu thuẫn. Bởi vì đứng trước Chúa Giêsu, mỗi người phải đáp lại tiếng Người mời gọi, mỗi người phải có một thái độ đối với Người; do đó nhiều khi thái độ đối với Chúa Giêsu sẽ gây nên sự chia rẽ giữa những người thân thích. Kết quả: Người chết trên một cây thập giá.

Chẳng lẽ không còn một giải pháp nào khác sao?

Tác giả thư Do thái thì khuyến khích các tín hữu kiên trì trong cuộc chạy đua, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin, trong khi người Do thái thì bảo rằng Người là kẻ sống trên mây trên gió. Và tác giả còn chuẩn bị cho các tín hữu chấp nhận bị chống đối.

Thế thì được ích gì?

Không biết có những lý do, những nguyên tắc, hay những triết lý nào đúng với những hy sinh đó không. Nhưng khó mà tin được rằng những lý luận, dù là những lý luận chặt chẽ nhất, có thể đưa con người tới chỗ sống quảng đại như thế. Chỉ có niềm tin, chỉ có tình yêu mới giải thích được. Chính niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa và tình yêu đối với Ngài đã khiến các ngài cương quyết thi hành sứ mạng, chứ không nao núng để rồi phải uốn lưỡi nói cho người ta vui ta và chuyển sang một lộ trình dấn thân khác.

Giêrêmia, Phaolô hay tác giả thư Do thái, Đức Giêsu Mêsia, chính vì tình yêu mà các ngài đã hiến mạng sống, một tình yêu chân thật đối với một Đấng.

Cả ba đã công bố động lực đã thúc đẩy các ngài hành động:

* “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và ngài đã thắng con”, đó là lời của ngôn sứ Giêrêmia.

* Tác giả thư Do thái viết: “Tôi hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin”.

* Còn Đức Giêsu thì tuyên bố: “Tôi luôn làm điều đẹp lòng Thiên Chúa”.

Còn chúng ta, có lẽ chúng ta quá thường mất thì giờ để phân tích, để giải thích, để xây những lý thuyết, để biện minh, để thiết lập những luật lệ.

Là Kitô hữu, trước hết không phải là theo một triết lý nào, cũng không chỉ là tuân giữ một nền luân lý nào, mà là trao hiến con tim cho một Thiên Chúa là Chúa Tể quyền năng và Tình Yêu sâu thẳm, cho Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Là Kitô hữu là tin tưởng trọn vẹn vào Lời của Người và đi theo Người tới cùng, dù phải trả giá nào. Có nhiều khi phải hy sinh những dây liên hệ tình cảm thắm thiết như tình gia đình. Chúa Giêsu không hề phá hoại sự hòa hợp trong gia đình hay muốn khuấy rối các gia đình. Bởi vì Người có lúc đã nói: “Hãy làm tròn bổn phận đối với cha mẹ” (Mc 7,10). Nhưng Người khẳng định rằng, nếu chúng ta là môn đệ Người, chúng ta phải sẵn sàng hy sinh tất cả những gì cản trở để thong dong bước theo Người. Người dạy như thế không phải để biến chúng ta thành nô lệ của Người, nhưng là để chúng ta cùng chia sẻ sứ mạng của chính Người.

Chúng ta hãy dâng tâm hồn cho Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu lòng chúng ta thiếu sức nóng của tình Chúa, không tha thiết hiệp thông huynh đệ, Chúa Kitô sẽ mang lửa tình yêu đến sưởi ấm trái tim, làm tan rã thái độ nghịch thù. Và Người cũng ban cho chúng ta sự bình an: Người giao hòa chúng ta với Chúa Cha, với chính mình ta, và với anh chị em chúng ta (x. Ep 2,14-17) bằng cách đưa chúng ta về với đời sống thật, là đời sống yêu mến.

Sống như thế thì ít bảo đảm hơn việc giữ đạo, giữ luật cách khôn ngoan. Mong manh quá! Và có lẽ lại đòi hỏi nhiều hơn! Nhưng sống như thế chắc chắn là “hào hùng hấp dẫn” hơn nhiều!

 

59.Ơn phúc

Ngày 28.3.1986 tuần báo Công giáo Hoa Kỳ có tên gọi là: “Người Phóng Viên Công Giáo Toàn Quốc” đã đăng tải một bài tự thuật của một bình luận gia nổi tiếng lúc đó, anh Actu John, bài tự thuật kể lại một biến cố không thể quên được thời tuổi trẻ của anh Actu John, đó là lúc anh phải thi hành nghĩa vụ quân sự và trải qua thời gian huấn luyện tại trung tâm. Tối đến, trong phòng ngủ rộng cho ba mươi tân binh thụ huấn, anh John phải đương đầu với một vấn đề hết sức thực tế. Anh tự hỏi mình: “Tôi phải quì gối bên giường đọc kinh tối, cảm tạ Thiên Chúa trước khi đi ngủ hay không?”

