Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1359284

LÃNH ĐẠO LÀ NGƯỜI TÔI TỚ ĐÍCH THẬT

LÃNH ĐẠO LÀ NGƯỜI TÔI TỚ ĐÍCH THẬT

Sống trong một xã hội, chúng ta không thể tránh khỏi những ảnh hưởng, chi phối tốt đẹp cũng như xấu xa của nó. Đã là con người, ai cũng muốn khẳng định giá trị của bản thân. Tuy nhiên, chúng ta thường rời xa giá trị thật sự của mình. Vì giá trị con người không bao giờ hệ tại bởi những gì chúng ta sở hữu hay nắm giữ, cho bằng chính sự hiện hữu của bản thân.

Do đó, cách nhìn về vai trò lãnh đạo hay làm lớn của chúng ta dường như bị lệch lạc. Là người lãnh đạo, người dẫn đầu, người làm lớn mà chỉ dựa trên quyền hành, quyền bính, cậy có quyền, có tiền…điều khiển, sai khiến, ‘làm chủ’ người khác. Ngoài thế giới rộng lớn kia, và trong xã hội đa dạng này, lối nhìn, cũng như thực trạng trên đã-đang diễn ra cách rõ ràng hơn. Tuy nhiên, dưới nhãn quan của Đức Giê-su, vai trò lãnh đạo và người muốn làm lớn lại khác hẳn, lắm khi trái ngược, “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9, 35). Lời dạy của Đức Giê-su mời gọi tất cả những ai đang nắm giữ vai trò lãnh đạo, đang muốn làm đầu; nhất là đòi hỏi chúng ta - môn đệ của Ngài.

Nhớ lại thời gian đào tạo trong chủng viện Chúa Chiên Lành, tôi được tiếp xúc và sinh hoạt chung với Đức Hồng y Lu-is An-tô-ni-ô G. Tag-lê 5-6 năm (khi ấy ngài là Giám mục và Giám đốc chủng viện). Tuy bận rộn với sứ vụ Giám mục, giảng dạy tại các học viện-chủng viện, tham dự nhiều hội nghị, cuộc họp trong và ngoài nước, nhưng Ngài luôn luôn trở về chủng viện cho dù tối khuya. Có một lần, tôi còn nhớ rõ như hôm qua. Khi cả chủng viện vừa mới ăn tối xong, thì ngài liền về tới. Lúc ấy, tổ chúng tôi đang hì hục từng công đoạn rửa bát (tráng dĩa, bát, xoong nồi, muỗng nĩa bằng nước nóng - rửa bằng bột rửa chén - rửa với nước lạnh - rửa với nước nóng - lau khô trước khi xếp vào tủ), thì ngài len vào muốn phụ chúng tôi. Dĩ nhiên, ai trong chúng tôi đều không đồng ý và nói: “Đức Cha nhiều việc rồi, với lại mới về, nên xin Đức Cha lên phòng nghỉ ngơi…” Mặc dù nghe vậy, nhưng ngài vẫn nán lại rửa bát, thử chờ đến giây phút mà chúng tôi có thể đổi ý. Tuy nhiên, ai ai cũng năn nỉ ngài về phòng nghỉ ngơi vì cũng khuya rồi, nên ngài đành rửa tay và đi ra ngoài nhà bếp. Tưởng chừng, ngài lên phòng; nhưng ngài vẫn muốn nán lại chỗ lau bát chén và cùng trò chuyện nói cười vui vẻ với tổ lau-cất. Một hình ảnh và nhân chứng sống cụ thể khó tìm thấy nơi môi trường đào tạo; nhưng thiết nghĩ là mẫu gương thiết thực trong vai trò lãnh đạo với tinh thần mà Đức Giê-su răn dạy các Tông đồ và chúng ta là những người đã-đang-sẽ bước theo Chúa.

