Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 61

Tổng truy cập: 1363453

LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

 

Đoạn Tin Mừng Mt 10,17-22 mà chúng ta vừa nghe rất phù hợp với hoàn cảnh của các thánh tử đạo Việt Nam. Các ngài đều đã trải qua kinh nghiệm bị bắt, bị nộp, bị hạch hỏi trước quan quyền và vua chúa, bị tra tấn, đánh đòn, bị ghét bỏ và cuối cùng là bị giết. Tất cả những đau đớn đó, các ngài đều chịu vì Đức Giêsu Kitô (c.18), vì Danh của Ngài (c.22).

Thử thách quan trọng nhất mà các ngài phải trải qua, đó là bước hay không bước qua thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống ở đời này, được trả lại tất cả những gì đã mất, được tặng thêm bao phú quí vinh hoa. Không bước qua là chấp nhận tù đày, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một quyết định là mọi chuyện sẽ thay đổi. Chỉ cần một bước chân…

Đã có người bước qua, và đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Âu tinh Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đa minh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.” Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của tôi. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được.” Thánh Tê ô phanô Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”

Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ, điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu qua mọi thời đại.

Không bước qua thánh giá là làm chứng về niềm tin vào Đức Kitô. Dù chỉ là hai cây gỗ xếp chéo nhau, nhưng đó vẫn là một biểu tượng cho Thày chí thánh, Đấng đã chịu chết trên thánh giá. Các vị tử đạo đã không bước qua thánh giá, vì họ tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng các ngài không phải chỉ là những chứng nhân đức tin, mà còn là chứng nhân đức mến. Đức Giêsu không phải chỉ là Đấng các ngài tin, mà còn là Đấng các ngài yêu bằng một tình yêu lớn nhất: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Cuối cùng các vị tử đạo còn là những chứng nhân cho một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống đời sau. Cái chết khủng khiếp đang chờ họ, nhưng họ như nhìn thấy thế giới ở đằng sau cái chết tạm thời. Họ thấy thiên đàng, thấy sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường tồn. Chính vì thế cái chết tử đạo không bao giờ mang nét bi đát của sự tuyệt vọng. Trái lại, nó ẩn chứa một sự bình an, vui tươi của người được hạnh phúc gặp Đấng mình mới tin mà chưa giáp mặt. Trước khi đưa đầu cho lý hình, thánh Micae Hồ Đình Hy, một vị quan to của triều đình, đã thong thả rửa chân tay, rồi ngồi xếp bằng trên chiếu, bình tĩnh hút hết một điếu thuốc. Sau đó ông đứng lên thật bình thản sửa soạn lại đầu tóc, y phục cho chỉnh tề, rồi sốt sắng quỳ xuống cầu nguyện… Chính cách chết của các vị tử đạo nói với chúng ta nhiều điều. Nó vén mở cho chúng ta thấy đời sống thiêng liêng sâu xa của các ngài, đời sống tin - cậy - mến ở mức độ trổi vượt.

Có những thời điểm quan trọng trong đời vị tử đạo: lúc quyết định không bước qua thánh giá, lúc nghe bản án tử của mình hay lúc gươm kề cổ. Trong những lúc ấy chúng ta thường thấy các ngài can đảm, vững vàng, kiên quyết. Nhưng chúng ta có khi không thấy hết được những cuộc chiến nội tâm, những giằng co đau đớn diễn ra trước đó trong ngục thất. Chính Đức Giêsu cũng đã nếm trải kinh nghiệm này trong Vườn Dầu, khi Ngài đứng trước cái chết gần kề. Thời gian từ khi bị bắt đến khi bị tra hỏi, và bắt bước qua thánh giá, là thời gian lòng tin - cậy - mến chín mùi và trưởng thành. Những đau đớn do tra tấn, những lời mời mọc khéo léo, những đêm tối của đức tin, những khao khát muốn kéo dài cuộc sống: tất cả đều góp phần thanh luyện con người vị tử đạo. Đời sống cầu nguyện trong ngục thất, việc xưng tội rước lễ, lời cầu nguyện và sự nâng đỡ tinh thần của những người bên ngoài, đã giúp cho các vị chứng nhân dần dần dứt khoát trong lựa chọn của mình. Họ trở nên bình tâm, chẳng còn muốn điều gì ngoài Chúa, chẳng còn sợ những gì đe doạ mình. Ơn Chúa thấm vào con người vị tử đạo đến độ họ được mang một sức mạnh kỳ diệu từ trên. Nhờ ơn Chúa, một tạo vật nhỏ bé, yếu đuối, đã làm được điều phi thường này, đó là đặt Chúa lên trên mạng sống của mình, yêu Chúa trên hết mọi sự.

