Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 52

Tổng truy cập: 1362864

LÀ MUỐI LÀ ÁNH SÁNG

LÀ MUỐI LÀ ÁNH SÁNG

 

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

“Chính anh em là muối cho đời”

“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.

Chúa Giêsu đề cập đến muối và ánh sáng ngay sau Hiến chương Tám Mối Phúc. Phải chăng Người muốn giải thích tám phúc qua hai hình ảnh cụ thể: Muối và ánh sáng.

Ý nghĩa muối và ánh sáng có vẻ tương phản như kiểu nói: nghèo khổ, sầu đau, bị bách hại lại được phúc. Thực ra, kiểu nói đó không có gì là mâu thuẫn nhưng hoàn toàn ăn khớp với nhau, có sức làm nổi cộm những ý nghĩa sâu sắc như những hình ảnh nổi trên màn ảnh không gian ba chiều, muối như nền không gian ba chiều cho những ánh sáng nổi lên rõ nét.

Chắc chắn Chúa Giêsu không muốn nói đến cấu trúc khoa học của muối và ánh sáng, mà chỉ nêu ra những công dụng rất hữu ích và cần thiết của chúng.

1/ Ai cũng biết công dụng của muối là ướp đồ ăn khỏi hư thối, thêm hương vị đậm đà và dễ tiêu hóa, muối còn được dùng trong nhiều ngành công nghệ để làm chất thanh tẩy trong bột giặt, cho thủy tinh trong suốt, tơ sợi bền dai. Muối rất hữu ích, nhưng tự nó hòa tan dễ dàng. Hòa tan mà vẫn không biến chất: “Hòa nhi bất đồng”. Hòa tan bỏ mình đi để muối có sức thấu nhập tận cốt tủy của đồ ăn, của chất liệu cần dùng nó. Nhờ đó muối bảo tồn, gìn giữ vật khỏi hư thối, nguyên liệu được thanh tẩy, hương vị được thơm ngon đậm đà.

Phải chăng đây là ý nghĩa mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh hơn cả, nơi chính mình Người và cho môn đệ Người. Chính Ngài là Thiên Chúa đã từ bỏ địa vị Thiên Chúa vinh quang, hủy mình đi (Semetipsum exinanivit ... Phil. 2, 7). Hòa tan vào thân phận nô lệ phàm nhân để thanh tẩy mọi ô uế của phàm nhân, làm cho phàm nhân nên tươi tốt, đậm đà thơm ngát trong tình yêu Thiên Chúa, làm cho phàm nhân nên trong suốt phản chiếu ánh sáng chí thánh của Ngài để tỏa sáng vinh quang Ngài khắp nơi.

Ai tin theo Chúa Kitô cũng phải bỏ mình đi để hòa tan như Thánh Phaolô: “Tôi sống không còn phải là tôi sống, nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Tại sao phải hủy mình đi? Bài đọc II cho thấy rõ lý do: “Khi tôi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt, run rẩy... nhưng tôi chỉ dựa vào Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào Thập giá... chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh thần và quyền năng Thiên Chúa”.

Đức Kitô là muối, Phaolô cũng phải là muối để hòa tan biến đi, từ bỏ mình đi, hạ mình xuống làm nền như tảng đá để xây lên những thành phố cao, để làm chân đế của những ngọn đèn sáng chiếu soi cho mọi người trong nhà và trong khắp thế gian.

2/ “Anh em là ánh sáng cho trần gian”

Ánh sáng soi cho ta thấy mọi vật muôn sắc ngàn màu tươi đẹp. Ánh sáng kích thích cây cối hoa màu sống phát triển mạnh mẽ. Thiếu ánh sáng chúng bị úa, bị chết yểu. Thế kỷ thứ XX mệnh danh là thế kỷ ánh sáng. Biết bao nhiêu phát minh tân kỳ từ đèn điện, bếp điện đến những phát thanh truyền hình, rađa, quang tuyến, siêu âm, vi tính, cáp quang.

Từ những công dụng kỳ diệu của ánh sáng tự nhiên, Chúa Giêsu cho ta thấy một thứ ánh sáng siêu nhiên vô cùng lạ lùng.