Theo nhãn quan của Thầy Giê-su, trước hết, lãnh đạo là phục vụ khiêm hạ. Tin Mừng hôm nay thuật lại biến cố trên đường đi tới Ca-pha-na-um, các môn đệ tranh luận “ai là người lớn nhất?” (x. Mc 9, 34), cho dù sau khi được nghe Đức Giê-su tiên báo về thân phận của Ngài: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9, 31). Các ông chẳng hiểu và cũng không nghĩ Đức Giê-su sẽ phải chịu như vậy, cho nên vẫn cứ tranh cãi với nhau xem ai là người lớn nhất! Mặc khác, trên bước đường bôn ba theo Thầy Giê-su đây đó, chắc hẳn họ cũng được nghe nhiều điều mà Ngài giảng dạy liên quan đến vai trò lãnh đạo này: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em” (Mt 23, 11; Lc 22, 26). Hơn hết, các ông tận mắt chứng kiến Thầy mình trong Bữa tiệc ly trước khi tử nạn, đã cúi xuống rửa chân cho các ông, rồi lau khô. Gương phục vụ khiêm hạ ấy lên tới đỉnh điểm trên cây thập giá nơi Ngài chịu đóng đinh. Đây chẳng phải là câu chuyện hư cấu hòng thu hút sự chú ý độc giả như tin giật gân chạy những tít lớn trên báo chí giấy cũng như báo mạng hoặc những phương tiện truyền thông! Đây không phải là truyền thuyết, hay chuyện tranh Nhật Bản (manga), hoặc chuyện cổ tích Giáo hội dựng nên! Mà chính là Con Thiên Chúa đã mặc lấy xàm phàm, ở giữa chúng ta, sống tận cùng với lời Ngài giảng dạy. Có lẽ chính vì thế, trải qua bao đời triều đại Giáo hoàng, đặc biệt Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II lúc còn sống, ngài đã dùng tước hiệu “Tôi tớ của các tôi tớ Chúa” (Servus Servorum Dei), hầu trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su Ki-tô chí thánh một cách trọn vẹn nhất có thể. Còn chúng ta, những người đang bước theo Chúa, hay muốn trở thành môn đệ đích thật của Thầy Giê-su thì con đường phục vụ khiêm hạ là nẻo chính hằng mong.

Thứ đến, lãnh đạo là phục vụ yêu thương. Nhờ nhân đức khiêm nhường, chúng ta mới có thể yêu thương hết tình. Quả thật, khi kiêu căng, ngạo mạn phình to trong cái bản ngã to tướng của mình, thì chúng ta không thể nào phục vụ với vai trò lãnh đạo được. Vả lại, khi không có lòng mến, thì như Thánh Gia-cô-bê chỉ ra “ở đó hỗn độn và đủ thứ tệ đoan”; dĩ nhiên sinh ra thói ganh tị, cãi vã, tranh chấp (x. Gc 3, 16). Như thế, chẳng thể nào ‘cúi xuống rửa chân” phục vụ như Đức Giê-su mời gọi cũng như đòi hỏi được. Tình mến khiến chúng ta cảm thông, đặt mình vào vị trí người khác, tha thứ và bao dung đúng mực; nhờ đó, chúng ta mới dám hy sinh, bước ra khỏi ‘chốn loang phòng chăn ấm nệm êm’ của bản thân mà đến với tha nhân, chẳng phải đòi người khác phục vụ, cung phụng, mà chỉ mong chia san, phục vụ anh chị em như Thầy Giê-su “…và Ngài yêu thương họ đến cùng”(Ga 13, 1), “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (x. Pl 2,  8).

Sau cùng, vai trò lãnh đạo không những phục vụ trong khiêm hạ và yêu thương hết tình, mà còn biết đón nhận mọi người, đặc biệt ‘những ai bé mọn’ như Đức Giê-su “đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy…” (x. Mc 9, 36-37). Nhưng sao lại là ‘một trẻ thơ’? Như chúng ta biết, đàn bà và con trẻ không được tôn trọng, thường bị gạt bỏ trong xã hội Do Thái thời đó. Vì thế, Đức Giê-su đưa một đứa trẻ ra, hầu dạy các môn đệ và chúng ta biết đón nhận những người bị bỏ rơi, những ai là nạn nhân của sự ganh ghét, nội chiến sắc tộc, những người ‘thấp cổ bé miệng”, không có tiếng nói, v.v…như thể Ngài ‘lội ngược dòng’ với ‘văn hoá bỏ rơi, xã hội lãng quên’ đang chảy xiết trong cơn xoáy của chính nó. Đón nhận mọi người, nhất là những người bé mọn cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, không chỉ ở lời nói thôi, mà còn hành động ‘ôm lấy họ, ôm trọn con người hiện hữu của họ’, chẳng một lời than van, trách móc hoặc đổ lỗi hay ‘mãi tìm nguyên nhân, đánh mất, lãng quên và rồi đưa họ vào một thời dĩ vãng’. Nói đến đây, chúng ta không thể không nhớ đến mẫu gương tận tâm của Thánh Tê-rê-sa miền Cal-cút-ta. Khi còn sống, Mẹ đã từng gặp gỡ trực tiếp, ôm trọn hết tất cả những nỗi đau khổ, khốn khó của kiếp phàm trần nơi anh chị em cô thế cô thân, đang hấp hối. Mẹ đã đón nhận và chứng kiến từng người ra đi với phẩm giá cao quý của họ, cho dù phẩm giá của họ bị chà đạp, bị cướp mất lúc họ còn sống đi nữa. Về phương diện này, không thiếu tấm gương soi chiếu, nhưng điều chúng ta cần ngay bây giờ là đứng dậy, tiến bước và thực hiện.