Trong thời gian còn sống trong gia đình với cha mẹ, John đã học được từ cha mẹ thói quen tốt lành, mỗi tối trước khi lên giường ngủ, anh quì gối đọc kinh cảm tạ Thiên Chúa rồi mới ngủ. Giờ đây trong trại lính, anh bỗng do dự ngại ngùng và câu hỏi: “Mình có phải quì gối đọc kinh giữa những người xa lạ này hay không?”. Anh đang lúng túng không biết phải có thái độ như thế nào thì bỗng dưng một tư tưởng sau đây lóe lên trong đầu óc anh: “Tại sao tôi phải thay đổi thái độ sống chỉ vì có nhiều người xa lạ bên cạnh thấy mình đang làm gì?”. Tôi bắt đầu cuộc sống ngoài gia đình bằng cách để cho những kẻ xa lạ bên ngoài ảnh hưởng bắt buộc tôi phải hành động như họ hay sao? Không, tôi phải kiên vững làm điều tốt tôi phải làm. Nghĩ như vậy, anh John quì xuống bên cạnh giường đọc kinh rồi mới ngủ. Mọi người xung quanh nhìn anh, và anh là người Công giáo duy nhất trong nhóm tân binh cùng khóa. Mỗi đêm anh đều trung thành với thói quen quì gối đọc kinh này. Ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, trước khi từ giã nhau đến nhiệm vụ mới, một người trong nhóm đến bắt tay chào anh và nói: “Xin cám ơn và chào anh. Anh là người Kitô tốt mà tôi gặp từ trước đến giờ, anh đã can đảm thực hành đức tin của anh, mặc cho những lời gièm pha, chọc tức, khinh dể của chúng tôi”.

Kinh nghiệm của anh John giúp ta hiểu thêm một khía cạnh của bài Phúc âm Chúa nhật XX Mùa thường năm C. Việc dấn bước theo Chúa trọn vẹn đòi hỏi đôi khi và rất thường khi nhiều sự can đảm, sống khác với nếp sống của môi trường, như thể ta bị tách rời ra xa lạ với môi trường, nhất là khi môi trường đó thù nghịch với đức tin Kitô.

Anh John đã thành công vượt qua được nỗi ngại ngùng hèn nhát, có lẽ vì ngọn lửa đức tin và tình yêu Chúa đã được thực sự cháy lên trong tâm hồn anh. Lửa đức tin và tình yêu đó đến từ Chúa Giêsu, là hồng ân của Ngài, Ngài đã gieo lửa đó vào trong tâm hồn chúng ta, lửa đó là Chúa Thánh Thần đã được ban xuống cho các Tông đồ ngày lễ Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa, và hằng luôn được tiếp tục ban xuống cho mọi kẻ tin Chúa sau khi Chúa Giêsu hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết của Ngài trên thập giá. Đó là phép rửa Ngài phải chịu, đó là phương thế duy nhất để Chúa Giêsu có thể ban lửa Thánh Thần xuống cho những kẻ tin Ngài. Những ai đã lãnh nhận lửa ấy phải cộng tác để cho lửa ấy được cháy luôn đừng bị dập tắt đi.

 

60.Sự quấy rối cần thiết – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

"Thầy đến để đem sự chia rẽ" (Lc 12, 51)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Ai ai cũng thích được sống yên ổn trong những thói quen của mình. Tuy nhiên cứ mãi ở yên trong những thói quen xấu thì rất là tai hại. Bởi vậy cần phải có ai đó đánh thức lương tâm, kết án sự xấu và lôi kéo con người trở về đường tốt. Đó là những sự quấy rối cần thiết.

Chúng ta xin Chúa giúp chúng ta can đảm đón nhận những sự quấy rối đó, và cũng can đảm dám quấy rối trước những tình trạng xấu của kẻ khác.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta chỉ thích nghe những lời êm tai vừa ý và không đón nhận những lời thật sửa lỗi chúng ta.

Nhiều khi chúng ta còn thù ghét những người thành tâm sửa lỗi chúng ta.

Chúng ta không can đảm đấu tranh cho công bình và sự thật.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Gr 38, 4-6. 8-10)

Thời ngôn sứ Giêrêmia, dân Do Thái phạm tội nhiều nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylone bao vây họ. Thay vì ăn năn sám hối và quay về nương tựa nơi Chúa, họ vẫn tiếp tục làm tội và cậy vào thế lực ngoại bang. Ngôn sứ Giêrêmia vạch rõ những sai lầm ấy và đe dọa rằng nếu họ cứ tiếp tục như thế thì có ngày Thiên Chúa sẽ cho quân thù sẽ xâm chiếm xứ sở, tàn phá đền thờ và bắt dân đi lưu đày.

Vì những lời nói thật đó, Giêrêmia bị coi là kẻ quấy rối tinh thần dân chúng và là tên phản quốc. Dân chúng đã bắt ông quăng xuống một cái giếng sâu. Nhưng Chúa đã cho người cứu ông lên.

2. Đáp ca (Tv 39)

Tâm tình Tv này rất hợp với Giêrêmia: Tôi đã trông cậy Chúa và Người đã nghiêng mình về bên tôi. Người đã kéo tôi lên khỏi lỗ mồ, khỏi chỗ bùn nhơ...

3. Bài đọc II (Dt 12, 1-4) (Chủ đề phụ)

Hoàn cảnh: Các kitô hữu gốc Do Thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do Thái cũ thù ghét vì coi họ là những người phản đạo. mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma.

Tác giả thư Do Thái đã nêu gương Chúa Giêsu để an ủi và khuyến khích họ: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Chúa Giêsu. Ngài cũng gặp muôn vàn khó khăn nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.

4. Tin Mừng (Lc 12, 49-53)

Đoạn này có hai ý:

a/ Bằng hai hình ảnh "lửa" và "phép rửa", Chúa Giêsu nói về tương lai sắp tới (cc 49-50):

"Lửa" ám chỉ sự thanh luyện. Chúa Giêsu đến trần gian để thanh luyện trần gian, cho nên Ngài ước mong việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành.

"Phép rửa" ám chỉ cuộc khổ nạn sắp tới: việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.

b/ Bằng hai hình ảnh "hòa bình" và "chia rẽ", Chúa Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin Mừng của Ngài (cc 51-53): Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9, 5). Chúa Giêsu xác nhận rằng đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9, 5tt; Dcr 9, 10; Lc 2, 14; Ep 2, 14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ "Hoà bình" có nhiều nghĩa: hoà bình kiểu thế gian và hoà bình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài. Thực tế cho thấy là sứ vụ của Chúa Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây ra chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xảy ra ngay trong lòng một gia đình (Lc 2, 35: có chia rẽ, thì tâm tư người ta mới lộ ra).

