Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 56

Tổng truy cập: 1362875

LÀ MUỐI, LÀ SÁNH SÁNG

LÀ MUỐI, LÀ SÁNH SÁNG (*)- Chú giải của Noel Quession

 

Bài giảng trên Núi đã bắt đầu từ Chúa nhật vừa qua bởi các mối Phúc thật sẽ được tiếp tục trong năm Chúa nhật. Matthêu đã tập họp ở đây những lời dạy của Đức Giêsu mà Maccô và Luca đã đặt vào những bối cảnh khác. Đó là dấu chỉ người ta có thể đưa ra những lời giải thích khác nhau. Những lời dạy của Đức Giêsu thường khá mở rộng để đón nhận nhiều ý nghĩa khác nhau.

“Chính anh em là muối cho đời”

Đức Giêsu nói với những người sống theo các mối phúc Người nghèo khó, người hiền lành, người xây dựng Hoà bình, người bị bách hại.. “chính anh em là muối cho Đời. Hình ảnh này gợi cảm và rất cởi mở, có thể đón nhận nhiều ý nghĩa bổ sung. Vào thời của Đức Giêsu, muối dùng để làm cho đất màu mỡ, dĩ nhiên có trộn với phân bón… Như một loại phân bón để mùa màng được tươi tốt. Ngày hôm nay, muối luôn luôn dùng để bảo quản thực phẩm… nó ngăn cản hoặc làm chậm lại sự phân hủy. Nhưng vai trò thông thường nhất của muối là đem lại hương vị: có muối, ngon đấy… không có muối, tất cả thành nhạt nhẽo.

Đức tin dùng để làm gì? Liệu tin vào Đức Giêsu và sống các mối Phúc thật có thay đổi gì không? Đức Giêsu trả lời: “Đem lại hương vị cho đời?”

Con người hiện đại, còn hơn cả con người của các thời đại trước đây bị chìm ngập trong sự tầm thường và buồn chán mỗi ngày: những cử chỉ máy móc và vô vị của công nhân làm việc theo dây chuyền… những khuôn mặt nhợt nhạt dưới ánh sáng đèn những… những đồ vật được tiêu chuẩn hóa ‘bằng nhựa dẻo…” sự nhạt nhẽo trong rất nhiều câu chuyện trao đổi thường ngày… sự cào bằng trước những ý thức hệ… Đời sống có còn thú vị gì không? Nếu người ta nói nhiều về “chất lượng đời sống” thì một cách chính xác chẳng phải người ta đã đánh mất chất lượng ấy hay sao?

Chính trong bối cảnh hiện tại này mà NGÀY HÔM NAY Đức Giêsu lại nói với chúng ta: chính anh em là muối cho đời! Anh em hãy đem niềm vui, sự táo bạo, nhiệt tình vào cái tầm thường mỗi ngày. Anh em hãy đem ý nghĩa đến cho những thực tế, thông thường có nguy cơ trở thành nhạt nhẽo. Anh em hãy đặt Nước Thiên Chúa vào trong các thực tế ấy. Anh em hãy thách đố mọi chủ nghĩa vô thần hiện đại đã bắt đầu loại bỏ đi “khả đăng siêu việt”, tức là muối, của nhân loại… để rồi sau đó không ngừng tuyên bố rằng đời sống là “phi lý” và không có ý nghĩa. Với Đức Giêsu mọi sự đâu có thể mang một ý nghĩa, một “hương vị”; dù là sự đau khổ, sự bách hại, cả cái già và cái chết, sự thất bại cũng xây dựng. Một nhà hiền triết đã viết như thế. Rên rỉ để làm gì? Ai sẽ nói giá trị mầu nhiệm và huyền diệu của thử thách đời sống trong sự hiệp thông với Đức Giêsu?

“Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy cái gì muối cho nó mặn lại? nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi”.

Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người phải “chính thống” không trở thành nhạt nhẽo. Một Kitô hữu đã đánh mất “mùi vị Thiên Chúa”, mùi vị đích thực duy nhất sẽ trở thành vô dụng “Tin Mừng chính là muối, và các bạn sẽ làm ra đường từ muối đó”. Paul Claudel đã cao rao như thế.

Đức Giêsu mạnh mẽ cảnh báo chúng ta: sau một thời gian sống quảng đại và ác liệt, đức tin của chúng ta có thể bị biến chất. Động từ mà chúng ta dịch là “nhạt đi” hay biến chất cũng có nghĩa “trở nên mất trí”… đánh mất lương tri trở thành điên đại! Theo nghĩa của Kinh Thánh…nghĩa là đánh mất. sự khôn ngoan mà đức tin vào Thiên Chúa ban cho (Is 19,11). Thánh Phaolô cũng đồng hóa “muối” với “sự khôn ngoan”: “Anh em hãy ăn ở khôn ngoan. Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương” (Cl 4, 5-6).

Nếu chúng ta trở nên quá vô vị, đó là vì chúng ta đã để cho sức mạnh ăn mòn của muối trong Tin Mừng yếu đi trong đời sống chúng ta. Nếu muối nhạt đi.. Tôi phải đối với giả thiết ấy cho tôi và đời sống của riêng tôi. Nếu mọi Kitô hữu không còn là muối nữa thì người ấy trở nên vô dụng, Người Kitô hữu “con tắc kè” chấp nhận mọi phương thức và mọi tâm thức của thế gian, mặc lấy màu sắc của môi trường người ấy sống, và trở nên vô dụng. “Tôi làm như vậy, bởi vì mọi người đều nghĩ như thế… bởi vì khắp mọi nơi, người ta làm như thế”; chúng ta có đánh mất tất cả nhân cách để theo lối sống tiêu thụ và duy vật không kìm chế không? Chúng ta có thủ lợi từ những bất công xã hội không? chúng ta có để cho mình rơi vào thái độ không hành đạo hoặc chủ nghĩa vô thần viện cớ rằng nhiều người làm như thế xung quanh chúng ta?

Đối với những người trở nên vô vị, với những Kitô hữu đang trở thành một chất thải màu sắc, không mùi vị, Đức Giêsu nói: “Anh em phải khác với thế gian, nếu anh em muốn là muối cho thế gian”..

Một yêu sách, đúng vậy. Nhưng trong một sự khiêm nhường cao cả. Không phải vì người ta là Kitô hữu mà người ta tự động là một con người cao siêu. Mỗi người chúng ta điều biết những giới hạn và những tội lỗi của mình. Nhưng thứ muối mà chúng ta phải đem lại cho thế gian không phải là lòng kiêu ngạo của các nhân đức cũng không phải sự cao siêu của chúng ta mà chính là “điều ‘ Thiên Chúa đã làm trong chúng ta”.

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.

Cách nói bóng bẩy thứ hai này có cùng một hình thức và ý nghĩa như cách nói đầu, nhưng còn cao cả hơn nữa! Phải là “mặt trời” cho thế gian! Không có ánh sáng, sẽ không có màu sắc, vẻ đẹp và sự sống nào cả. Đức Giêsu đã sống trong một xã hội tiền khoa học không biết được nhiều điều, nhưng xã hội ấy gần gũi thiên nhiên hơn chúng ta và cũng hiểu được nhiều điều hơn chúng ta về các thực tại sống. Giờ đây chúng ta, nhờ khoa học mà biết rằng không có ánh sáng, không thể có sự sống. Thật vậy; mặt trời là nguồn gốc duy nhất và cần thiết cho mọi năng lượng tồn tại trên hành tinh chúng ta.