Lạy Chúa, giữa dòng xoáy đời trôi

Bao thăng trầm giăng lối Ngài ơi!

Nguyện lòng con luôn mãi rạng ngời

Khiêm nhu phục vụ người anh em

Hằng đón nhận êm đềm, vui sướng

Hay khổ đau tan thương mỗi ngày

Ôm trọn người anh em quý thay. Amen!

 

50.Sự thật sẽ giải phóng anh em

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

Kính thưa quý anh chị em,

Một vị vua tuổi tác muốn nhường ngôi cho một người xứng đáng. Tiêu chí đầu tiên là sự trung thực. Để trắc nghiệm tính thật thà, vua cho gọi một số thanh niên, trao cho mỗi người một dúm hạt giống, dặn họ về gieo chăm sóc trong vòng 3 tháng. Chậu của ai nhiều hoa đẹp, thì sẽ được thừa kế ngai vàng.

Tới hẹn, mỗi người mang chậu hoa của mình, màu sắc rực rỡ. Lại có một thanh niên, cầm tới một chiếc chậu không hoa.

Vua thẩm vấn: “Tại sao con chỉ đem tới một cái chậu không?”

Buồn rầu, cậu thưa: “Con chăm sóc những hạt giống đúng theo chỉ dẫn, không hiểu tại sao chúng không nảy mầm?”

Tỏ vẻ đắc ý với câu trả lời, Vua tuyên bố: “Người trúng cử là thanh niên có chậu không hoa”, vì vua đã cho luộc chín số hạt giống trước khi giao cho họ chăm sóc. Người thanh niên được tuyển chọn vì tính trung thực, thật thà. Anh xứng đáng được ban thưởng địa vị cao quý.

Chúa Giê-su tuyên bố: “Hãy hành động theo sự thật và sự thật sẽ giải phóng các con” (Jn 8, 32).

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cao sự trung thực, coi nó như phương thế, như con đường giải phóng dứt điểm và toàn diện mọi vấn đề nhân sinh.

Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, so sánh cách giải quyết vấn đề của hai loại người: phường gian ác và bậc chính nhân.

Phường gian ác dùng mọi mánh lới, thủ đoạn để được kết quả tức thời. Chúng gài bẫy, giăng lưới, nhằm bắt chợt, bứng khỏi đất kẻ sống những người chúng ghét ghen. Sự ganh tỵ làm cho đôi mắt đui mù, trí phán đoán vẩn đục, hành động bất công, dẫu biết đó là tội ác, chúng cũng chẳng mảy may hối hận, dừng tay.

Kết cục hành vi gian ác không thoát khỏi lưới trời, chúng thường phải nhận một kết cục bi đát do chính tội mình gây nên.

Hai tên trưởng lão vu khống, cáo gian bà Su-san-na phạm tội ngoại tình, nghĩ rằng bà sẽ bị ném đá, nhưng Thiên Chúa đã gieo thần khí khôn ngoan cho Daniel minh oan cho bà. Sau hồi xét xử, toàn dân nhận ra tội ác của hai ông, họ quyết định ném đá kẻ vu khống, ngày ấy, máu kẻ vô tội khỏi bị đổ oan.

