Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 63

Tổng truy cập: 1362775

KIỆN TOÀN LỀ LUẬT

KIỆN TOÀN LỀ LUẬT(*) Chú giải của Noel Quesson

 

Sau các mối Phúc thật, là phần dẫn nhập. Bài giảng trên núi được tiếp tục trong ba chương dài trong đó Matthêu trước hết tập họp sáu phần đề giữa Luật của Môsê (“Anh em đã nghe Luật dạy rằng”) và Luật mới của Đức Giêsu (Thầy bảo thật cho anh em biết…). Chúa nhật này, chúng ta, đọc bốn phân đề đầu tiên, đi trước bằng một soạn mở đầu đem lại định hướng tổng quát cho cả bài đọc.

Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ lề luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn.

Đức Giêsu không phải là một nhà cách mạng muốn thay đổi mọi sự như thế quá khứ đã không tồn tại, để bắt đầu lại từ con số không? Cũng không phải là một nhà bảo thủ không muốn thay đổi gì cả như thể mọi việc trong quá khứ luôn luôn hoàn hảo. Chúng ta chớ quên rằng Tin Mừng của Thánh Matthêu được gởi đến các cộng đoàn Kitô hữu, ở Pa-lét-tin và Ki-ri theo Kitô giáo từ đạo Do Thái. Những câu hỏi về các sự “tiến hóa” được trình bày với nhiều sự kịch liệt: có nên bảo vệ các tập tục cắt bì cho các em nhỏ không bởi vì giờ đây đã có phép rửa tội? Có nên tiếp tục tôn trọng ngày Sabát không? Có nên tiếp tục chỉ ăn thức ăn “theo đúng nghi lễ” không? Vấn đề tiến hóa, tiến bộ lịch sử ấy vẫn còn là một trong những vấn đề quan trọng nhất của mọi thời đại. Trong những thời kỳ lịch sử biến động, những cuộc xung đột giữa “cũ và mới”, giữa “truyền thống” và “tiến bộ” trở nên quá khích. Và điều đó được đặt ra ở khắp nơi: trong Giáo Hội, trong thành phố, trong chính trị trong nghề nghiệp, trong gia đình. Đối với Đức Giêsu, không có vấn đề bãi bỏ quá khứ, cũng không có việc bảo tồn nguyên xi mà phải cho nó một sự sống mới, trong một thành tựu. Không phải vì truyền thống cổ xưa mà nó tốt. Không phải vì một ý tưởng mới mà nó tốt hơn: Đức Giêsu sẽ cho chúng ta sáu ví dụ trong phần nối tiếp của Bải giảng trên núi.

“Vì Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm, một phết trong Lề Luật cũng không thể đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế thì sẽ bị gọi là bé nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời”.

Theo Đức Giêsu, Kitô giáo đến để hoàn thành Do Thái giáo. Tân ước là một chồi ghép hoàn toàn mới được nuôi bằng nhựa của cây ô-liu cũ tức “Cựu ước”, để làm cho cây sinh ra nhiều quả (Rm 11, 17-24). Vâng, Đức Giêsu là Đấng được loan báo và chuẩn bị, Đấng đến để kiện toàn Luật và lời các ngôn sứ nghĩa là toàn bộ Kinh Thánh, Abraham, Môsê, Đavít, Isaia, các Thánh vịnh, các Hiền nhân, toàn bộ lịch sử và tư tưởng của Israel sẽ trổ hoa và phát triển trong Đức Giêsu.

Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sê chẳng được vào Nước Trời.

Công thức này phát triển nguyên tắc tổng quát mà sáu phản đề mà Đức Giêsu sắp triển khai sẽ đem lại sự minh họa.