Không có sự quang hợp các chất diệp lục trong cây cỏ thì cũng không thể có bất cứ đời sống sinh vật hoặc con người nào. Không có mặt trời, sẽ không có than đá, dầu hỏa và điện năng… bởi vì không có rừng và thủy triều, mặt trời là một hình ảnh đẹp nhất về Thiên Chúa: suối nguồn của mọi sự sống! Từ khi thế giới được tạo dựng, một ánh sángtràn trề chiếu soi mọi vật. “Hãy có ánh sáng!” (St 1,2)

Đức Chúa là ánh sáng và là sự cứu chuộc của tôi” (Tv 27,1) “Tôi là ánh sáng của thế gian, Đức Giêsu đã nói: “Anh em phải chiếu sáng, như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Trở thành ánh sáng của thế gian quả là một trách nhiệm to lớn.

Bản thân chúng ta rất ít tỏa sáng. Chớ lấy đó mà sinh lòng kiêu ngạo.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng của Chúa. Trong đạo Do Thái, chỉ có Luật của Môsê và Đền Giê-ru-sa-lem mới được gọi là “ánh sáng”. Chúng ta nhận thấy cuộc cách mạng phi thường mà Đức Giêsu định thực hiện? Trước mặt Người là những con người hèn mọn, tật nguyền, bệnh hoạn, những con người đau khổ bởi mọi thứ giày vò (Mt 4,23). Đó không phải là những người đàn ông và đàn bà xuất chúng, nhưng là những, người nghèo khổ, không có văn hóa và cũng không có ảnh hưởng. Những con người không sùng đạo hơn những người khác, với đám đông đó, Đức Giêsu nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian!”. Chính họ không phải là “ánh sáng” nhưng họ chỉ để ánh sáng xuyên qua và tỏa sáng qua họ đức tin mà họ có trong Đức Giêsu. Đức Giêsu tạo ra cho Người ý tưởng kỳ diệu về nhân phẩm con người khi người để cho Thiên Chúa phong chức cho mình!

Một thành xây trên núi khống tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ”

Từ bờ Hồ Ti-bê-ri-a, người ta thấy thành Safed, ở trên cao với cao độ hơn một ngàn mét, thành được xây trên những núi nằm ngang của dãy núi Ga-li-lê, chiếu ánh sáng của nó ra xung quanh. Đức Giêsu đã thoáng thấy những căn nhà màu trắng của thành được mặt trời chiếu sáng. Trong căn nhà nhỏ của gia đình, Đức Giêsu cũng thường nhìn thấy Mẹ Người. Đức Maria đốt đèn trong ngày Sa-bát. Một cái đèn khiêm tốn bằng đất nung nhưng đủ để soi sáng “cả nhà” trong gian nhà duy nhất của những nhà người nghèo ở Phương Đông. Hãy soi Sáng Đức Giêsu nói chúng ta hãy soi sáng.

Vấn đề ở đây không phải là sự phô trương của chủ nghĩa đắc thắng, như ngày nay người ta nói. Vì sau đó, Đức Giêsu sẽ khuyên chúng ta: “Khi làm việc lành phúc đức anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy” (Mt 6,1). Không phải chính chúng ta tự tôn giá trị của mình như những cách phô trương của những người Pha-ri-sêu mà Đức Giêsu từng đả kích (Mt 6, 1.6). Chỉ ánh sáng của Thiên Chúa mới có thể soi sáng anh em chúng ta. Nhưng ánh sáng ấy muốn soi sáng thông qua chúng ta. “Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán: ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa sáng ngời trên gương mặt Đức Kitô. Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi”. (2 Cr 4, 6-7).

“Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.

Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của Matthêu. Chúng ta nghe Đức Giêsu nói về “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Đức Giêsu ở đây mạc khải một định hướng và trách nhiệm to lớn của các Kitô hữu trong thế gian là phải trở thành “muối cho thế gian, mặt trời của hoàn vũ… không không phải vì vinh quang của riêng mình. Vinh quang ấy dùng để tôn vinh Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã là một người hoàn toàn tách ra khỏi trung tâm của bản thân mình và hoàn toàn hướng về Chúa Cha. “Tôi không cần người đời tôn vinh”, Đức Giêsu đã nói như thế (Ga 5,41)