Làm chứng cho tình yêu

Khi nói đến các thánh tử đạo, chúng ta thường nghĩ đến những người chết vì tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Giêsu. Đó là trường hợp của 117 vị thánh tử đạo tại Việt Nam. Nhưng Hội thánh Công Giáo cũng coi thánh Gioan Tẩy Giả và thánh nữ Gôretti là các vị tử đạo, dù hai vị này chết vì dám nói lên một sự thật hay vì muốn bảo vệ nhân đức trinh khiết. Như thế khái niệm về tử đạo cần được hiểu rộng rãi hơn nữa. Vị tử đạo là người chết vì Đạo, chết vì muốn sống theo con Đường Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống cho chân lý Phúc Âm. Trường hợp của cha Mác-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê là một thí dụ mới mẻ. Khi phong chân phước cho cha Kôn-bê vào năm 1971, Đức Phaolô VI không coi ngài là vị tử đạo, chỉ coi ngài là một người chịu đau khổ vì đức tin thôi (confessor). Nhưng khi phong thánh cho ngài vào năm 1982, Đức Gioan Phaolô II đã coi ngài là vị tử đạo (martyr). Chúng ta ai cũng biết cha Kôn-bê đã bị quân Đức bắt giam trong trại tập trung, và ở đây ngài đã tự nguyện chết thay cho một người tù khác có gia đình. Trong bài giảng lễ phong thánh cho cha Kôn-bê, Đức Thánh Cha đã nói như sau: “Cái chết được ngài hồn nhiên đón nhận vì yêu người đồng loại, cái chết ấy lại không làm trọn những lời của Đức Kitô sao? Cái chết ấy lại không làm cho cha Kôn-bê đặc biệt giống Đức Kitô sao, Đức Kitô là mẫu mực của mọi vị tử đạo, là Đấng hiến mạng sống mình cho anh em?”

Các vị tử đạo là những chứng nhân dám chết cho niềm tin, cho tình yêu, cho chân lý của Tin Mừng. Có thể chúng ta không được ơn tử đạo, nhưng chắc chắn chúng ta phải trở nên chứng nhân cho Chúa (Lc 24,48). Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát, thiệt thòi, bị coi rẻ. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin. Mỗi thời đại nhạy cảm với một lối làm chứng. Lối làm chứng của cha Kôn-bê, của mẹ Têrêsa ở Calcutta, của cộng đoàn Taizé bên Pháp, rất hấp dẫn con người hôm nay. Cần tìm được những lối sống Tin Mừng phù hợp khiến người ta dễ tin có Chúa, có linh hồn, có đời sau. Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi vật chất và không cần đến Thiên Chúa, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi sống một đời sống đơn sơ, chia sẻ và phục vụ trong vui tươi? Khi con người hôm nay như bị cuốn vào cơn lốc hưởng thụ, khoái lạc, quyền lực, phải chăng người Kitô hữu được mời gọi làm chứng bằng thái độ thanh thoát, trong sáng và vô cầu?

Làm chứng cho Chúa bao giờ cũng là lội ngược dòng với thế gian. Nếu không gắn bó với Chúa, chúng ta không có can đảm làm chứng cho Ngài. Các thánh tử đạo tổ tiên chúng ta đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong thời đất nước chuyển mình theo kịp thế giới. Thời nào, người Kitô hữu cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của một tình yêu hiến thân, một sự từ bỏ tận căn, một sự khiêm hạ đến cùng. Chúng ta có bước qua thánh giá không?