Sự công chính là một từ ngữ Kinh Thánh rất phong phú mà Matthêu ưa thích một cách rất đặc biệt (Mt 1,19; 3,15; 5,6.10-20; 6,1.33; 9,13; 10,41; 11,19; 12,37; 13,17.43.49; 20,4; 21,32; 23,28.29.35; 25,37.46; 27,19.24). Từ “công chính” này không chỉ có ý nghĩa hạn hẹp mà ngôn ngữ hiện đại cho nó: sự công bằng xã hội điều hành những tương quan giữa con người với nhau “sự công chính” theo nghĩa Kinh Thánh chủ yếu là “theo đúng điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta trở thành”. Một người công chính là người hoàn toàn đồng ý, cộng sinh,liên minh, hòa hợp với Thiên Chúa, Đấng suy nghĩ và thiết lập vũ trụ và điều hành nó với sự thông minh kỳ diệu. Người công chính, bởi “sự tương ứng” của đời sống người ấy với ý muốn của Thiên Chúa, sẽ tham dự vào Thiên Chúa và đi đến hạnh phúc, nghĩa là đến “mục đích vì đó mà người ấy được sinh ra”. Vả lại Đức Giêsu đề nghị một sự “công chính mới”, một sự hoàn thiện con người mới. Đức Kitô nói phải vượt qua sự công chính… vậy của ai nào?

– Các kinh sư những nhà thần học của thời đại ấy, những nhà chú giải Kinh Thánh, những vị thầy có chục vị, những giáo trưởng dạy đạo một cách chính thức… Các người ‘Pharisêu’ (Biệt phái) những giáo dân dấn thân của thời đại ấy, liên kết với nhau trong một “phong trào” của những người nhiệt thành, cố gắng sống mọi yêu sách của đức tin thuần túy nhất không để thanh danh bị tổn hại.

Làm thế nào các môn đệ của Đức Giêsu, những con người nghèo khổ và đơn sơ, không học vấn lại có thể so sánh với những học giả và các chuyên viên nhiệt tình của Lề Luật?

Ba ví dụ đầu tiên về sự “trội hơn” mà Đức Giêsu đề nghị là hoàn toàn có ý nghĩa và chủ yếu cho cả đời người:

1) Bạo lực, những mối tương quan sức mạnh giữa con người.

2) Tính dục, những tương quan tình cảm và thể xác giữa đàn ông và đàn bà.

3) Chân lý, những tương quan lắng nghe và đối thoại trong sự truyền thông.

BẠO LỰC:

“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: “Chớ giết người”. Ai giết người thì đáng bị ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: “ ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy nếu khi anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã; rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho, quan tòa, quan tòa lại giao cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng…”

Đây là “môi trường” thứ nhất mà con người phải trội hơn; môi trường của những mối tương quan nhân loại có xung đột và gây gỗ. Đức Giêsu biết rõ lòng dạ con người, trước khi trở thành những hành động xấu thì thù hận, sự khinh khi, bản năng thống trị đã làm hư hỏng tâm hồn con người. Bạo lực không chỉ là quả bom của kẻ khủng bố làm cho bạn kinh hoàng… bạo lực đã ở trong lòng bạn, khi bạn tức giận trong lòng chống lại những người không suy nghĩ như bạn. Và Thiên Chúa bảo đảm:cho phẩm chất các mối quan hệ của bạn: bạn phải “hòa giải” với kẻ thù của mình trước khi cầu nguyện! đó là cái mới mẻ, cái triệt để của Tin mừng… trong tương quan với luật cũ.

TÍNH DỤC:

Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “Chớ ngoại tình Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngọai tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi, vì thà mất mộ phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hỏa ngục… Luật còn dạy rằng: “Ai rẫy vợ thì phải cho họ chứng thư ly dị”. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường.hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại mình, và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình..”

Những quan hệ giữa “đàn ông” và “đàn bà” là “môi trường” thứ hai trong đó Đức Giêsu mời gọi chúng ta “trội hơn” Lề Luật. Trước tiên chúng ta hãy ghi nhận rằng lời của Đức Giêsu nói ra là theo “quan điểm” của đàn ông, bởi vì xã hội thời Người, là một xã hội của đàn ông. Rõ ràng ngày hôm nay phải đọc những lời ấy trong sự hỗ tương trọn vẹn. “Mọi người đàn bà bỏ rơi chồng mình …