Về phần chúng ta là những người tội lỗi, rõ ràng nếu chúng ta có chút gì là “muối” và “ánh sáng”, điều đó chỉ do Chúa Cha mà đến. Nếu bạn mạnh khỏe, vui vẻ, quảng đại và tự nhiên thanh khiết, đó là vinh quang của bạn và càng tốt cho bạn. Nhưng nếu bạn là một người yếu đuối mà Thiên Chúa làm cho mạnh mẽ, một kẻ tội lỗi mà Thiên Chúa cứu độ, một người. Ô uế mà Thiên Chúa không ngừng thanh huyện, một người hay thù oán mà Chúa Cha đã dạy sự tha thứ, một người quan tật sâu xa đến tiền bạc mà Thiên Chúa đã giải thoát khỏi mọi thứ của “cải của mình. Nếu bạn là một trong số những người nghèo, khó ấy, đã thất bại nhiều trong mọi thứ công việc mà vẫn hạnh phúc” bởi niềm vui của các mối phúc thật… lúc đó, trường hợp của bạn có thể làm anh em của bạn quan tâm, bởi vì sự khốn khổ của bạn cũng là của anh em bạn và chính họ, họ cũng có thể hy vọng được cứu chữa. Khi nhìn thấy điều tốt lành mà bạn, một người rất yếu đuối đã làm, họ có thể tôn vinh Cha của bạn, Đấng ngự trên trời.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN – A

HÃY LÀ MUỐI CHO ĐỜI VÀ LÀ ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN – Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

  1. Sứ mạng của các môn đệ.

Trong các mối phúc Đức Giêsu đã công bố hạnh phúc cho những người đáp lại lời mời gọi của Ngài và bắt đầu theo Ngài: đó là các môn đệ. Hạnh phúc được ban cho họ từ bây giờ như một quà tặng, ngay trong những hoàn cảnh cụ thể và đôi khi ngay trong những hoàn canh đau khổ tột cùng của đời sống “Nước Trời và của họ”; một ngày kia hạnh phúc ấy sẽ triển nở trong ánh sáng của đời sau: “Phần thưởng của anh em sẽ lớn lao trên trời”.

Tiếp theo lời mở đầu của bài giảng trên núi, Đức Giêsu xác định sứ mạng của các môn đệ Ngài: anh em là muối cho đời… anh em là ánh sáng thế gian. Chúng ta đã bao giờ có một định nghĩa hay hơn định nghĩa này về Giáo hội không? giáo Hội không phải là một cái bình xoay trong đó là những người được cứu độ (ngoài Giáo Hội không có sự cứu độ), nhưng vì ánh sáng trên núi cao chiếu tỏ ý nghĩa cuộc sống và cắm nọc tiêu chỉ đường cho những ai sống trong bóng tối (Is 60), ánh sáng này qui chiếu về nguồn mà nhờ đó nó tỏa sáng! (Cahier Evangile, số 9, tr. 11) trong thế giới sê-mít nơi Đức Giêsu công bố giáo huấn này và nơi Thánh Mátthêu viết Tin Mừng của ngài, muối là một thực tại hằng ngày chứa rất nhiều ý nghĩa biểu tượng. Được dùng trong việc chuẩn bị bữa ăn để cho các món ăn thêm hương vị, muối đã trở nên biểu tượng của tất cả những gì làm cho hiện hữu có hương vị và ý nghĩa, đàng khác một điều đáng chú ý là trong tiếng Latinh, “nếm” (sapere) và “khôn ngoan” (sapientia) có cùng một gốc và trong tiếng Hy lạp và tiếng Do thái, có cùng một động từ vừa có nghĩa “lạt đi” “trở nên lạt lẽo” vừa có nghĩa trở nên vô nghĩa”.