Ánh sáng siêu nhiên vô cùng đó phát ra từ chính Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là nguồn sáng” (Tv. 1,1), là Đấng tạo thành ánh sáng mặt trời, mặt trăng và tinh tú (St. 1,16; Tv. 135, 7-9; Ga. 1,17). Cho nên uy linh Ngài như cẩm bào ánh sáng. Ngài hiện xuống núi, đến với dân trong ánh lửa (Xh. 19,12). Làm cho dung nhan Môsê tỏ ánh hào quang (Xh. 34,29). Lời Ngài như tia sấm sét (Xh. 20,18), nhưng thật êm dịu như ánh trăng thanh và dịu ngọt dường bao, hơn mật ong ngậm trong miệng (Tv. 118, 103-105).

Huyền diệu thay! Êm ái ngọt ngào thay! Ánh sáng chính là Ngôi Lời: “Ngôi Lời là Thiên Chúa... là ánh sáng thật đã đến trong thế gian, chiếu soi vào bóng tối cho mọi người... Ngôi Lời đã trở thành người phàm và ở trong chúng ta” (Ga. 1, 1-9).

Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta như Người đã xác nhận: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không mất đi trong tối tăm, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống” (Ga. 8, 12) và ban cho chúng ta ánh sáng, Người nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.

Người đã đến chiếu soi vào bóng tối cho mọi người thế nào?

Thưa Người “loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố ân xá cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được sáng, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”, “Tất cả những ai đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn đều được Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ lành, quỷ cũng xuất khỏi nhiều người” (Lc. 4, 18-19... 40-41). Người làm nhiều hơn thế: cho kẻ chết sống lại, chính Người đã chịu chết trên Thập giá để soi cho mọi người thấy ánh sáng dẫn tới nguồn sống.

Tất cả những ai đi theo ánh sáng đều phải là ánh sáng chiếu vào bóng tối soi cho mọi người như vậy: “Gần đèn thì rạng” “Hữu xạ tự nhiên hương”. Bài đọc I đã đề ra một số việc cụ thể của con cái ánh sáng phải thi hành là cứu người đói nghèo, đau khổ, bệnh tật, biết chia cơm xẻ áo, tiếp giúp kẻ bơ vơ không nhà, đẩy lùi áp bức, gông cùm.

Có ra sức chiếu sáng như thế mới được Người cho quyền trở nên con cái Thiên Chúa và được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác từ nguồn sung mãn của Người (Ga. 1, 12... 16).

“Hãy cảm tạ Chúa, vì Người nhân từ:

Cho Thái Dương soi sáng ban ngày,

đặt trăng sao hướng dẫn ban đêm” (Tv. 135, 7-9).

“Cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta. Soi sáng cho những ai ngồi trong tăm tối và bóng tử thần; dẫn ta bước vào nguồn sáng bình an” (Lc. 1, 78-79).

Vậy chúng ta hãy:

“Chúc tụng Chúa đi, các Thiên sứ của Người; muôn ngàn đời hãy chúc tụng suy tôn.

Chúc tụng Chúa đi, mặt trời với mặt trăng.

Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh tú muôn ngàn.

Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá cỏ cây.

Chúc tụng Chúa đi, hết mọi loài muông thú.

Chúc tụng Chúa đi, tôi tớ phục vụ Người.

Nào chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Muôn ngàn đời cùng ca tụng suy tôn”.

 

7.Làm men làm muối

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Anh em là ánh sáng cho đời. Vì thế, anh em phải sống sao để người ta nhìn thấy việc tốt anh em làm mà ca tụng Cha trên trời.

1. Anh em là muối đất

Đức Yêsu mời mỗi người nghe Ngài là muối đất, là ánh sáng cho đời. Muối là vật giữ cho những điều khác khỏi hư. Chẳng hạn trong một nơi không có tủ lạnh, nếu không được ướp muối thì cá hoặc thịt một con vật không thể để lâu được, nó sẽ bị ươn thối. Kitô hữu là muối đất, hàm chứa ơn gọi Kitô hữu là sống giữa đời, giữa những người khác, nhưng qua đời sống của họ, làm men làm muối cho đời, giúp thế gian này không bị hư đi.