IV. Gợi ý giảng

* 1. "Thầy đến để đem sự chia rẽ"

Những lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng này thật kỳ lạ khác thường. Còn nhớ có lần hai môn đệ xin Ngài sai lửa từ trời xuống thiêu đốt một làng Samaria không tiếp rước Ngài, thì khi đó Ngài đã mắng hai ông và dùng đường khác mà đi. Thế mà hôm nay Chúa Giêsu lại nói "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian". Còn nhớ có lần Phêrô tuốt gươm ra để bênh vực Ngài khi quân dữ đến bắt Ngài. Khi ấy Ngài đã bảo Phêrô xỏ gươm vào bao vì ai dùng gươm thì sẽ chết vì gươm. Vậy mà hôm nay Ngài nói "Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy đến để đem sự chia rẽ!".

Thực ra Chúa Giêsu đến trần gian không phải để gây chia rẽ và xáo trộn. Tuy nhiên nhiều khi chính vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xảy ra! Điều này đặc biệt đúng trong thời kỳ Giáo Hội sơ khai. Khi đó, ai bỏ đạo cũ (đạo Rôma, đạo Do thái) để theo đạo Chúa Kitô thì bị gia đình, bạn bè và hàng xóm ghét bỏ, bách hại. Nhưng những kitô hữu ấy biết làm gì khác hơn được: chọn bên này thì phải bỏ bên kia, và bên bị bỏ sẽ thù ghét mình.

Dù Chúa Giêsu rất hiền lành nhưng, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ: Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống lại Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà hãy tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giàu nổi giận v. v.

Trong Tin Mừng có đầy dẫy những lời chói tai như thế của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta chỉ lựa ra những lời thuận tai để đọc thì Tin Mừng chẳng mang lại ích lợi gì cho chúng ta. Ngược lại, chính những lời làm ta khó chịu, những lời có tính cách quấy rối lương tâm chúng ta mới là những lời giúp chúng ta hoán cải và tìm được ơn cứu độ.

* 2. Sứ mạng ngôn sứ

Ngôn sứ là người nói lời Thiên Chúa. Mà lời Thiên Chúa không phải lúc nào cũng thuận tai loài người. Cho nên ngôn sứ thường bị coi là những người quấy rối, và bị ghét bỏ.

Nhưng kitô hữu chúng ta có sứ mạng ngôn sứ. Chúng ta có sứ mạng nói lên sự thật để vạch trần sự gian dối; chúng ta có sứ mạng đòi hỏi công bình mỗi khi gặp bất công.

Kinh nghiệm cho thấy không có gì khiến người ta khó chịu cho bằng đòi hỏi sự thật và công bình.

Vì thế sứ mạng của kitô hữu càng khó khăn hơn.

Trước chúng ta, đã có nhiều kitô hữu can đảm thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình: Martin Luther King rao giảng cho hòa bình và cho quyền tự do của người da đen. Ông đã bị ám sát chết. Đức Giám mục Helder Camara tranh đấu cho người nghèo và cũng bị bắn gục.

Xã hội ngày nay có nhiều điều xấu, và những điều xấu ấy vẫn tồn tại lâu dài. Phải chăng vì Kitô hữu đã bỏ quên hay đã hèn nhát không thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình?

* 3. Ngọn lửa tình yêu

Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền Ấn Giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên.

Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.

Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong đền thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.

"Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên" (Lc 12, 49). Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.

Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vắn bừng cháy trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn người tín hữu giữa đêm tăm tối, cũng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí khôn các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.Nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm. Nếu lòng hai môn đệ Em mau đã bừng cháy lên khi nghe Lời Chúa, thì nhân loại sao chẳng rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?

Lời yêu thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian.Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho trần thế. Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ. Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưới lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.

Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: "Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh". (TP)

* 4. Chấp nhận bị ghét

Lòng ganh ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà v. v. Chính vì thế mà Chúa Giêsu khuyến cáo các kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị ghét bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình: "Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ..."Đó là những sự ghét đáng chấp nhận, vì nếu không chấp nhận thì có nghĩa là phản bội lý tưởng Tin Mừng của mình.

* 5. Hoà bình thật và hòa bình dỏm

Một đầm lầy xem ra rất phẳng và đẹp ở bề mặt của nó

Nhưng sâu bên dưới toàn là bùn sình rác rưởi hôi thúi. Một thứ hoà bình dựa trên những giả dối và bất công được thoả thuận với nhau chỉ là thứ hòa bình dỏm. Chúa Giêsu đến trần gian không phải để mang lại thứ hoà bình dỏm này. Thứ hoà bình thật Chúa Giêsu mang đến là thứ hòa bình mà trong đó sự thật được tôn trọng, mọi quyền lợi của con người được tôn trọng.

Những người cố gắng xây dựng nền hòa bình của Thiên Chúa có thể bị người đời cho là những kẻ quấy rối, nhưng họ được Thiên Chúa gọi là "Con" của Ngài.

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa tình yêu của Người xuống trần gian để sưởi ấm con tim băng giá của nhân loại. Với ước mong ngọn lửa ấy bừng lên trên toàn thế giới, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Hội thánh đã và đang làm hết mọi cách / để giúp các Kitô hữu hiệp nhất với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa chúc lành cho nỗ lực cao quý / nhưng đầy khó khăn này.

2. Ngày nay / sự ganh tỵ / lòng ghen ghét / vẫn đang ngự trị ở khắp mọi nơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau.