Được dùng trong việc bảo quản thức ăn, muối đã trở nên biểu tượng của sự vĩnh hằng và được sử dụng trong những nghi lễ giao ước – người ta nói Giao ước của muối” (2 Sb 13, 5 và Lv 2, 13) và trong những nghi lễ đón tiếp và cho khách ở trọ. Muối không được lạt đi! Cl. Tassin chú giải: các môn đệ đem hương vị cho đời và bảo đảm sự sống còn của thế gian trước mặt Thiên Chúa. Nhưng nếu họ không đảm đương được công việc này và đánh mất tinh thần các mối phúc, họ sẽ chẳng còn giá trị gì và Thiên Chúa sẽ từ bỏ họ”. (Tin Mừng thánh Mátthêu, Centurion, 1991, tr.62).

  1. và “ánh sáng thế gian”.

Để giúp các môn đệ hiểu rõ hơn sự lớn lao và những đòi hỏi của sứ mạng Ngài trao, Đức Giêsu dùng hai hình ảnh.

Trước hết, Ngài nói đến một “thành xây trên núi” có lẽ cảnh trí của thành Safed đã gợi ý cho Ngài. Thành này nằm trên mũi đá phía đông-bắc rặng Haute-Galiê nên ban ngày, những ngôi nhà mầu trắng phản chiếu ánh sáng mặt trời và ban đêm nó tỏa sáng. “Trở nên ánh sáng thế gian”, đó là lời các ngôn sứ loan báo về tương lai của Giêrusalem vào thời Đấng Thiên sai: thành này sẽ là thành phố ánh sáng trên núi mà mọi dân tộc sẽ đi về đó. Là ánh sáng cho thế gian” là sứ mạng được trao cho cộng đoàn các môn đệ. Rồi Ngài nói với các môn đệ người ta đốt đèn không phải để giấu nó “dưới đáy thùng” -dùng để xếp đồ trong những ngôi nhà xứ Palestine- nhưng là để trên “giá đèn” hầu soi cho tất cả mọi người trong nhà. Cộng đoàn các môn đệ mà Ngài sai đến trong thế gian cũng phải như vậy.

Cl.Tassin kết luận: Giáo Hội sẽ thi hành sứ mạng là muối cho đời và là ánh sáng thế gian, bởi sự chôn vùi và sự tỏa sáng chứ không phải là tham vọng chinh phục về địa dư (Sách đã dẫn)

BÀI ĐỌC THÊM

  1. Muối và ánh sáng: (Đức cha L. Daloz, trong “Nước Trời đến gần” Desclée de Brouwer, 1 994, tr.48-49)

“Anh em là muối cho đời”. Để có ích, muối không được mất vị của nó: nó chỉ là gia vị! Chính nó không phải là thức ăn, ít ra thường là như vậy: nó giúp cho thúc ăn có hương vị. Trở nên nguồn hương vị thơm ngon, đó là nét độc đáo của chúng ta, những người theo Đúc Kitô, trong thế giới chúng ta đang sống. Nét độc đáo này giúp chúng ta trở nên hữu ích cho đời nhờ sự khác biệt của nó. Chúng ta không được đánh mắt sự khác biệt này: Nếu muối: lạt đi thì lấy gì ướp nó mặn lại được? Sự khác biệt của chúng ta không ở nơi bản chất riêng của mình hay nơi những tính tốt chúng ta có, chúng ta không tự hào là những người tốt nhất hoặc muốn dạy người khác. Chúng ta cũng được nhào nặn bởi cùng một-thứ bột như tắt cả mọi người. Chúng ta cũng gặp những thuận lợi và những chướng ngại trong chúng ta và chung quanh chúng ta như mọi người. Nhưng chúng ta ra lạt khi không còn liên kết với Đức Kitô, khi không còn qui chiếu về Ngài, khi Ngài không còn là men cho đời sống chúng ta. Lúc đó cuộc sống chúng ta và thế giới chúng ta sống sẽ thiếu hương vị, bởi vì sứ mạng của chúng ta là làm cho thế giới này biết thưởng thức Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài! Hình ảnh ánh sáng nối tiếp và làm rõ hình ảnh về muốí: Anh em là ánh sáng thế gian ánh sáng là để nhìn, chúng tự nó không đủ. Nó vô dụng nếu nó không soi cho thấy gì hết. Đức Giêsu đặt các môn đệ của Ngài trong thế gian ta qui chiếu với thế gian. Ngài không kêu gọi họ đóng khép kín, tách rời người khác. Thánh Gioan cũng nói như vậy nhưng diễn tả cách khác: Con sai họ đến trong thế gian (Ga17, 18). Chính vì vậy, các Kitô hữu sống trong thế gian và trong những hoàn cảnh như mọi người không những là điều bình thường mà còn cần thiết nữa…không sống trong một thế giới khác! Chúng ta phải thực hiện những công việc của ánh sáng, nghĩa là những hành vi tốt hay những việc làm tốt được ánh sáng Thiên Chúa soi chiếu để trở thành những việc làm của chính Thiên Chúa. Nói vậy không có nghĩa là Thiên Chúa mời gọi chúng ta tin rằng mình là người tốt hơn người khác hoặc tự mình, mình có thể hành dộng tốt hơn họ, bởi vì mọi công việc chúng ta làm đều qui về vinh quang Thiên Chúa là nguồn ánh sáng: ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Nơi Đức Giêsu, ánh sáng đã tỏa chiếu trong thế gian. Chúng ta chỉ phản chiếu lại ánh sáng này. Đời sống, hành vi của chúng ta trở nên tấm gương phản chiếu vinh quang Thiên Chúa, trở nên nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người”.