Khi nói đây là ơn gọi, nghĩa là, Chúa muốn và mời gọi Kitô hữu sống như vậy. Ơn gọi giáo dân là ơn gọi sống giữa đời, làm gương sáng cho đời bằng chính cuộc sống của mình chứ không chủ yếu bằng lời nói. Giáo dân là người cùng chia sẻ thân phận với người đời, gặp những khó khăn như họ, có những thao thức như họ, cũng bị gian truân thử thách như họ mọi đàng. Chỉ khác một điều, Kitô hữu là người tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Yêsu Kitô. Niềm tin vào Thiên Chúa và Đức Kitô, đòi buộc và giúp Kitô hữu sống như con cái Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Khó khăn thì giống nhau nhưng Kitô hữu được gọi sống dựa vào Thiên Chúa Tình Yêu. Khi sống như vậy, Kitô hữu sẽ sống an bình hơn. Chính điều này làm Kitô hữu nên men nên muối cho đời. Ở giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Sống hoà với mọi người, nhưng vẫn khác; sống giống như mọi người, nhưng vẫn khác. “Hoà nhi bất đồng, đồng nhi bất hoà”. Ở giữa thế gian, để thành dấu hỏi cho thế gian, để là chứng nhân của bình an và hy vọng.

2. Diễn tả tình yêu cách cụ thể: chia cơm sẻ áo

Lời Chúa trong sách tiên tri Ysaya khuyên người ta hãy chia cơm bánh cho người đói, cho người bị áp bức và không nhà cửa ở nhờ, cho người trần trụi áo mặc. Làm như vậy, khi cầu nguyện Chúa sẽ nghe, khi bị tai hoạ kêu cầu Chúa sẽ cứu.

Chính khi yêu người khác, giúp đỡ người khác trong nhưng cơn cùng quẫn của họ, làm họ bớt khổ, nâng đỡ họ khỏi sa phải cảnh cùng khổ hơn, giúp họ an bình hạnh phúc hơn, thì mình trở nên đẹp hơn, cao thượng hơn, tuyệt hơn và đáng yêu hơn. Chính khi giúp đỡ người khác, thì mình cũng được giúp đỡ hơn. Chính khi giúp người khác hạnh phúc, thì mình được hạnh phúc hơn. Chính khi giúp người khác triển nở, mình sẽ được triển nở hơn và trưởng thành hơn.

Khi yêu, người ta còn hy vọng, còn chờ còn đợi. Tình yêu với niềm hy vọng, có thể biến đổi con người, và có sức biến đổi lòng người. Trong lịch sử Giáo Hội, thánh Augustinô là một thí dụ. Ngài hoang đàng, nhưng người mẹ tốt lành đạo đức luôn cầu nguyện cho Ngài, và Ngài đã trở lại. Ngài đã được rửa tội, làm linh mục, làm giám mục, làm thánh; và mẹ Ngài cũng là thánh Mônica, vì đã là một người mẹ gương mẫu: thương con. Thiên Chúa vẫn yêu và chờ người tội lỗi sám hối trở lại với Ngài; và chúng ta tin rằng tình yêu của Ngài sẽ chiến thắng.

3. Quyền năng Thiên Chúa tỏ lộ qua những gì yếu đuối tầm thường

Thánh Phaolô nói với dân Corintô rằng, khi Ngài tới với họ, Ngài không biết gì hơn họ ngoài Đức Yêsu Kitô, Đấng chịu đóng đinh. Ngài đến với họ như một người ốm yếu, run rẩy sợ sệt, để sức mạnh của Tin Mừng được tỏ hiện.

Một người có thể được ơn trở lại, không phải vì họ nghe một bài giảng hùng hồn hay bài giảng thuyết cao sâu, nhưng có thể đơn sơ được đánh động bởi một hành vi bác ái của ai đó. Đời sống chan chứa tình bác ái của mẹ Têrêxa thành Calcuta có sức thuyết phục hơn những bài giảng hay rất nhiều.

Không nhất thiết phải học thần học và được đào luyện tại trường lớp mới thành người rao giảng Tin Mừng. Nếu mỗi người chúng ta sống yêu thương, chúng ta trở thành người rao giảng Tin Mừng, trở thành chứng nhân tình yêu- người làm chứng tình yêu của Thiên Chúa cho những người sống xung quanh chúng ta. Hãy sống sao, để những người sống với chúng ta thấy rằng Thiên Chúa yêu thương họ qua chúng ta. Có thế, chúng ta là men là muối, là ánh sáng cho đời, là người mang hạnh phúc cho người khác, và chúng ta cũng được hạnh phúc từng ngày.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bạn có bí quyết sống hạnh phúc không? Xin bạn chia sẻ.