3. Hiện giờ / bất hòa / chia rẽ vì bè phái / vẫn đang hoành hành trong các cộng đoàn giáo xứ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu / biết dẹp bỏ bất hòa và chia rẽ / để luôn sống hiệp nhất với nhau.

4. Đời sống gia đình chỉ thật sự hạnh phúc / khi các thành viên trong gia đình biết sống trên thuận dưới hòa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi gia đình trong giáo xứ chúng ta / biết luôn nêu gương cho các gia đình khác về đời sống bác ái yêu thương.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, ghen ghét, hận thù, vừa trái với tinh thần bác ái của Chúa vừa dẫn đến những hậu quả hết sức tai hại trong mối quan hệ thường ngày. Vì thế, xin Chúa cho chúng con biết sống theo Lời Chúa dạy, và đừng bao giờ để cho lòng ghen ghét và sự hận thù ảnh hưởng đến mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

61.Ngọn lửa tình yêu

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

A. DẪN NHẬP.

Đức Giêsu hay có kiểu nói nghịch lý làm cho người ta ngạc nhiên khi mới nghe và chưa hiểu hết ý nghĩa tàng ẩn trong đó. Chẳng hạn trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu nói:”Thầy đã đến ném lửa vào trần gian… Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51). Nếu Đức Giêsu được gọi là “Hoàng tử của Bình an”, hiền lành và khiêm nhường không mang sự hòa bình cho trần gian mà chỉ đem đến sự chia rẽ. Như vậy Ngài muốn nói gì?

Đức Giêsu muốn nói cho chúng ta biết rằng sứ mạng của Ngài là xuống trần gian chịu chết để đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người và thanh luyện con người. Thi hành được sứ mạng đó không phải là dễ vì những lời rao giảng của Ngài phải nói lên chân lý và nói lên chân lý thì sẽ đụng chạm đến nhiều người đang chà đạp lên chân lý vì như người ta nói:“sự thật mất lòng”. Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc 1 hôm nay là hình bóng Đức Giêsu. Ông nói sự thật cho dân chúng, nhưng họ không muốn nghe, lại còn hành hạ và muốn giết chết ông. Đức Giêsu cũng phải đi theo con đường đó và Ngài muốn cho việc thi hành sứ mạng đó chóng hoàn tất.

Ngài đến để đem hòa bình cho nhân lọai, nhưng không phải là thứ hòa bình ru ngủ của trần gian mà là thứ hòa bình thật của Thiên Chúa. Thứ hòa bình này chỉ có thể lãnh được khi người ta đã nỗ lực thi hành Lời Chúa và phải tôi luyện bằng Thập giá. Vì thế, Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa nhiều người, ngay những người trong một gia đình. Sở dĩ có sự chia rẽ là vì có người tin theo Chúa, có người không tin theo, lại còn chống đối nữa. Vậy là có sự chia rẽ giữa người tin và không tin. Đức Giêsu đòi chúng ta phải xác định lập trường, phải có sự lựa chọn: tin theo hay không tin theo. Nếu đã chấp nhận tin theo thì cũng phải chấp nhận con đường của Chúa đã đi: phải hy sinh tất cả để trung thành với Chúa.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Gr 38,4-10.

Thời tiên tri Giêrêmia, dân Do thái phạm tội nhiều, nên Thiên Chúa để cho quân thù là đế quốc Babylon bao vây. Là người hiền lành, nhạy cảm, yêu quê hương, Giêrêmia phải tuân lệnh Thiên Chúa, đi nói những lời nguyền rủa trên dân mình để khuyến khích họ ăn năn sám hối và quay về nương tựa vào Chúa, nhưng họ cứ tiếp tục đi theo con đường sai lầm đó. Ôâng còn bị cáo giác là chủ bại và cộng tác với quân địch. Vì những lời nói thật đó, ông bị kết án vứt xuống giếng sâu, nhưng Chúa đã cho người cứu vớt ông.

Hôm qua cũng như hôm nay, vị tiên tri phải trải qua kinh nghiệm xương máu để biết được rằng “Sự thật thì mất lòng”. Đó là số phận của nhà tiên tri, người làm chứng về sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa. Ngoài ra, việc Giêrêmia bị bỏ xuống giếng là hình ảnh tử nạn của Đức Giêsu và việc Giêrêmia được thóat chết là hình ảnh của Chúa sống lại.

+ Bài đọc 2: Dt 12,1-4.

Trong khi chúng ta dấn thân cho Nước Chúa, được nghe đoạn thư gửi cho người Do thái sau đây, chúng ta cảm thấy được an ủi và nâng đỡ rất nhiều. Hồi ấy, các Kitô hữu gốc Do thái đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Một mặt họ bị các đồng đạo Do thái cũ thù ghét và coi họ là những người phản đạo, mặt khác họ cũng bị bách hại bởi đế quốc Rôma.

Thánh Phaolô đôi khi ưa dùng ngôn ngữ thể thao, Ngài ví cuộc sống của Kitô hữu như một cuộc chạy đua, cần phải có nhiều sức dẻo dai, mắt nhìn thẳng vào Đức Giêsu, chính Ngài cũng gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng đã kiên trì chiến đấu và cuối cùng đã chiến thắng tất cả. Hãy noi gương Ngài và dựa vào sự trợ giúp của Ngài mà chiến đấu.

+ Bài Tin mừng: Lc 12,49-53.