Một số câu hỏi gợi ý

1. Nếu các Kitô hữu sống đúng theo Lời Chúa dạy, thì xã hội sẽ trở nên tốt hơn nhiều. Bạn thấy đất nước Việt Nam chờ đợi gì nơi người Kitô hữu Việt Nam? Chúng ta có thể đóng góp gì để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn?

2. Theo ý bạn, sống yêu thương, tha thứ, phục vụ, có phải là cách làm chứng hiệu quả cho Đức Kitô trên quê hương Việt Nam không?

 

43.Bài giảng của Thánh Gioan Phaolô 2, GH.

(Mt 25,14-30)

Suy niệm 1.

Trong cộng đồng rộng lớn của Giáo Hội, tôi xin chào thăm đặc biệt anh em Việt kiều quí mến đến đây từ mọi phương trời từ Châu Mỹ và Châu Á, từ Úc Châu và tất cả các nước Âu Châu. Tôi biết anh em đến đây vì muốn tôn kính các vị Tử Đạo của anh em, nhưng cũng muốn tái tạo chung quanh các vị Tử Đạo tình huynh đệ, tình thân hữu, tình yêu thương vốn đầy tràn trong tâm hồn anh em, bởi vì tất cả anh em đều có cùng một tổ quốc quê hương. Khi gợi lại những kỷ niệm của anh em, tức là anh em hướng về quê hương với lòng yêu và lòng thương nhớ, với một ước muốn sống giây phút hiệp thông đầy hy vọng giữa cuộc sống ở hải ngoại này. Khi cùng với anh em tuyên xưng Chúa Kitô chịu đóng đinh, tất cả chúng tôi hôm nay đều muốn cảm tạ Thiên Chúa vì những chứng tá đặc biệt mà các thánh Tử Đạo này là những người con đông đúc của Việt Nam, hay là những vị thừa sai đã có những truyền thống Đức tin vào Chúa Kitô một cách sâu xa. Truyền thống của anh em nhắc nhở chúng tôi trong lịch sử Tử Đạo của Giáo Hội Việt Nam từ lúc khởi đầu còn bao la và phức tạp hơn nữa. Từ năm 1533, tức là từ khi cuộc rao giảng Tin mừng Kitô bắt đầu từ Đông Nam á, Giáo Hội Việt Nam trong ba thế kỷ đầu đã phải chịu những cuộc bách hại nặng nề nối tiếp nhau, với một vài giai đoạn lắng dịu giống như các cuộc bách hại mà Giáo Hội Tây phương đã phải chịu trong ba thế kỷ đầu tiên. Đã có hàng ngàn tín hữu Kitô chịu Tử Đạo và đã có rất nhiều người chết trên rừng núi, trong những vùng rừng thiêng nước độc, nơi mà họ bị lưu đầy tới. Làm sao có thể gợi hết các vị Tử Đạo ra đây được, và cho dù chỉ được giới hạn vào những vị Tử Đạo được tôn phong hiển thánh hôm nay, chúng ta cũng chỉ có thể dừng lại nơi một vài con số trong những vị Tử Đạo của họ. Thực vậy, có tất cả 117 vị thánh Tử Đạo, gồm 8 giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân, trong số này có một phụ nữ là bà Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con. Chỉ cần nhắc lại đây một, hai khuôn mặt như cha Vicente Dòng Đaminh chịu tử đạo năm 1773, đó là vị đầu tiên trong 96 vị Tử Đạo Việt Nam. Rồi có một linh mục khác là cha Anrê Dũng Lạc, cha mẹ của ngài vốn là những người ngoại đạo và nghèo túng. Từ thuở nhỏ ngài được ký thác cho một thầy giảng và sau trở thành linh mục vào năm 1823, rồi làm cha sở và làm nhà truyền giáo ở nhiều nơi khác nhau tại Việt Nam. Hơn một lần ngài đã được cứu thoát khỏi tù ngục nhờ giáo dân quảng đại nộp tiền chuộc. Ngài nhiệt tình ao ước được chịu phúc Tử Đạo, ngài thường nói những người chết vì Đức tin thì được lên trời, thế mà ta cứ tiếp tục trốn tránh, chi phí tiền bạc để tránh thoát những kẻ bách hại, ta hãy để mình bị bắt và chịu chết thì hơn. Nhờ lòng nhiệt thành và ơn Chúa nâng đỡ như thế ngài đã chịu tử đạo, bị chém đầu tại Hà Nội ngày 21.12.1839. Như vậy hôm nay chúng ta có trước mắt các thánh Tử Đạo Việt Nam là những người theo Chúa Thánh Vịnh đã nói về các ngài như sau: “Những ai gieo trong nước mắt sẽ gặt trong hoan ca, họ đi và khóc nức nở gieo hạt giống nhưng trở về ca hát, tay mang bó lúa trĩu hạt”: Dưới ánh sáng của những lời huyền nhiệm này, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa đích thực của chứng tá lịch sử của các vị Tử Đạo trong Giáo Hội Việt Nam đã thực hiện với nước mắt. Họ đã gieo vãi hạt giống Tin mừng và ơn thánh, từ đó đã nảy sinh dồi dào hồng ân Đức tin “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất và không nát đi thì không sinh hoa trái, trái lại nếu nó chết đi thì sẽ mang lại nhiều hoa trái (Jn 12,24-25). Trong thực tế khi gieo trong nước mắt, các vị Tử Đạo Việt Nam đã khởi sự công cuộc đối thoại sâu xa và có tính cách giải phóng đối với dân tộc và văn hoá quốc gia Việt Nam, họ rao giảng trước mặt mọi người tính cách chân thực và phổ quát niềm tin vào Thiên Chúa. Và hơn nữa, các vị đề ra các giá trị và các bổn phận đặc biệt thích hợp với nền văn hóa tôn giáo của tất cả miền Viễn Đông. Dưới sự hướng dẫn của cuốn giáo lý đầu tiên, các vị Tử Đạo đã làm chứng rằng “Cần phải thờ lạy Thiên Chúa, Chúa Tể duy nhất, một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tác tạo nên đất trời”. Đứng trước sự cưỡng bách của nhà cầm quyền trong việc hành đạo, họ đã xác quyết quyền tự do tín ngưỡng và đã can đảm mạnh mẽ khẳng định trong đạo Kitô là điều duy nhất mà họ không thể từ bỏ được, vì họ không thể bất tuân lệnh vị Chúa Tể Tối Cao là Thiên Chúa. Ngoài ra các vị đã tỏ ý muốn trung thành với các nhà cầm quyền của đất nước, không vi phạm những gì là chính đáng và ngay thẳng, các vị cũng đã dạy phải tôn kính tổ tiên, các tập tục của quê hương mình dưới ánh sáng mầu nhiệm Phục sinh. Với các vị Tử Đạo của mình và nhờ những chứng tá của các vị, Giáo Hội Việt Nam tuyên tín ý chí và quyết tâm không loại bỏ truyền thống văn hóa và các luật thể chế của đất nước. Trái lại, Giáo Hội đã tuyên bố và chứng tỏ rằng mình muốn nhập thể vào truyền thống, văn hoá đó bằng cách trung thành góp phần vào việc xây dựng tổ quốc một cách đích thực.