2. Bạn có kinh nghiệm hạnh phúc khi giúp người khác bớt khổ hoặc hạnh phúc không?

3. Bạn bị phiền gì bởi người sống xung quanh nhất? Có ai sống với bạn cần bạn sửa đổi điều gì để họ được thoải mái hơn không? Bạn có sẵn sàng làm điều đó không?

 

8.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Vào ban tối, cứ mỗi lần bị cúp điện, chúng ta tìm mọi cách để cho có ánh sáng: bấm đèn pin, thắp lên một ngọn nến, thắp lên một ngọn đèn dầu… Những lúc như thế, chúng ta mới thấy sự cần thiết của ánh sáng đối với đời sống con người như thế nào. Đức Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc của đời thường này để cho chúng ta biết Ngài chính là ánh sáng và mỗi người chúng ta được mời gọi phản chiếu ánh sáng của Ngài.

1. Đức Giêsu là Ánh Sáng cho thế gian

Thật vậy, Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Chính Ngài đã khẳng định: “Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Đức Giêsu chính là ánh sáng chiếu soi tâm hồn, để dẫn bước chúng ta trên con đường tìm gặp Chúa. Khi Ngài bắt đầu cuộc sống công khai, Tin mừng đã áp dụng lời tiên tri Isaia sau đây cho Ngài: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Mt 4,16).

Ánh sáng đó chính là con người của Ngài: Đó là ánh sáng bao phủ các mục đồng khi sứ thần loan báo tin vui; đó là ánh sáng của ngôi sao lạ chỉ đường cho các nhà đạo sĩ đến gặp Hài Nhi Giêsu; đó là ánh sáng chói lòa bao phủ lấy Ngài trong biến cố biến hình trên núi Taborê; đó là ánh sáng đã quật ngã Phaolô trên đường Đamát, khiến Phaolô từ một người bắt bớ các Kitô hữu đã trở thành người loan báo Tin Mừng.

Ánh sáng đó chính là Lời của Ngài: Lời của Ngài được ghi chép lại trong các sách Tin mừng. Lời đó cũng chính là giáo huấn của Ngài. Thật vậy, Lời của Ngài đã xua trừ ma quỷ. Lời của Ngài đã chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Lời của Ngài đã cho kẻ chết sống lại. Lời của Ngài đã biến đổi biết bao tâm hồn từ trong tối tăm của sự chết đến ánh sáng huy hoàng. Lời của Ngài là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi (x. Tv 119,105). Giải thích Lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường (x. Tv 119,130).

Ánh sáng đó chính là hiệu quả các Bí tích mà Ngài đã thiết lập: Bí tích Rửa tội xóa tan tội Nguyên tổ và các tội riêng, giúp con người trở nên con Thiên Chúa; Bí tích Giao hòa, trả lại cho con người tội lỗi trở lại tình trạng nguyên thủy ban đầu; Bí tích Thánh Thể, gia tăng ơn thánh hóa và giúp cho người Kitô hữu đón nhận chính Đức Giêsu…Như vậy, các Bí tích nhằm mục đích giúp con người lãnh nhận thêm ánh sáng của Đức Giêsu.

2. Các con là ánh sáng thế gian

Chúng ta được đón nhận ánh sáng của Đức Giêsu ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Ngọn nến được trao cho chúng ta trong ngày hồng phúc đó chính là hình ảnh Đức Giêsu Kitô. Từ đó, chúng ta tiếp tục đón nhận ánh sáng của Đức Giêsu qua việc lãnh nhận các Bí tích, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa…Đặc biệt, chúng ta lãnh nhận ánh sáng Chúa Kitô qua đời sống cầu nguyện. Khi cầu nguyện là chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa. Nhờ cầu nguyện chúng ta được thêm sức mạnh, nạp thêm năng lượng thiêng liêng từ Thiên Chúa. Chính Mẹ Têrêxa Calculta đã nói: “Cầu nguyện là công việc nạp bình, còn hoạt động là công việc tỏa sáng.”

Khi đã đón nhận ánh sáng từ Chúa, chúng ta có nhiệm vụ chiếu tỏa ánh sáng đó cho những người chung quanh. Đức Giêsu đã nói “Chính anh em là ánh sáng thế gian.” (Mt 5,14); “Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.” (Mt 5,15-16).