Bài Tin mừng hôm nay có hai ý chính:

a) Đức Giêsu có sứ mạng xuống trần gian để thanh luyện trần gian và Ngài ước cho việc thanh luyện ấy sớm hoàn thành. Ngài cũng báo trước sẽ phải qua một cuộc khổ nạn và việc thanh luyện ấy chỉ hoàn thành sau khi Ngài chịu nạn chịu chết và sống lại.

b) Đức Giêsu dùng hai hình ảnh “hòa bình” và “chia rẽ” để kêu gọi người ta phải có thái độ lựa chọn trước Tin mừng của Ngài. Sứ mạng của Ngài là chịu chết để chuộc tội cho loài người. Ngài tự hiến mình chịu chết, không còn lựa chọn nào khác khi Ngài muốn hoàn thành đến cùng sứ mạng được giao phó. Nhưng một quyết định như thế càng thêm những chống đối và sẽ gây chia rẽ trong chính lòng dân tộc được chọn: một số người sẽ hoán cải, một số người khác thì không, một số người tin theo, một số người không.

Lời rao giảng của Ngài sẽ gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ còn xẩy ra ngay trong lòng một gia đình.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Ngọn lửa tình yêu bùng cháy.

I. ĐỨC GIÊSU ĐEM LỬA XUỐNG TRẦN GIAN.

1. Điều Đức Giêsu muốn nói.

Khi đọc bài Tin mừng hôm nay, chúng ta không khỏi thắc mắc: Nếu khẳng định Đức Giêsu là “Hòang tử của Hòa bình”, người ta sẽ nói sao trước lời tuyên bố thẳng thừng của Ngài về chính mình:”Thầy đến đem lửa xuống trần gian… Thầy đến không phải để đem hòa bình, nhưng là đem sự chia rẽ”? Làm sao có thể hiểu được khi một người vốn tự xưng là “hiền lành và khiêm nhường” lại gây nên sự xáo trộn, gây nên nỗi phân ly trong gia đình, một cấu trúc cần được hiệp nhất hơn bất cứ một cấu trúc nào hay tổ chức nào trên thế giới?

Người ta phải hiểu thế nào câu nói của Đức Giêsu: ”Thầy đến đem lửa xuống trần gian và Thầy muốn sao lửa đó được cháy lên”? Vậy lửa Đức Giêsu đem đến trần gian là thứ lửa nào?

2. Lửa trong Thánh Kinh.

Trong Thánh Kinh lửa được dùng để chỉ ý nghĩa của hai khía cạnh tích cực và tiêu cực: ngọn lửa ở thiên đàng và ở hỏa ngục. Ngọn lửa là hình ảnh của sự hiện diện thiêng thánh của Thiên Chúa khi ông Maisen gặp gỡ Ngài giữa bụi gai đang cháy (Xh 3,2), hay cột lửa đã hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (Xh 13,21), và ngọn lửa từ trời xuống thiêu hủy thành Sôđôma và Gômôra (St 19,24).

Sức mạnh của Lời Chúa như lửa nơi miệng tiên tri Giêrêmia (Gr 5,14), và ngọn lửa tiên tri Isaia nhìn thấy trong đền thờ đã thanh tẩy môi miệng ông (Is 6,6) trở nên thanh khiết để ngài loan báo sứ điệp cho dân chúng. Tiên tri Eâlia được ví như ngọn lửa, và lời giảng của Ngài như đuốc cháy (Hc 48,1).

Ngọn lửa của Thần Khí đậu trên các Tông đồ và ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3). Mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (Lc 17,29). Lửa là những thử thách (1Pr 4,12).

Trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 12,49-53), Đức Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:”Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”(Lc 12,49). Tôi tin rằng lửa mà Luca muốn nói ở đây chính là “ngọn lửa của Thần Khí” đã được ban xuống trên các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,3-4) với sức mạnh và tình yêu Thiên Chúa để đi rao truyền Tin mừng khắp muôn dân (Cv 1,8). Ngọn lửa của Thần Khí thanh luyện linh hồn chúng ta khỏi sự ích kỷ và kiêu căng, nguồn gốc gây ra tất cả mọi sự thù nghịch và báo oán.

(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 282-283).

Đức Giêsu mong uớc “ban Thần Khí” cho thế gian. Ngài nói rằng đó là nhiệm vụ duy nhất của Ngài:”Thầy đến vì việc đó”. Chúng ta hãy thử tưởng tượng Đức Giêsu như một người đang ước mong, mang trong mình một dự án lớn lao. Đức Giêsu hăng say với dự án đổi mới toàn thể địa cầu. Lấy lại hình ảnh ấy, một bài ca hiệp lễ hát rằng:”Là kẻ ăn mày lửa, tôi nắm tay Chúa trong tay tôi, như người ta cầm trong tay mình ngọn lửa cho mùa đông và Chúa trở thành đám cháy thiêu đốt thế gian”. Đức Giêsu trở thành một sức mạnh nhiệt thành mới mẻ cho nhiều người hôm nay. Ở giữa những việc tầm thường hằng ngày, chúng ta có thể đốt lên “ngọn lửa nồng nàn của tình yêu”.

3. Mâu thuẫn giữa hòa bình và chia rẽ.

Đức Giêsu nói:”Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an đến thế gian ư? Không phải thế đâu, Thầy đến để đem sự chia rẽ”. Với tư cách là một người hiền lành và khiêm nhường trong lòng, làm sao Đức Giêsu đã đến trần gian để gây chia rẽ và xáo trộn? Tuy nhiên, nhiều khi vì Ngài mà xáo trộn và chia rẽ xẩy ra.

Chúng ta cần hiểu rằng: bằng hai chữ hòa bình và chia rẽ, Đức Giêsu kêu gọi người ta chọn lựa thái độ trước Tin mừng của Ngài (Lc 51-53): Nhiều người nghĩ rằng Đấng Messia là Đấng mang hòa bình đến (x. Is 9,5), Đức Giêsu xác nhận là đúng thực, sứ mạng của Ngài là một sứ mạng Hòa bình (Is 9,tt; Dcr 9,10; Lc 2,14; Ep 2,14-15). Nhưng Ngài thấy cần giải thích thêm: chữ “Hòa bình” có nhiều nghĩa: hòa bình kiểu thế gian và hòa bình của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói rằng Ngài đến thế gian không phải để đem hòa bình kiểu thế gian, mà là thứ hòa bình của Thiên Chúa. Thứ hòa bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ sẽ nhận được sau khi người ta đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin mừng của Ngài.