Những lời này của Đức Giêsu, liên quan đến tính dục của bạn, vợ chồng bạn, đời sống độc thân của bạn… bạn hãy đọc lại những lời ấy, như thể Đức Giêsu nói với chính bạn, mặt đối mặt. Những lời này đụng đến nhiều vết thương còn đau nhức, nhiều lý tưởng bị nhạo báng, nhiều ước mơ không được thực hiện đến nỗi có lẽ cần được giải thích đôi chút. Những cuộc tranh luận về “ngoại lệ của Mat-thêu” trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp) rất khó chỉ rõ, và tốt hôn hết là tham khảo đến những lời ghi chú của Kinh Thánh có ghi nhận về các cách hiểu về ngoại lệ ấy.

Tuy nhiên mỗi người chúng ta phải đón nhận lời yêu cầu của Đức Giêsu như một lưỡi gươm: Trong thế giới sự phi nhân mà chúng ta đang sống; những lời ấy của Đức Giêsu quả là thúc bách và dường như đi ngược lại với sự phát triển của đàn ông và đàn bà. Thật vậy, trong đáy lòng, chúng ta nhận biết những lời ấy xác định đường lối duy nhất và thật dũng cảm của việc phát triển thật sự. Cũng không nên hiểu những lời ấy như những điều quy định về luật pháp: Sự “‘trội hơn” Luật mà Đức Giêsu đề nghị chỉ có thể sống… với Người, với ân sủng và tình yêu của Người.

CHÂN LÝ:

“Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa”. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ…”

Đây là những lệnh truyền của Đức Giêsu mang tính hiện đại rất cao. Đây hoàn toàn là vấn đề hiệp thông giữa con người với nhau. Những tương quan của con người bị làm hư hỏng từ bên trong bởi sự lừa bịp, bởi thủ đoạn, sự giả vờ, sự giả mạo, quỷ quyệt, dối trá… sự quảng cáo và thông tin thương mại… Đức Giêsu mời bạn đến với chân lý của cuộc “đối thoại”, các cuộc đàm luận của chúng ta. Tìm một sự bảo đảm bên ngoài trong một lời thề là một điều vô ích (tôi thề với anh tôi nói sự thật!) lời nói của một con người, lời nói của bạn tự nó phải có một giá trị: hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không… Đức Giêsu tạo ra một “nền đạo đức” mới. Người không bãi bỏ gì cả, người “kiện toàn” từ trong nội tâm điều mà tự nền tảng là lý tưởng của mọi chủ nghĩa nhân bản chân chính.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN- A

KHÔNG PHẢI BÃI BỎ NHƯNG LÀ KIỆN TOÀN- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

*1. Nguyên tắc chung: “không bãi bỏ, nhưng kiện toàn”.

Leo lên ngọn núi Sinai mới, Đức Giêsu, trong các mối phúc của nình, trước tiên, tán tụng cảnh sống hạnh phúc của các môn đệ qua lời mở đầu của bài giảng trên núi: “Phúc cho những tâm hồn nghèo khó: vì nước trời là của họ”. Đoạn ngài, minh định sứ mệnh trao phó cho họ: “Các con là muối đất… các con là ánh sáng trần gian” tiếp đến trung tâm bài Hiến chương, Ngài mạc khải cho các người của mình sự mới mẻ hoàn toàn của Tin Mừng. Bản văn mang đậm dấu ấn của thánh Mátthêu này gợi lên áp lực lưỡng diện đang đè nặng trên những cộng đoàn Kitô giáo.