Người công chính hành động ngược với kẻ ác nhân. Họ sống chuẩn chỉ giới răn Chúa, không hùa theo lối sống biến thái của số đông, dẫu có bị thiệt thòi, bách hại. Noi gương Chúa, họ sống hiền lành, khiêm nhường, phó thác, cậy trông trong mọi hoàn cảnh. Không đối đầu với kẻ gian ác, vững lòng chờ đợi Chúa viếng thăm, giải thoát.

Sự chờ đợi Thiên Chúa giải án, tuyên công của người công chính không mang tính thụ động, cam chịu, nhưng năng động, hữu hiệu, quyết tâm thiết lập công lý, tình thương, sự thật trên thế gian. Lối sống của họ, tự thân, là ánh sáng bừng lên giữa bóng tối tiêu cực tù hãm chân lý. Họ bị người đời, yêu sự tối tăm hơn ánh sáng, khước từ, bách hại, giết chết là điều tất yếu phải xảy ra.

Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, cũng bị thế lực sự dữ, núp dưới vỏ bỏ: bảo vệ luật Chúa, liên minh hãm hại. Người tiên liệu sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị giết chết cách dữ dằn bằng khổ hình thập giá.

Giê-su phải chết là đương nhiên, bởi phong cách sống và lời giảng dạy của Người đối nghịch với “thói đời”, vốn yêu chuộng sự tối tăm hơn ánh sáng chân thật.

Tuy nhiên, Tin Mừng, không bị khống chế bởi ngày thứ sáu thảm thương, mà bừng lên rực rỡ vào ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su sống lại từ trong kẻ chết. Hai biến cố: tử nạn/phục sinh luôn phải đi đôi với nhau, mới làm thành Tin Mừng, thành ơn cứu độ phổ quát cho những ai suy phục chân lý. Đây là lý do giải thích tại sao người công chính chỉ chờ đợi Chúa viếng thăm, giải phóng khỏi mọi áp lực thế gian.

Giê-su thi hành sứ vụ Cha ủy thác, trong sự tự hủy tuyệt đối, vâng lời cho đến chết trên thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho cả nhân loại.

Chúa dạy các môn đệ tinh thần thần phó thác, cậy trông, can đảm sống và làm chứng cho sự thật, dẫu thuận lợi hay trong nghịch cảnh. Làm thế, họ cứu chính mình và tha nhân, bởi tin rằng: “Sự thật sẽ giải phóng” (Jn 8, 32).

Để có được tâm tư của Chúa, người môn đệ phải gạt bỏ tinh thần thế tục: óc địa vị, kẻ cả, ham hố danh lợi thấp hèn, một phải đổi mới nên giống “trẻ thơ”, nghĩa là: không mưu mô, xảo trá, gian dối, nhằm có được lợi thế giữa cộng đoàn.

Thánh Gia-cô-bê, trong bài đọc II, chỉ ra nguyên nhân của sự dữ là do lòng tham lam vô độ. Lòng tham sinh ra ghen tương, đố kỵ, cạnh tranh, bất công và mọi hành vi gian ác, xấu xa, cũng bởi đó mà ra. Người tham lam giống như cái thùng không đáy: danh lợi, thú, bao nhiêu cũng không lấy làm vừa, làm đủ.

Đối với thánh Gia-cô-bê, chấp nhận sự thật về mình, bằng lòng với những gì mình có là liều thuốc đặc trị chữa tính tham lam. Và chỉ nơi điều này, các đức tính nhân bản mới được kitô hóa, mới trở nên hương thơm của Chúa, mới có giá trị giải phóng, chữa trị và cứu độ phổ quát.

Thưa anh chị em,

Giáo huấn Lời Chúa hôm nay lưu ý chúng ta:

* Một là: Chuyên chăm lắng nghe, thực hành lời Chúa dạy, cụ thể, dốc quyết sống trung thực trong mọi hoàn cảnh: “có thì nói có, không thì nói không, kỳ dư là tự ác quỷ mà ra!” (Mt 5, 37).

* Hai là: Luôn ý thức mình là kitô hữu, phải trở nên giống Chúa trong tư tưởng, lời nói, việc làm: từ bi, nhân hậu, khiêm nhường, nhẫn nại, tha thứ, hiệp thông.

Thực hành những điều đó, chân lý và sự thật Tin Mừng sẽ giải phóng chúng ta!

Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen!