Thực tế cho thấy là sứ vụ của Đức Giêsu đã gặp chống đối, và Lời rao giảng của Ngài đã gây chia rẽ giữa những người tin và những người không tin, chia rẽ xẩy ra ngay trong lòng một gia đình (Carôlô, Hạt giống nảy mầm, Chúa nhật năm C, tr 141).

Dù Đức Giêsu rất hiền lành, vì sứ mạng, Ngài phải nói thẳng nói thật và do đó gây nên chống đối và chia rẽ: Ngài giảng dạy về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Lời giảng này làm cho những người tội lỗi tin theo Ngài, nhưng lại khiến những người biệt phái chống đối Ngài. Ngài kêu gọi con người đừng bám vào kho tàng của cải đời này, mà tìm kho tàng không hư nát trong Nước Trời. Lời giảng này khích lệ những người nghèo nhưng lại làm cho những người giầu nổi giận v.v…. Trong Tin mừng không thiếu gì những lời nói chói tai như thế, nhưng Đức Giêsu cũng cứ nói, vì “thuốc đắng đã tật”.

II. ĐỨC GIÊSU ĐÓN NHẬN SỰ CHỐNG ĐỐI.

1. Thao thức mãnh liệt của Đức Giêsu.

Khi nói về Đức Giêsu thường chúng ta chỉ chú trọng vào thiên tính mà quên đi nhân tính của Ngài. Vì thế mà không thấy tính gần gũi, dễ thương, dễ mến cách tuyệt vời của Ngài. Nguyên về mặt nhân bản, Đức Giêsu quả là một con người đặc biệt. Chúng ta đã từng thấy Đức Giêsu nhạy cảm như thế nào khi Ngài chạnh lòng thương trước đám đông, khi Ngài xúc động khóc trước mồ Lazarô. Bài Tin mừng Giáo hội đọc trong phụng vụ hôm nay, giúp chúng ta khám phá thêm về Đức Giêsu: cùng với một tâm hồn tinh tế và nhạy cảm ít ai có, Ngài còn có một hệ thần kinh thép và trong lòng ấp ủ những hoài bão lớn lao:”Thầy đã đem lửa vào thế gian và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn có một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”.

Hoài bão của Đức Giêsu là gì nếu không phải là biến đổi thế giới này thành Trời mới Đất mới? Thao thức của Đức Giêsu là gì nếu không phải là thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa là xây dựng Nước Thiên Chúa, Vương quốc và Triều đại của Thiên Chúa trong mỗi tâm hồn, mỗi cộng đồng, mỗi xã hội con người? Trời Mới Đất Mới là không gian trong đó con người vui hưởng hạnh phúc thật là nhận biết, tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương nhau. Nước Thiên Chúa, Vương Quốc và Triều Đại của Thiên Chúa là thế giới của Sự Sống, của Yêu Thương, của Bình An và Hoan Lạc.

Để thực hiện hoài bão lớn lao và cao đẹp ấy Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh mất mát, thậm chí cả sự hủy diệt bản thân mình. Hơn nữa, Ngài còn nóng lòng mong đợi cuộc Khổ nạn mau tới như mong đợi những ngày tốt đẹp, tuyệt vời nhất của đời mình.

2. Tiên tri Giêrêmia là hình bóng Đức Giêsu.

Bài đọc 1 hôm nay mô tả cuộc bách hại tiên tri Giêrêmia. Các Kitô hữu luôn coi ông như một hình bóng của Đức Giêsu. Ôâng là tiên tri ngay thời còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình trong một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel, sự tàn phá thành Giêrusalem và đền thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ôâng thương yêu tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Ngài. Trước những lời nói tiên tri chân thật của ông, nhiều người thù ghét ông và tìm cách giết hại ông. Nhưng cuối cùng ông đã được cứu.

Đức Giêsu cũng thế: ngay từ những trang đầu của Tin mừng chúng ta đã thấy Đức Giêsu bị các nhà lãnh đạo đương thời bấy giờ đối xử như thế nào. Ngài đến với những lời chân thật, hằng sống, nhưng người nhà không tiếp rước Ngài, vì cho rằng Ngài là mối nguy cơ đe dọa địa vị, quyền lợi tôn giáo, xã hội và chính trị (dĩ nhiên bao gồm cả kinh tế) của họ. Thật ra Ngài chỉ là “tiêu chuẩn” để con người chọn lựa: theo và đón nhận hoặc không theo và từ chối Thiên Chúa. Người ta không có quyền không chọn lựa! Nhưng người ta có quyền chọn không đón nhận Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa Tình thương. Và chính do chọn lựa này mà mỗi người mỗi ngả.

3. Vì Tin mừng, phải chấp nhận chống đối.

Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đã vạch ra điều sẽ dẫn Ngài đến cái chết, và những người môn đệ bước theo Ngài cũng sẽ phải gặp đủ thứ đụng chạm xung khắc (Mt 10,22). Đức Giêsu đã bị chết không chỉ vì những lời rao giảng yêu thương, nhưng còn vì Tin mừng tự do của Ngài đã xung khắc với các nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị. Họ coi Ngài chỉ là con người gây rối và họ nhìn thấy Ngài chỉ là một sự đe dọa cho những địa vị và quyền hành của họ.

Không phải Đức Giêsu không muốn bình an vì Ngài Là “Hòang Tử của Bình an”, nhưng khi Ngài bênh vực cho những giá trị tinh thần, phục vụ cho công lý và giải phóng nhân lọai khỏi những ràng buộc của tội lỗi, thì chắc chắn phải đụng chạm với quyền lực đang muốn duy trì chúng lại.