  1. “Thấm nhập vào nơi thâm sâu của thế giới bằng sức mạnh linh hoạt của muối và sự chiếu toả của ánh sáng” (J. Guiuet. Trong Giêsu trong niềm tin của các môn đệ đầu tiên, Desclée de Brouwer, 1995, tr.110-111).

“Matthêu đã xen kẽ hai đoạn ngắn với hình thức dụ ngôn về muối và ánh sáng vào giữa các Mối Phúc và những điều Đức Giêsu công bố về Luật (Do Thái). Cả hai đoạn này đều nhắm một nhóm riêng, phân biệt rõ ràng với những người đi theo nghe Ngài giảng, bởi vì nhóm này phải hành động theo lời Ngài dạy: “Anh em là muối cho đời”, “Anh em là ánh sáng thế gian” (Mt 5,16). Trong bối cảnh Bài giảng trên núi, rõ ràng Đức Giêsu nói với các môn đệ theo Ngài. Và nếu không loại bỏ đám đông náo nức theo Ngài, chúng ta có thể tin rằng sứ điệp của Đức Giêsu đã gây một tiếng vang nào đó trong đám đông và có thể một hạt nhân các môn đệ thành hình, gồm phụ nữ và đàn ông muốn theo Chú, tuy nhiên họ không làm thành một dân tộc mới, họ vẫn luôn thuộc về dân của Abraham, của Môi-sen: họ là những người mang sứ điệp mới trong dân tộc họ. Điều này không có gì là lạ bởi vì người Israel đã có thói quen nghe các ngôn sứ nói đến tương lai mà Thiên Chúa đang chuẩn bị, tương lai đó có lúc đen tối, có lúc lại rực rỡ. Tuy nhiên, tương lai Đức Giêsu phác họa hoàn toàn khác trước.