 

51.Nên thánh trong phục vụ

(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)

Trong Tin Mừng, có lần Chúa mời gọi: Hãy nên thánh thiện như Cha trên trời là Đấng Thánh. Bởi thế, ơn gọi nên thánh là ơn gọi dành cho từng người không trừ ai. Dù vậy không ai được quyên rằng, cuộc sống hôm nay của ta có một giá trị vĩnh cửu. Vì thế, nếu tội lỗi hôm nay sẽ theo ta đi vào vĩnh cửu thì giá trị của việc lành cũng đưa ta tiến về hạnh phúc vĩnh cửu. Ơn gọi nên thánh là ơn gọi bao hàm lời răn dạy hãy tránh xa sự xấu, và thực hiện những việc lành, để ngày càng tiến đến sự thánh thiện hoàn hảo. Một trong rất nhiều ơn lành mà hôm nay Chúa mời gọi, đó là sự phục vụ: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Chính khi hạ mình làm đầy tớ, nghĩa là hạ mình để phục vụ với tất cả lòng mến, với hết khả năng của bản thân, chính là lúc ta tiến đến sự thánh thánh thiện hoàn hảo như Chúa mời gọi.

Có hai lý do cho biết phục vụ sẽ đưa ta đạt đến đỉnh cao của sự nên thánh:

Lý do 1: Dựa trên Chính lời dạy của Chúa Giêsu: Ai phục vụ, dù là phục vụ những người mang thân phận nhỏ bé nhất, người ấy thật vinh dự, thật cao cả vì được phục vụ chính Chúa Giêsu, qua đó cũng sẽ là người phục vụ chính Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết điều đó: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.

Lý do 2: Khi sống đời phục vụ, ta nên giống Chúa Kitô. Người xuống thế làm người, không ngoài một lý do này là: “Đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho muôn người”. Vì thế, cả cuộc đời Chúa Giêsu, sinh ra, sống, chết, sống lại chỉ nhằm một lý do quan trọng: chuộc lại cho ta ơn thánh thiện hoàn hảo mà Thiên Chúa đã tặng ban từ nguyên khởi. Chúa đã dạy và đã nêu gương để xây dựng thành một bằng chứng hùng hồn, một bài học lớn lao và quý giá. Vì thế, đến lượt mình, ta cũng phải học lấy tinh thầy khiêm nhu, yêu thương và phục vụ như Người.

Có một tấm gương lừng danh trong thời đại chúng ta, mà khi nhắc tới, hiếm có người nào không biết, cũng không ai là không ngưỡng mộ, yêu mến và nể phục. Tôi muốn nói đến tấm gương của Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Mẹ đã sống trọn vẹn lời mời gọi của chúa Kitô, vì thế, đến lúc kết thúc cuộc đời, Mẹ đã có thể đến trước Thánh Nhan bằng một niềm hạnh phúc tuyệt diệu, vì cả một đời, Mẹ đã nên giống Chúa Kitô trong tình yêu hiến thân và phục vụ.

Ngày 19.10.2003, Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã được Giáo Hội phong chân phước. Thời gian điều tra và chuẩn bị án phong chân phước cho Mẹ chỉ mất có sáu năm. Một thời gian ngắn như thế, lúc đó là một kỷ lục mà Giáo Hội yêu thương dành cho Mẹ, cũng như qua Mẹ, Giáo Hội dạy chúng ta những bài học lớn bằng chính tấm gương thánh thiện của Mẹ.

Ngày 5. 9. 1997, ngay sau khi tin Mẹ Têrêsa qua đời được loan đi, đã gây một chấn động lớn cho toàn thế giới. Cũng từ ngày đó, người ta đã nghĩ ngay đến việc phong thánh cho Mẹ. Nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc vô hạn. Lập tức Đức Gioan Phaolô II đã làm lễ tưởng niệm Mẹ ngay tại biệt thự của mình. Tổng thống Bill Clinton xúc động nói: “Mẹ là người luôn gây kinh ngạc, một trong những bậc vĩ nhân của thời đại này”. Tổng thống Hàn Quốc Kim Young Sam ghi nhận: “Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cả cuộc đời của Mẹ Têrêsa cho những người bần cùng trên thế giới”. Còn thủ tướng Singapo, Goh chok Tong thì mói: “Mẹ Têrêsa là một trong những người nổi bậc nhất của thế kỷ 20”. Và còn nữa, còn rất nhiều những lời chia buồn của các vị nguyên thủ trên khắp thế giới.