Trước tiên, là áp lực ngoại tại của hội đường, nhân danh lề luật bắt bớ các môn đệ của Đức Giêsu. Sau đó, là áp lực nội tại của các cộng đoàn tín hữu bất nguồn từ Do thái giáo, “truyền thống hơn ” đôi khi co vào sự tuân giữ lề luật theo nghĩa ngữ, đối lại với các tín hữu xuất thân từ đa thần giáo, luôn tìm cách gièm pha lề luật Giáo huấn của Đức Giêsu sẽ sửa lưng cả hai. Quả thật, Ngài tuyên bố rằng mình “không đến để bãi bõ lề luật hay các tiên tri, mà để kiện toàn” nghĩa là thể hiện một cách viên mãn, hoàn hảo trong tình yêu và tự do của Con cha trên trời. Vì thế, từ nay “sự công chính” mới hệ tại không phải ở chỗ khép mình một cách bề ngoài vào các tập tục, nhưng là “khuôn mình” theo thánh ý Chúa Cha như Đức Giêsu. Sống trong cộng đoàn với tình yêu và tự do của con cái có thể, mới “công chính” hơn các luật sĩ và biệt phái được Thánh Irênê thành Ly-on, vào thế kỷ thứ hai đã hỏi: như vậy, khi đến trần gian này, Chúa đã mang theo những gì? Ngài đã mang theo sự mới mẻ hoàn toàn bằng chính con người của Ngài.

*2. Những áp dụng cụ thể

Tiếp sau là năm phản đề cụ thể hóa “sự công chính mới” sẽ là bài học áp dụng nguyên lí tổng quát này vào cuộc sống tín hữu, vì chính toàn thể lề luật Phúc âm phải bao bọc toàn thể cuộc sống các môn đệ. Năm hình ảnh, mà chúng ta sẽ theo dõi trong bài đọc chúa nhật tới, đều bắt đầu với công thức “Anh em đã nghe biết người xưa dậy rằng… còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết… ” Một kiểu nói trống để tránh dùng tên Thiên-Chúa, có nghĩa là “Thiên-Chúa đã phán “, “anh em đã nghe biết khi lời Chúa được công bố long trọng trong hội đường”, đối lại, Chúa đưa ra những xác quyết của riêng mình “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Theo Jean Potin, “Đức Giêsu tự giới thiệu như là một Môse mới, không chỉ đủ thẩm quyền giải thích luật lệ của Thiên Chúa, mà còn cách tân: luật Chúa đã bảo anh em…nhưng Thầy, Thầy bảo anh em…ngài còn hơn cả luật Môsê mới nữa vì Ngài không chỉ bằng lòng nói về lề luật mới như một nhà làm luật, mà còn cắt nghĩa cho người cụ thể để họ gắn bó ngày càng mật thiết hơn với Thiên-Chúa Cha, là Đấng mà họ phải nên hoàn thiện như Người. ” (Đức Giêsu, lịch sử đích thực, Centurion, tr. 198) Minh họa đầu tiên là “mối tương giao huynh đệ” Thập giới truyền bảo “ngươi không được giết người’? Còn Chúa Giêsu, đi đến cùng chung đòi hỏi cua lề luật, đã tuyên bố rằng, nguyên việc không phạm tội sát nhân thôi: chưa đủ, mà còn phải loại bỏ nỗi oán hận và giận hờn khỏi lòng mình nữa. J.Potin viết “Trong thập giới của Môsê, lên án tội giết người thuộc giới răn thứ năm. Ở đây, nó được nói đến đầu tiên, chắc chắn vì nó bao hàm một cách tiềm ẩn giới răn tràn đầy bài diễn từ trên núi tình yêu tha nhân, thực tế trong tình yêu tha nhân…trở thành giới răn đầu tiên: Đức Giêsu đã thấy mầm mống của giới luật yêu thương này trong điều răn lên án việc giế người. Kính trọng sự sống người khác mở đường cho việc bày tỏ tình yêu ân cần hơn đối với tha nhân. Cả hai đều phải được xem xét trước mặt Thiên-Chúa là Đấng mà Đức Giêsu sẽ là quan án và hiền phụ”. (Sách đã dẫn, tr. 198-l99)

Hai ví dụ ở ngôi thứ hai số ít “anh” tiếp nối mình hoạ thứ nhất “vì thế, khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ…”xung đột là mầm mống sát nhân, và hòa giải là một bổn phận cấp thiết hơn cả việc dâng của lễ cho Thiên-Chúa: “hãy đi làm hòa với người anh em trước đã rồi hãy trở về dâng lễ vật của mình” hãy mau mau dàn xếp với đối phương”: thù oán dây dưa, ngày sau sẽ vô phương cứu chữa trước tòa án Thiên-Chúa.