Suy niệm 2

“Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng”. Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến thắng dừng trước ngai Thiên Chúa trên trời là thánh nhân được Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau: “Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới”. Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt áo họ trong máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước toà Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong Đền Thờ. Đấng ngự trên toà sẽ chở che và phù trợ họ. Họ sẽ không còn phải đói khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa toà sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ. Qua ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh chị em Công giáo khắp năm châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng trước ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam; có cả con cháu dòng giống Lạc Hồng. Các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa. Các Vị Tử Đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm 37 linh mục, 16 thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài suy niệm hôm nay. Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay là các thánh Tử Đạo là những công dân hiền hoà sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng Đế không phò vua bách hại nhưng phải một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: “Đấng trượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay”. Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật những thành tích vẻ vang, chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội là lòng tôn kính của các ngài đối với Thập Giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam chết tang thương, chết treo trên Thập Tự để mimh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại. Vì thế không một khổ hình nào có thể truyền đôi chân của các ngài tự ý bước qua Thập Giá. Không bước qua Thập Giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến Thập Giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài. “Thưa anh chị em thân mến! Cùng với anh chị em Công Giáo khắp năm châu mừng kính lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ý thức rằng cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những giòng chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và thách đố hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng. Để chúng ta cùng nhau viết lên thành tích của lòng trung thành với can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể để tha thứ hoà giải và chúng ta xây dựng đất nước cũng như làm chứng cho ý nghĩa Thập Giá qua nếp sống hằng ngày của chính mỗi người trong địa vị, trong môi trường sống của mình. Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an. Xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành. Amen.