Người kitô hữu cần tỏa ánh sáng của đời sống nội tâm. Khi chúng ta biết sống gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa, qua việc lãnh nhận các Bí tích…thì sự thánh thiện sẽ được lan tỏa ra nơi chúng ta để cho người ta thấy, cả những khi chúng ta không nói gì. Ngày kia, thánh Phanxicô Assidi nói với một thầy dòng: "Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo." Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: "Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!" Thánh Phanxicô đáp: "Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?" Câu trả lời của thánh Phanxicô Assidi thật là chí lý. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân.”

Người kitô hữu cần tỏa ánh sáng bác ái yêu thương. Bài đọc I, tiên tri Isaia mời gọi chúng ta: "Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi.” (Is 58,7). Chính Đức Giêsu cũng đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau.”(Ga 13,35).

Ngoài ra, người kitô hữu cần chiếu tỏa nhiều loại ánh sáng khác nhau để hầu có thể xua tan bóng tối. Bởi vì, chúng ta đang sống trong một xã hội mà bóng tối tội lỗi lan tràn. Chúng ta không thể ngồi đó mà than thân trách phận, nhưng hãy chiếu tỏa ánh sáng, dù là một tia sáng nhỏ bé, như ai đó đã nói: “Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.” Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thắp lên một ngọn nến của tình thương và lòng tốt, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng được bóng tối, sự dữ, oán thù. Ánh sáng sẽ bừng lên. Tiên tri Isaia đã khẳng định: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm dọa, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày.”(Is 58, 9-10).

Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại sân vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: "Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này."

Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: "Đã thấy!" Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên: "Đã thấy!"

Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy."

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!" Bỗng chốc, cả sân vận động trường rực sáng.

Ông John Kener kết luận: "Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta."

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con luôn trở nên ánh sáng soi chiếu cho những người xung quanh, để qua đó họ nhận biết Chúa là ánh sáng thật, là ánh sáng dẫn đến nguồn ơn cứu độ. Amen.

 

9.Muối và ánh sáng

Muối được dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối còn ánh sáng dùng để soi chiếu. Vì thế muối phải mặn và ánh sáng thì cần phải sáng, bằng không chúng sẽ mất mục đích của mình và lúc bấy giờ sẽ không còn có một giá trị gì nữa.

Trước hết Tin Mừng và những chân lý đức tin chính là muối và ánh sáng. Chúng không thể trở nên lạt lẽo và đen tối. Tuy nhiên, Tin Mừng và những chân lý đức tin chỉ trở nên khả giác, khi đi vào trí khôn và cõi lòng con người. Do đó, những người mang Tin Mừng và chân lý đức tin tới cho kẻ khác cũng phải là muối và ánh sáng trần gian.

Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay Giáo Hội phải thấm nhập vào các nền văn minh với những giá trị của Tin Mừng, nhờ đó mà làm cho thế gian khỏi tan rã, thoái hoá và ươn thối, với những chủ thuyết như duy vật, duy sắc dục.

Tuy nhiên cũng có những người quảng đại chiến đấu cho một thế giới công bình hơn, nhưng họ lại không biết bên kia cái cùng đích họ theo đuổi, còn có gì nữa không? Bởi đó, người Kitô hữu phải làm chứng về phẩm giá con người hầu góp phần cứu vớt thế gian. Trong tất cả những lãnh vực như gia đình, xã hội, nghề nghiệp, chính trị, kinh tế, họ phải nghĩ tưởng và hành động theo như niềm tin vào Đức Kitô soi sáng và thúc đẩy. Nếu không có can đảm sống như thế, thì họ sẽ trở nên lạt lẽo và chẳng còn giá trị gì nữa, hay như lời Phúc Âm đã diễn tả: đó là bị ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân.

Tiếp đến người Kitô hữu phải là ánh sáng soi chiếu cho trần gian. Vấn đề không phải là phô trương mình ra. Cũng như ánh sáng soi chiếu vì nó sáng, thì người Kitô hữu cũng phải tạo ra ánh sáng Tin Mừng bằng cách sống Tin Mừng, bằng cách trở nên Kitô hữu đích thực, bởi vì chúng ta chỉ có thể cho cái mà chúng ta đã có. Chúng ta chỉ có thể chiếu toả, một khi đời sống chúng ta đã là ánh sáng. Chúng ta làm chứng về Đức Kitô không phải bằng cách khua chiêng gióng trống, nhưng âm thầm bằng chính cuộc sống gương mẫu của chúng ta.