Minh họa thứ hai nói về mối tương giao nam nữ trong đời sống hôn nhân. Trong Do Thái giáo, thủy chung là nền tảng của đời sống hôn nhân: nó được chứng thực bằng sự thủy chung của Thiên-Chúa đối với giao ước và với dân riêng người. J.Potin cắt nghĩa: “Hôn nhân không chỉ là một khế ước có tính luật pháp. Nó ràng buộc con người tự đáy lòng họ. Vì thế khi người đàn ông đã có vợ thèm muốn vợ người khác là đã phạm vào dây hôn phối. Trái tim đã chệch khỏi Giao ước của nó. ” (Sách đã dẫn, tr. 199).

Minh họa thứ ba nói đến những lời thề hứa mà người ta cho rằng sẽ mạnh hơn khi nại đến những thực tại ít nhiều thánh thiêng: “Chỉ trời, chỉ đất, chỉ Jerusalem… ” Đức Giêsu xác quyết, đừng thề gian không thôi chưa đủ còn phải diệt trừ khỏi lòng ta sự lập lờ, bất chính, đa nghi nữa, không được đi xa hơn lời nói chân thực gian dối: “khi các ngươi nói có” là phải “có ‘! Mức qui định mà Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ là: biến đổi tấm lòng để có thể hiệp thông với những tình cảm của Thiên-Chúa được biểu hiện trong Đức Kitô con Ngài. Như đức cha L.Daloz viết “Đối với các môn đệ, kiện toàn lề luật khác hẳn việc thực thi các mệnh lệnh. Đúng hơn, đây chính là việc để cho các luật kiện toàn chính mình, đưa mình đi tới cùng (“Nước Trời đến gần”, Desclée đe Brouwer, tr. 51)

*BÀI ĐỌC THÊM:

*1. “Hãy để cho lề luật kiện toàn chính chúng ta” (Đức cha L. Daloz. trong nước Trời đến gần! Desdée de Brouwer, 1994, tr 51).

“Đức Giêsu kiện toàn lề luật bằng cách trả lại cho nó tất cả sự trong sáng của lời Thiên Chúa, khi nhấn mạnh đến điều cốt lõi: “Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải hi tế.” Khi được hỏi về giới răn trọng nhất. Ngài không do dự trả lời rằng toàn bộ lề luật và tiên tri đều qui về giới răn trọng nhất là yêu mến Thiên-Chúa hết lòng, hết linh hỗn, hết trí khôn và yêu thương anh em chính mình.(Xem 22,34-40). Chính Ngài đã kiện toàn giới răn cao cả ấy bằng cách tự hiến đời mình. Phần các môn đệ, kiện toàn lề luật khác hẳn việc tuân thủ các mệnh lệnh. Đúng hơn, chính lề luật kiện toàn ta, đưa ta đi cùng. Có thế mới đáng để ta tuân giữ giới răn nhỏ bé nhất thậm chí cho tới một nét phẩy – không phải vì tỉ mỉ hay cầu toàn, nhưng vì tự hiến hoàn toàn, mở lòng trọn vẹn, để lời của Thiên-Chúa thấm nhập và biến đổi tận đáy lòng ta, và biến ta nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo. Đây không phái là sự nô lệ ma là tình nguyện. Nó không bao giờ kết thúc vì ta luôn bất toàn. Đây là sự rèn luyện trường kì về tính sáng suốt và lòng can đảm. Trước tiên, đây là một hồng ân, một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn và thực hiện nơi ta điều đó đây chính là tác phẩm của Chúa Thánh Thần, Đấng đến để sản sinh trong ta những hoa trái của người, như vậy kiện toàn lề luật là ghi khắc nó vào tận đáy lòng ta…”

*2. “Sự cấp tiến của bài giảng trên núi”. (J. Guillet, Đức Giêsu trong niềm tin của các môn đệ tiên khởi. Desclée de Brouwer, 1995).