 

44.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

(Mt 10, 17-22)

Hôm nay chúng ta mừng lễ kính thánh Anrê Trần Dũng Lạc và các bạn Tử Đạo, hay nói chung là mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài cũng là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, giờ đây cùng nhau chúng ta nghe lời Chúa qua Phúc âm (x. Mt 10, 17-22). Khi kêu gọi mọi người “Hãy Vui Lên”, các giám mục đã mời gọi từng giới, từng thành phần trong dân Chúa. Hôm nay chúng ta nghe các ngài ngỏ lời với các cụ cao tuổi và mời gọi các cụ bước vào Năm Thánh như những chứng nhân cho tình. yêu Chúa “Các cụ vui vì lại được sống thêm một Năm Thánh nữa, Năm Thánh 2000” Chúng ta đã có dịp nói với nhau về niềm vui của chúng ta, niềm vui đích thực, niềm vui mà các thánh Tử Đạo đã hân hoan vui mừng khi được đi ra pháp trường. Các giám mục của chúng ta cũng muốn qua các cụ lão ông, lão bà kêu gọi chúng ta vui niềm vui chứng tá ấy. Ở Việt Nam có hội phụ lão, ở bên Mỹ có hội người già trong các cộng đồng Việt Nam, mục đích để giúp các cụ có dịp gặp gỡ nhau, cùng nhau trao đổi và giúp nhau trong cảnh già nua tìm được niềm vui trong những ngày cuối của đời mình, dĩ nhiên là niềm vui thánh thiện nâng cao quí cụ ngày càng được gần hơn đến với Chúa. Chúng ta cũng phải coi chừng vì nhiều khi việc ngồi lại với nhau chẳng những không tạo điều kiện để nâng cao, nhưng lại ghì kéo xuống làm cho chúng ta rơi vào những phù phiếm không lợi ích chi cho mình, đồng thời trở thành gương xấu cho con cho cháu và là gánh nặng cho xã hội. Chẳng hạn ở Việt Nam ngày ngày người ta vẫn thấy ba, bốn cụ già chân nam đá chân chiêu, lai rai hết ly này đến ly khác, gia đình con cháu buồn, người ngoài lắc đầu, tuổi già và niềm vui ấy trở thành gánh nặng cho mọi người. Rồi tại một hội người già trong một Tiểu Bang nọ, các cụ cũng than phiền là có nhiều chuyện không trong sáng giữa các cụ với nhau nên có nhiều cụ ở nhà. Một chương trình truyền hình nọ mời một cụ lão phỏng vấn: xin cụ cho biết cảm tưởng của cụ, niềm vui của cụ vẫn có mỗi ngày trong cuộc sống, kế đó họ xin cụ bí quyết để sống vui. Cụ trả lời rằng: “chẳng có bí quyết gì hết”, nếu có bí quyết gì đi chăng nữa nó cũng dễ như trở bàn tay, như uống nước lã vậy thôi. Đó là khi tôi thức dậy mỗi buổi sáng, tôi chỉ có hai điều để lựa chọn, một là sống an vui hạnh phúc, hai là sống lầm than khổ sở, dĩ nhiên là tôi đã chọn điều thứ nhất. Lạy Cha, chúng con lại có một ngày sống mới, đó là ngày sống mà mọi người trong gia đình như ông bà, cha mẹ và con cháu, tất cả đểu được mời gọi sống niềm vui của Tin mừng, niềm vui ấy nhiều khi chúng con phải sống như các thánh Tử Đạo cha ông chúng con đã từng sống trước đây Xin cho chúng con can đảm và trung thành sống trọn niềm vui ấy. Chúng con cảm tạ Cha cho tuổi già của ông bà, cha mẹ và chúng con cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu nhân danh các thánh Tử Đạo. Amen.