Đức Giêsu bị người ta ghen ghét. Lòng ghen ghét không đơn giản chút nào, nhiều khi nó rất phức tạp khó lường. Không phải người ta chỉ ghét những điều xấu, người ta có thể ghét cả những điều tốt nào không phù hợp với người ta. Thí dụ kẻ nói dối ghét người nói thật, kẻ buôn gian bán lận ghét người buôn bán thật thà.

Chính vì thế mà Đức Giêsu khuyến cáo các Kitô hữu phải chấp nhận bị ghét, có thể bị giết bởi chính những người thân của mình và ngay trong gia đình mình:”Từ nay 5 người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, 3 chống lại 2 và 2 chống lại 3. Cha chống đối con trai và con trai chống đối cha. Mẹ chống đối con gái và con gái chống đối mẹ…” Tình trạng này đã xẩy ra trong Giáo hội sơ khai và vẫn xẩy ra luôn mãi. Lịch sử các vị tử đạo đã chứng minh: những người theo đạo thường bị chính quyền hoặc đồng đạo mình ghét bỏ. Hoặc là trong một gia đình ngoại giáo, có một người trở lại đạo, là để kết hôn với người có đạo chẳng hạn, cha mẹ không bằng lòng. Thế là có sự xung khắc giữa cha mẹ và chính người con của mình.

Truyện: Chấp nhận bị chửi.

Trong một buổi huấn đức tại đại chủng viện Mundelein vào khoảng năm 1992, Đức cố hồng y Joseph Bernadin của tổng giáo phận Chicago đã tâm sự rằng, từ ngày ngài về lãnh trách nhiệm ở Chicago, mỗi ngày đều đặn, không sót một ngày, có một lá thư gửi đến chửi ngài là “son of bitch” –“chó đẻ”! Vì sao? Vì ngài theo giảng huấn của Giáo hội chống lại các thứ tệ đoan xã hội, làm mất quyền lợi của bọn tư bản vật chất.!

Đức tin và những giá trị tôn giáo đặt chúng ta vào tư thế đụng chạm, xung khắc với xã hội. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu đã nói:”Các con tưởng rằng Thấy đến để đem sự bình an đến cho thế gian ư? Thầy bảo thật các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12,51). Đó là những sự thù ghét đáng chấp nhận vì nếu không chấp nhận thì có nghĩa là phản bội lý tưởng Tin mừng của mình.

III. ĐỨC GIÊSU ĐÒI SỰ LỰA CHỌN CỦA TA.

1. Kitô hữu phải lựa chọn.

Nếu đặt câu hỏi: là người Kitô hữu, bạn đã lựa chọn Đức Kitô và đạo của Ngài chưa? Chắc có người cho là thừa và có thể là một câu hỏi ngớ ngẩn vì khi đã được chịu phép rửa tội chúng ta đã thề hứa bỏ ma qủi mà chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa, tin theo Đức Giêsu Kitô, do đó, mới được mang danh là “Kitô hữu”. Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, và được mang tên của Ngài.

Đồng ý vậy, đã là Kitô hữu thì dĩ nhiên chúng ta đã chọn Đức Giêsu và đạo của Ngài rồi, nhưng không phải chọn một lần là đủ, là xong. Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi giai đọan của cuộc đời chúng ta phải chọn lại. Chọn lại là kiểm điểm xem chúng ta đã thực sự chọn lựa Chúa chưa, vì nhiều khi, trong nhiều tình huống chúng ta sống theo thế gian, xác thịt và ma qủi mà chúng ta không ý thức. Để kiểm chứng lại sự chọn lựa của chúng ta, hằng ngày chúng ta phải đặt cho mình một câu hỏi:”Đối với tôi, Đức Giêsu là ai”? Chắc chúng ta sẽ thưa được Đức Giêsu là thế nọ, thế kia… nhưng thể hiệân chứng minh những lời ấy thì không dễ.

2. Chọn lựa phải dứt khóat và hiệu quả.

Cuộc sống con người hiện nay quá phức tạp và đa đoan khiến cho tâm tư bị phân tán, xé mỏng – ý chí và nghị lực cũng vì đó mà suy yếu. Một đội quân mạnh cũng dễ gì đánh thắng cùng một lúc 3, 4 mặt trận, phải có tinh thần mạnh mẽ mới vào được Nước Trời (Mt 11,12). Các thánh Tử đạo đã can đảm thực hiện Lời Chúa (Mc 8,38; Lc 9,26). Lời Ngài đâu phải không rõ ràng hoặc chúng ta có thể thực hành hay không là tùy ý? Tình yêu và chân lý luôn đòi hỏi sự lựa chọn dứt khóat, mạnh mẽ. Dù phải hy sinh – Không thể vừa muốn một đời sống dễ dãi, nhàn hạ (hay lười biếng) đồng thời lại muốn vào Nước Trời. Hai cái muốn đó làm sao có thể đi đôi với nhau (Mt 10,36t)? Chính Đức Kitô còn không sống theo ý Ngài (Mt 4,4; Ga 4,34). Thế nên khi dứt khóat chọn Đức Kitô, ta phải nỗ lực sống theo Lời Ngài và đồng thời luôn vững tin vào tình yêu và sự quan phòng của Ngài (Mt 6,25t; Lc 12,22t).

Truyện: Thánh nữ Perpetua.

Perpetua thuộc gia đình quí tộc, bị bắt vì đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngọai, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình, nàng lễ phép nói với cha:”Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu”. Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới. Perpetua có một đứa con đang bú, rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.

Vì biết con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết:”Con ơi, hãy thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả”.

Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ nghẹn ngào trả lời:”Thưa cha, tại tòa án sẽ xẩy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình”. Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ:”Con hãy thương đến đứa con nhỏ của con”.

Tuy nhiên trước tòa án, cùng với các bạn khác, Perpetua đã công khai tuyên bố trung thành với Chúa và bằng lòng hy sinh tất cả.

Mỗi người tin Chúa phải quyết định hoặc yêu mến gia đình hơn hoặc yêu Chúa Giêsu hơn. Bản chất của Kitô giáo là phải đặt sự trung thành với Chúa Giêsu lên trên tất cả các sự trung thành khác của thế gian. Người ta phải sẵn sàng coi mọi sự như thua lỗ vì cớ cao trọng tuyệt đối của Chúa Giêsu.

3. Lựa chọn và Thập giá.

Đức Giêsu đã nói:”Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khỏai biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Một phép rửa mới đang chờ đợi Đức Giêsu: tử đạo, cái chết! Đức Giêsu quả quyết rõ ràng nếu chính Ngài phải trải qua cơn thử thách thì những ai theo Ngài cũng sẽ gặp thử thách trên bước đường họ đi.

Nếu Ngài đến đem bình an của Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã công bố (Is 9,5-6; Mk 5,4; Lc 2,13) thì đây không phải là sự bình an dễ dãi do các tiên tri giả loan báo, sự bình an mà con người không ngừng mơ tưởng; nhưng là bình an Nước Trời mà người ta chỉ đạt được qua Thập giá. Mỗi người được mời lựa chọn thái độ của mình đối với Đức Giêsu, hoặc theo Ngài, hoặc chống Ngài như ông Simêon đã nói tiên tri (Lc 3,35).

Truyện: Họ đã chọn một phép rửa.

Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thấy có biết bao gương sáng của những vị anh hùng. Họ mang lửa nhiệt tình can đảm trong tim để làm chứng cho sự thật Phúc âm. Họ cũng đã phải chịu “một phép rửa” của đau khổ như Đức Giêsu đã chịu.

Chẳng hạn như cựu Tổng thống Nam phi Nelson Mendela, người được giải thưởng Nobel về Hòa bình, đã bị tù 27 năm vì đấu tranh chống lại nạn kỳ thị chủng tộc ở Nam phi.

Yitzak Rabin, cựu thủ tướng Do thái, bị ám sát chết vì lập trường hòa bình của mình.

Đức Tổng Giám mục Oscar Rômêrô ở El Salvado bị bắn chết lúc dâng Thánh lễ vì bảo vệ người nghèo chống lại quyền lực.

Và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bị ám sát hụt, như một hậu quả của những giá trị Ngài bênh vực.

Chúng ta có thể sống ung dung để tránh né “ngọn lửa” thanh luyện mà Đức Giêsu đề cập tới không? Nếu Đức Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những lời “dễ nghe”, hẳn Ngài đã trở nên một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Ngài đã chọn cách làm cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối.

Chúng ta sẽ phản bội Tin mừng nếu chúng ta giản lược nó thành một sứ điệp dịu dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những sự khác nhau giữa người giầu và người nghèo, giữa người có quyền và người cùng khổ, giữa người tốt và người xấu. Một Tin mừng nhạt nhẽo như thế không thể nào thành men làm dậy bột thế gian.

Có một xu huớng “thuần hóa” Tin mừng, giản lược nó thành những lời hay ý đẹp và những kinh nghiệm an tòan dễ chịu. Khi điều ấy xẩy ra thì lửa tàn lụi, men mất hết sức mạnh, muối mất hết vị, ánh sáng trở nên mù mờ. Nếu chúng ta sống như vậy, e rằng đến ngày sau hết Đức Giêsu sẽ đem “ngọn lửa phán xét” từ trờ xuống mà phán rằng:”Ngày ông Lót ra khỏi Sôđôma, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng sẽ xẩy ra như thế, ngày Con Người được mạc khải”(Lc 17,29). Hãy làm cho ngọn lửa nhiệt tình bùng cháy lên như thánh Phanxicô Assisi đã làm. Ngài đã dám lột bỏ hết mọi sự giầu sang nhung lụa, trả lại cho người cha trần thế, để chỉ chú tâm kiếm tìm các giá trị thiêng liêng nơi người Cha trên trời.

Truyện: Ozanam, ngọn lửa nhiệt tình.

Năm 1843, thành phố Paris đang bị xáo trộn, Đạo Công giáo bị đe dọa, các cơ sở tôn giáo bị phá phách. Tại Lyon, bọn thợ thuyền cũng kéo cờ đỏ, hát những bài phạm đến Chúa và phản đạo. Năm ấy Ozanam học luật tại Paris. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc bác ái để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc âm, rước lễ. Cậu thụ giáo với giáo sư Ampère về học thức và đạo đức. Và cậu mạnh bạo bênh vực Giáo hội. Với Ozanam các sinh viên, trước đây rụt rè lo sợ, bây giờ mạnh bạo. Các giáo sư đại học cũng phải kiêng nể Công giáo. Cậu tổ chức các buổi diễn thuyết làm sống lại Đạo Công giáo. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn giúp đỡ các người nghèo khổ. Hồi 18 tuổi, cậu đã thề:”Nhất định hy sinh đến thí mạng cho dân nghèo”. Đồng thời với Ozanam, Montalembert tranh đấu cho tự do giáo dục của Giáo hội, tại nghị trường. Dù là giáo sư đại học, Oznam vẫn hàng tuần đi các khu nghèo khó để dạy giáo lý cho những người công nhân nghèo khổ.

Ngày nay Giáo hội cũng cần nhiều tâm hồn có lửa nhiệt tình như Ozanam.

home Mục lục Lưu trữ