Tính cấp tiến này không hề nệ luật. Điều hay nhất của bài giảng là không có thêm một điều khoản bổ túc, một đòi buộc mới nào. Nhưng là không cho phép bất cứ ai tự tin mình đã đạt đến sự công chính cao siêu cả. Nó bắt mọi môn đệ tự do tưởng tượng, tiến xa hết mức trong việc phục vụ và trong tình yêu tha nhân. Giới luật đặc thù của Tin Mừng luôn có tính tích cực. Tại chỗ mà luật cũ mang tính tương đối và hạn định một giới hạn không thể vượt qua “Ngươi không được giết người, không được phạm tội ngoại tình ” thì Đức Giêsu lại công thức hóa chúng theo đường hướng tích cực: trước hết, hãy đi làm hòa đã, hãy móc mắt phải mà nén đi. Ta phải biết nhận ra nguyên lí nền tảng đàng sau những phóng đại quen thuộc theo kiểu nói Phương đông, anh không được đặt giới hạn cho tình huynh đệ, cho việc tôn trọng phụ nữ.”

*3. “Cuộc cách mạng tôn giáo vĩ đại nhất từ trước tới nay” (H. Denis 100 từ nói lên niềm tin: Desclée de Brouwer, 1993).

“Bạn có biết thập giới không? Có lẽ bạn có thể đọc thuộc mười điều răn bằng văn xuôi hay văn vần, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng hơn, đó là biết được điều Đức Giêsu đã làm đối với thập giới. Ta có thể nói với Ngài rằng Lề Luật, không bị hủy bỏ, nhưng được thăng tiến để được kiện toàn. Nói cách khác, ta cũng phai để ý kẻo khi vượt lên lề luật, ta lại khinh thường nó bằng cách bám víu vào đó như Đức Giêsu chưa từng kiện toàn nó vậy. Với cái nhìn này, bài giảng trên núi có lẽ là cuộc cách mạng tôn giáo vĩ đại nhất của mọi thời. Một con người, một vị tiên tri, một sứ giả của Thiên-Chúa dám nói lên những lời chưa từng nghe, anh em đã nghe Luật dạy “người xưa rằng, còn thầy, Thầy bảo cho anh em biết”: Vị Giêsu này vượt trên cả lề luật. Bạn hãy tưởng tượng xem Luật dậy người xưa. Luật ở đây là ai? Thật đơn giản. đó chính là Thiên-Chúa của Cựu ước, Đấng đã ban Lề Luật. Vì thế mà đối với người Do thái, không ai có thể vượt hơn Lề Luật, hơn được Lời Thiên-Chúa đã trao ban một lần cho đến muôn đời được: Vậy mà, có một người đã dám vượt trên Lề luật, bạn hãy lần lượt xét kỹ từng giới răn rồi sẽ thấy, quả thật, khi đã biết Đức Giêsu là ai rồi, người ta sẽ thấy các giới răn thiêng liêng này thật tương đối so với một điều cao cả hơn nhiều là nhận ra Tình yêu được biểu lộ nơi Đức Giêsu, con Chúa Cha. Luật dạy người xưa rằng, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết. Có lẽ các bạn đã biết đây là một trong ba luận cứ mà thần học đã rút ra từ Tin Mừng, coi như để mạc khải thiên tính của Đức Giêsu (một Đức Giêsu, may thay không bao giờ tự xưng: ta là Thiên Chúa, nhưng anh em bảo Thầy là ai? Các bạn cũng biết hai luận cứ kia là gì rồi. Thứ nhất đó là việc gọi Thiên Chúa là Cha, người Cha (Abba) thân thương thực sự. Sau đó là lời yêu sách quá quắt. Mọi tội con đã được tha ‘chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội mà thôi’.

Bạn thấy lề luật được kiện toàn này đưa ta đến đâu vào những lúc nghi nan, hay những giây phút mỏi mòn vì phải trung thành với Lề luật, bạn hãy nhớ đến sự can đảm của Đức Giêsu: “Luật dạy người xưa rằng, còn Thầy, bảo cho anh em biết.”

home Mục lục Lưu trữ