 

45.Tử Đạo Việt Nam

Cuối thế kỷ 16 đạo Công giáo được rao truyền tại Việt Nam. Tới thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 thì đã có nhiều người Việt Nam được lãnh nhận triều thiên Tử Đạo. Các Ngài là những người đã vì Chúa mà cam chịu mọi cực hình kể cả sự chết. Trong số những vị Tử Đạo này đã có 117 vị được Giáo Hội dần dần phong lên hàng chân phước rồi sau được phong lên hàng hiển thánh. Về việc phong chân phước cho các ngài thì Đức Lêo XIII phong 64 vị, Đức Piô X phong 28 vị, Đức Pio XII phong 25 vị. Tất cả các vị này: gồm 8 Giám mục, 50 Linh mục, 15 Tu sĩ và 44 giáo dân đã được chính Đức đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tôn phong lên hành hiển thánh trong một buổi lễ rất long trọng được tổ chức tại Công trường Thánh Phêrô tại Roma cách đây đúng 10 năm tức là ngày 19-6-1987.

Đi vào chi tiết hơn một chút thì ta thấy trong số 117 vị có 37 Linh mục Việt Nam, 13 Linh mục ngoại quốc dòng và triều. Đáng nhớ hơn cả là cha Vinh sơn Liêm, Cha Phê-rô Nguyễn văn Lựu, Cha Gioan Đoàn trinh Hoan, Cha Philipphê Phan văn Minh nhất là Cha Andrê Trần an Dũng Lạc và Cha Phaolô Lê bảo Tịnh. Có thể nói các ngài là tinh hoa của hàng Giáo sĩ Việt Nam.

Ngay từ nhỏ cha Phaolô Lê bảo Tịnh đã có một đời sống rất đạo đức. Hồi mới được vào nhà trường để được đào luyện thành Linh mục Có lần Thầy đã trốn vào rừng để sống cuộc đời ẩn tu. Sau đó vì vâng lời Thầy đã bỏ chốn ẩn tu về học trở lại. Đang khi theo học khoa Thần học thì thầy bị bắt, bị giam cầm tra tấn gông cùm suốt 7 năm rồi cuối cùng bị đi dầy. Sau một thời gian Thầy được phóng thích. Thầy đã được chịu chức Linh mục sau đó, rồi vì nhu cầu của Chủng Việc Cha Lê bảo Tịnh đã được Bề trên đặt Ngài làm Giám Đốc. Cuộc đời của Ngài rất gương mẫu. Nhưng chỉ được một thời gian thì Ngài bị bắt trở lại, bị tra tấn hạnh hạ thật dã man rồi cuối cùng Ngài bị trảm quyết.

Còn Cha André Trần an Dũng Lạc thì bị bắt đi bắt lại tới 3 lần. Ngài được giáo dân rất thương mến cho nên mỗi lần bị bắt ngài lại được giáo dân chuộc ra. Sau ba lần thì Ngài không để cho chuộc nữa. Ngài vâng theo thánh ý Chúa…can đảm chịu chết để làm gương cho các tín hữu. Có một chi tiết khá đặc biệt là Ngài rất được cảm tình của đám binh lính và lý hình. Trước khi hành hình họ đã thành tâm xin lỗi ngài vì lệnh mà họ phải làm như vậy.

Về phía các Thầy giảng thì chúng ta thấy các ngài cũng không kém anh hùng. Các Ngài cũng rất sẵn sàng chịu mọi cực hình để được làm chúng cho Chúa. Trong số này phải nhắc đến Thầy Phêrô Đoàn cap Văn. Thần Văn đã già. Già nhưng họ cũng không nương tay. Thầy bị gông cùm, bị đánh đòn và bị bỏ đói cho đến chết. Bên cạnh đó có Tôma Trần văm Thiện. Thầy Thiện là mộ chủng sinh dự bị. Thầy quyết một lòng theo Chúa cho đến cùng. Đến khi bị điệu ra pháp trường quan toà còn dùng đủ mọi cách để cám dỗ thầy quá khóa kể cả việc hứa thưởng những bổng lộc lớn lao cho Thầy. Thế nhưng chẳng có gì có thể làm thầy lìa bỏ Chúa. Thầy đã chọn vinh quang nước trời hơn mọi thứ lợi lộc ở trần gian.