Mẹ Têrêsa là ai mà quang trọng quá vậy? Mẹ chỉ là một nữ tu người Albani, rất bình thường. Mẹ sang Aán độ lập dòng nữ tu Thừa Sai Bác Aùi. Điều đáng chú ý nơi người nữ tu bé nhỏ này là một tâm hồn vĩ đại, một tâm hồn dạt dào lòng yêu thương không nhỏ chút nào. Mẹ đã dành cả đời mình để lo cho những anh chị em cùng khổ. Mẹ đã cúi xuống để đưa người đói rét, bệnh tật, bị bỏ rơi… về lại với cuộc sống con người. Mẹ đã đưa người hấp hối bên lề đường, phố chợ về lại một mái nhà để họ được yêu thương vỗ về và được chết như một con người. Mẹ đã cúi xuống để trả lại hy vọng cho những ai mất hết lòng tin trong cuộc đời. Mẹ đã đưa bàn tay, dẫu đã già nua, nhưng tràn đầy sức mạnh của tình yêu để nâng đỡ bất cứ ai bạc nhược, cô thân, và bất cứ ai đói khát tình người, đói khát yêu thương…

Chính vì vậy, trước dong linh Mẹ, Thủ tướng Albani, Fatos Nano đã bày tỏ nỗi lòng: “Mẹ Têrêsa là con người nhỏ bé nhưng có một tâm hồn lớn lao cao cả”. Chính ông đã muốn đưa thi hài của Mẹ về nước an táng, nhưng không thành vì Mẹ là ân nhân của nhân dân Aán độ. Chính quyền Aán độ đã tuyên bố lễ tang của Mẹ là quốc tang. Hàng ngàn người Aán độ và nhiều người thuộc nhiều quốc tịch, thuộc mọi tầng lớp, bất chấp mưa gió, nối nhau xếp hàng dài hàng cây số trước trụ sở dòng Thừa Sai Bác Aùi ở Calcutta để được viếng xác và để nhìn thấy lần cuối cùng gương mặt người nữ tu vô cùng khả ái ấy. Quả thật Mẹ Têrêsa là tấm gương của thời hiện đại cho những ai muốn sống đời khiêm nhu tự hạ và phụ vụ. Chỉ khi nào đã trở nên người nhỏ bé, ta mới thật là một vĩ nhân. Bây giờ mẹ Têrêsa còn hơn một vĩ nhân: Mẹ trở thành thánh nhân. Gương nhân đức của Mẹ chiếu sáng lấp lánh cho cả loài người.

Chính Chúa Giêsu đã tự hạ đến tột cùng nên Người được Thiên Chúa tôn vinh đến tột đỉnh vinh quang. Vì thế, ai đi con đường khiêm tốn và tự hạ như Chúa, Người ấy cũng sẽ được đưa tới vinh quang tột đỉnh.

Đức Maria, Mẹ Têrêsa, và các thánh là những tấm gương trên mọi tấm ghương về nhân đức và sự thánh thiện. Để đạt tới sự thánh thiện như các ngài, chúng ta hãy khắc sâu Lời Chúa dạy trong hồn mình, để mỗi một ngày một sống lời dạy ấy cách tốt hơn, xứng đáng hơn: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”.

Ước gì lời dạy của Chúa Kitô và tấm gương yêu thương, phục vụ của Người thấm đẫm tâm hồn ta, giống như Mẹ Têrêsa, và các thánh, để nhờ đó ta luôn ý thức sứ mạng Chúa trao là phục vụ anh chị em mình, trong cuộc sống đời thường và trong chức vụ mà mình đang mang, đang gánh như: là một người cha, người mẹ, là bổn phận làm con, bổn phận đào tạo con người, hoặc mình là người buôn bán, làm thuê độ nhật, hay trong vai trò của người nghiên cứu, học tập… Nhờ ý thức như thế, ta sẽ ra sức chu toàn bằng tất cả tài năng, sức lực, suy nghĩ, hành động của bản thân. Vì khi chu toàn ơn gọi Chúa trao là lúc ta nên thánh trong chính ơn gọi của mình.

 

home Mục lục Lưu trữ