Ở đây sự song hành với biến cố Sinai giúp làm sáng tỏ hơn. Một nhóm nhỏ những người dân giã tương ứng với dân chúng đông đảo tụ tập dưới chân núi của Thiên Chúa. Nhưng trong khi ơn gọi của dân Israel là làm chứng cho Thiên Chúa và là dấu chl sự chúc phúc của Thiên Chúa ở giữa các dân tộc, thì sứ mạng của nhóm hạt nhân nhỏ này là thẩm nhập vào nơi thâm sâu của thế giới bằng bức mành linh hoạt của muối vô sự chiếu tỏa của ánh sáng. Abraham là người được Thiên Chúa chúc phúc và mọi dân tộc trên mặt đất đều được chúc phúc qua ông (St 12,1). Dân lsrael của Môisen phải trở nên một dân lớn và mọi dân tộc khác đều thán phục cách ăn ở và tinh thần của họ: Khi biết đến các lề luật này, họ sẽ thốt nên: Chỉ có một dân tộc khôn ngoan và minh mẫn, đó là dân tộc lớn này. Thật vậy, có dân tộc nào lớn đến nỗi các thần linh của họ gần gũi họ như Giavê, Thiên Chúa của chúng ta ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Ngài”. (Dnl 4,6) Theo Đức Giêsu chỉ có một số môn đệ. Tuy sống trong lòng một thế giới còn chưa biết đến mình, nhưng họ lại mang theo mình một sức mạnh khả dĩ biến đổi thế giới. Bởi vậy, sự tỏa chiếu của các mối phúc trở nên động lực cuộc sống.

  1. “Xin hãy trao ban chính bạn làm muối ướp đời tôi”. (H. Denis, trong ‘100 từ để nói về niềm tin’, Desclie de Brouwer, 993, 95-96).

“Muối! Tại sao lại chọn vật nhỏ bé chẳng là chi hết ngoài công dụng như một thứ gia vị? Một số Kitô không còn quen dùng nữa. Giáo Hội đôi khi còn nuối tiếc việc bỏ không dùng muối trong bí tích rửa tội. Một sự tiếc nuối vô ích khi mà nó không thúc đẩy người ta dấn thân.

Muối Tin Mừng còn quan trọng hơn một nghi lễ rất nhiều Bạn hãy mường tượng và chúng ta còn sửng sốt về điệu này muối là chính bạn là chính tôi, là tất cả môn đệ Đức Giêsu. Môn đệ Đức Giêsu là phải là muối cho đời. Chỉ vậy thôi! Một tham vọng ghê gớm, nếu chứng tá tự cho mình là những người tốt nhất, là giả vị duy nhất trong đám đông nhạt thếch, không có vị mặn. Nhưng đó sẽ là một trách nhiệm lớn lao nếu Đức Giêsu trao cho chúng ta một sứ mạng như vậy và cách thế để thực hiện nó. Vâng, trước hết chúng ta có trách nhiệm của một loại giao ước giữa cái là muối và cái chưa phải là muối. Môt thế giới không có muối thì chẳng có một chút hương vị nào, nhưng nếu ở ngoài thế giới này thì muối cũng vô dụn, Kitô hữu và thế gian là hai thành phần liên kết với nhau. Cả hai được tạo dựng để trộn lẫn với nhau. Hơn nữa, người trước tiên được lợi chính là người Kitô hữu, vì họ phải ướp mặn nơi họ tất cả những gì chưa là Kitô hữu. Một trách nhiệm khác mầ bạn biết rất rõ, đó là đừng la nhạt. Bạn đừng nghĩ rằng để tránh điều này bạn phải trốn khỏi thế gian ắt hẳn sẽ có nguy cơ bị tan rã ở đó cách đơn thuần và dễ dàng. Nhưng muối mà chất đống và để nguyên một chỗ cũng có nguy cơ bị phân hủy đi. Vậy bạn hãy nói cho tôi biết, nếu giữa người với người, giữa những Kitô hữu với nhau, chúng ta cố gắng duy trì vị hương cho thế giới của chúng ta thì phải làm thế nào? Không thể chỉ cậy vào mình. Phải có thể nói: Xin đưa cho tôi chút muối? như là trong bữa ăn của đôi vợ chồng, của cha mẹ và con cái. Vâng, nếu có bao giờ Tin Mừng nơi bạn nhạt nhẽo đi thì luôn có một người anh, một người chị để bạn hoàn toàn tin tưởng nói với họ: “xin hãy trao ban chính bạn làm muối ướp đời tôi!”.

home Mục lục Lưu trữ