Sau cùng là 44 giáo dân Nam nữ ở mọi lứa tuổi thuộc đủ mọi thành phần giai cấp xã hội. Chúng ta hãy nhắc đến một số những tên tuổi đặc biệt. Trần văn Trung là một viên cai đội. Giuse Lê đăng Thị là một chưởng vệ. Giuse Nguyễn huy Mỹ là một lý trưởng. Chính người vợ của Ngài đã khuyến khích Ngài chịu chết để làm gương cho mọi người. Andrê Trần văn Trông là một binh sĩ trẻ. Ngài được chính Mẹ của mình đưa đến pháp trường và sau khi ngài chịu hành hình chính bà đã ôm hôn thắm thiết xác con mình. Việc làm của bà chẳng khác gì việc làm của Mẹ Maria khi Mẹ ôm xác Chúa Giêsu sau khi xác xủa Chúa được đưa từ trên cây Thánh giá xuống. Cũng phải nhắc ở đây một người đàn bà rất đặc biệt đó là bà Inê Lê thị Thành. Người ta vẫn thường gọi là bà Đê. Bà là người có công che giấu các Linh mục tại nhà mình. Khi bị bắt bà đã nhất định không bước qua cây Thập giá dù đã bị tra tấn rất dã man. Cuối cùng bà đã chết ở trong ngục.

Ngoài ra chúng ta cũng thể không nhắc đến một chi tiết này đó là trong số những vị Tử Đạo được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô tuyên phong lên hàng hiển thánh kỳ này có 8 Giám mục ngoại quốc. Trong sắc phong 117 vị tử đạo Đức Thánh Cha đã xử dụng một cụm từ rất chính xác. Ngài nói các vị tử đạo TẠI Việt Nam. Cụm từ đó làm cho các Giám mục ngoại quốc tham dự lễ tấn phong hôm đó rất cảm động. Trong số 8 vị đó thì có 3 vị nổi tiếng hơn cả. Đó là Đức cha Thể, Đức cha Y, Đức cha Xuyên. Đây là những vị mục tử nhân lành đã theo thật sát gót chân Thầy chí thánh hy sinh mạng sống của mình vì đoàn chiên. Đức cha Thể thì chết rũ tù. Đức cha Y thì cũng bị giam trong tù trước khi bị trảm quyết.. Đức cha Xuyên thì bị hình phạt rất man rợ đó là Ngài bị lăng trì….thịt xương bị xẻo bị cắt ra từng mảnh cho tới chết.

Chúng ta cũng nên nhắc lại đây một vụ sát hại thảm khốc xẩy ra ở gần chúng ta. Tôi muốn nói đến vụ thảm sát tại Bà rịa vào ngày 7-1-1862.

Vào năm 1861 số tín hữ tại Bà rịa có vào khaỏng hơn 2000 người. Cuộc sống được yên ổn cho đến tháng 8 năm 1861 nghĩa là cho tới khi quan tuấn vũ Biên Hòa ra chỉ thị cho quan phủ Bà rịa lập danh sách những người có đạo. Sau khi lập danh sách, nhưng người có đạo đếu bị khắc tự ở hai bên má: Một bên thì bị khắc hai tiếng “Biên Hòa”, bên kia thì bị khắc hai tiếng “Tả đạo”.

Tháng 9 năm đó người ta thấy bốn ngục giam được thiết lập. Đây là ngục dành riêng để giam giữ những người có đạo.

Ngục Dinh (Phước lễ) được lập ngay tại Bà rịa để giam 300 đàn ông.

Ngục Thơm ở Long Kiên gần đó để giam 135 người vừa đàn bà vừa trẻ em.

Ngục Thành ở Long điền cũng để giam vừa đàn bà vừa trẻ em. Số người ở đây là 140 người tất cả.

Ngục cuối cùng là ngục Đất đỏ (Phước thọ). Ở đây người ta giam 125 người cũng vừa đàn bà vừa trẻ em.