Đúng thế, hãy làm cho cuộc đời mình trở nên tốt hơn. Vì cuộc đời tốt chính là một thứ ánh sáng soi chiếu cho người khác nhận biết Đức Kitô, cũng như Tin Mừng cứu độ của Ngài.

 

10.Chính anh em là muối cho đời

Chúng ta đang sống trong một xã hội phát triển không ngừng về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Đời sống con người được nâng cao về mọi mặt. Chủ nghĩa cá nhân thực dụng và hưởng thụ vật chất đã ảnh hưởng đến đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Thế giới mất dần ý thức về tội, niềm tin vào Thiên Chúa suy giảm rất nhiều. Là những Kitô hữu trong xã hội hiện đại chúng ta phải làm sao đây? Vâng, Lời Chúa hôm nay là câu trả lời cho những thao thức đó: "Chính anh em là muối cho đời; anh em là ánh sáng trần gian" (Mt 5,13.15). Hình ảnh muối và ánh sáng thật gần gũi với cuộc sống chúng ta. Vì thế, tôi mời gọi quý ông bà anh chị em cùng tôi suy nghĩ về vai trò làm muối men của người Kitô hữu hôm nay.

Trong cuộc sống hạt muối hiện diện thật nhỏ bé khiêm tốn, chẳng ai để ý đến nó. Người ta chỉ giới thiệu những món ăn ngon, hấp dẫn trong các chương trình ẩm thực chứ không ai giới thiệu hạt muối. Người ta chỉ trưng bày những món ăn đắt tiền, cầu kỳ chứ không ai trưng bày muối. Xét về giá trị hạt muối chẳng đáng là bao. Muối có đó nhưng không ai thấy muối. Tuy nhiên, nếu không có muối thức ăn sẽ nhạt nhẽo, thực phẩm sẽ không giữ được lâu. Muối chấp nhận tan biến đi để giữ cho cuộc sống thêm mặn mà. Đó là sự hiện diện quên mình và rất tích cực. Sự hiện diện âm thầm đó tuy không thấy và không nói ra nhưng ai cũng ngầm hiểu đó chính là nhờ hạt muối.

Cũng như hạt muối, người Kitô hữu trong xã hội Việt Nam chiếm con số rất khiêm tốn chỉ khoảng 6-7% dân số. Sự hiện diện thật bình thường nhưng có không ít người đã dấn thân phục vụ những người cùng khổ ở các trại phong, các trung tâm nuôi dưỡng người già, chăm sóc các bệnh nhân nhiễm HIV, AIDS như: Trung tâm Mai Hòa, trung tâm Trọng Điểm (Bình Phước), trại phong Di Linh... Sự hiện diện đó ít ai biết tới nhưng mỗi ngày vẫn làm cho cộc sống thêm hương vị, xoa dịu những đau khổ kiếp người, giúp cho mọi người nhận ra gương mặt hiền hòa của Đức Kitô. Do đó, chỉ có vị mặn từ tình yêu tha nhân trong Đức Kitô mới thúc đẩy những con người như thế hy sinh phục vụ xã hội, phục vụ con người. Điều mà các tổ chức xã hội khó mà làm được. Chắc hẳn những 'hạt muối' đó đã múc lấy vị mặn nơi tình yêu Thiên Chúa để đem đến cho cuộc sống; đã học được sự hiến thân quên mình và âm thầm phục vụ nơi Thầy chí Thánh nên đã góp phần bảo vệ các giá trị cuộc sống và cách nào đó dù không muốn chính họ đã trở nên ánh sáng cho trần gian.

Từ bài học ánh sáng và muối mặn Chúa dạy hôm nay chúng ta hãy tự đặt ra cho mình những câu hỏi: Tôi có là ánh sáng và muối ướp cho đời chưa? Tôi phải làm gì để đem vị mặn Phúc âm và ánh sáng Tin mừng cho thế giới hôm nay? Ước mong những trăn trở đó luôn là động lực để chúng ta trở nên những chứng nhân cho thế giới này.

Lạy Chúa, vì yêu thương Chúa muốn chúng con trở nên muối ướp trần gian, là ánh sáng cho đời. Xin cho chúng con biết múc lấy nơi Chúa vị mặn yêu thương để đem đến cho đời hương vị tình yêu. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