Như vậy chỉ tính ở Vùng Bà rịa cũng đã có đến gần 700 người bĩ bắt và bị giam. Cuộc sống bị giam cầm rật khổ. Mùa khô thì còn đỡ, đến mùa mưa thỉ cuộc sống lao tù thật rất khổ. Các tín hữu bị canh giữ nghiêm ngặt, nhiều nơi phải ăn uống và xử lý mọi việc có liên đến đời sống hằng ngày trong cùng một chỗ, rất là mất vệ sinh nhưng không còn cách nào khác. Đối với ba ngục giam giữ đàn bà và trẻ con thì tương đối được dễ hơn một chút.Chính vì thế mà Cha Trí mới có thế giả dạng làm người lái buôn nước mắm để vào tiếp tế cũng như ban các phép Bí tích cho bổn đạo.

Một việc rất không may là cuối tháng 12 năm 1861 thì Biên Hòa thất thủ. Quân nhà Nguyễn phải chạy về hướng Bà rịa. Tại đây họ cũng chỉ cấm cự được đến tháng ngày 7 tnáng 1 năm 1862. Trước khi rút đi họ ra lệnh phóng hỏa thiêu rụi tất cả các trại giam với tất cả những người bị giam ở trong đó. Họ canh giữ một cách rất cẩn thận. Ai đào thoát mà họ bắt được thì sẽ bị chém ngay lập tức. Dịp này trại Dinh bị thiệt hại nhiều nhất. Trong số 135 người bị giam tại đó thì đã có tới 106 người bị chết. Ba trại kia vì là đàn bà con trẻ cho nên những lính canh đỡ khắc nghiệt hơn. Một vài người lính còn nhân đạo hơn. Họ phá cửa cho những người bị giam trong đó được thoát thân. Chỉ trừ có trại Thơm ở Long Kiên là bị hại nhiều hơn cả. Lý do là tên cai ngục ở đó quá tham lam. Ông ta chặn những người ở đó để cướp của.

Tổng kết lại trong thảm họa này số những người giam ở bốn trại bị chết là 288 người. Trong số này có đủ mọi lứa tuổi:

Bà cụ Maria Nở ở Long điền 75 tuổi

Ông Giuse Vệ ở Phước lể cũng 75 tuổi.

Em Micae Giao, Phê-rô Ban, Carôlô Nhỏ ở Long Kiên và Long Điền mới chỉ có 10 tuổi.

Em Madalena Lợi ở Long Kiên và Maria Mới ở Đất đỏ mới chỉ được một tuổi.

Đặc biệt là hai cháu sơ sinh Antôn Trước và Antôn Sau. Đây là hai anh em sinh đôi trong trại Đất đỏ. Các cháu chẳng khác gì các tánh anh hài thời Chúa Giêsu vừa mới Giáng sinh.

Ngày hôm sau tức là ngày 8-1-1862 những nơi bị phóng hỏa chỉ còn là một đống tro tàn với những thi thê các vị tử đạo còn nằm ngổn ngang tại đó.

Cha Hòa và Cha Trí âm thầm lo mai táng cho các ngài. Hai cha đào 3 cái huyệt lớn bên ngục Dinh và an táng các đấng tử đạo trong ba cái huyệt này. Riêng các đấng bị chết ở ba ngục kia thì không có tài liệu nào nói rõ.

Ngày nay tại Bà rịa nơi an táng các ngài người ta vẫn còn thấy một tấm bia trên đó có khắc những dòng chữ này:

Ba trăm bổn đạo xác nằm đây

Những trông sống lại hưởng phúc đầy.

Vì Chúa tù, lao, dư ba tháng,

Cam lòng chịu cháy, chết chỗ này.

Lập mộ cùng táng chung một huyệt.

Giáo nhơn coi đó, nhớ hằng ngày.

Chúng ta là con cháu của các Ngài. Chúng ta hãy noi gương các Ngài.Noi gương yêu Chúa và yêu người. Noi gương can đảm không lùi bước trước những thử thách gian nan. Noi gương hy sinh không màng danh lợi, quyết một lòng trung tín với Chúa cho đến cùng. Lời Chúa nói ngày xưa vẫn còn như mãi nhắc nhở cho mọi người chúng ta:”Ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được ơn cứu độ”.

home Mục lục Lưu trữ