Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 59
Tổng truy cập: 1361426
LÃNH NHẬN VÀ TRAO BAN
LÃNH NHẬN VÀ TRAO BAN
(Suy niệm của Br. Phillip Bình Khả, CRM.)
Trong khi làm việc mục vụ thăm các gia đình Việt Nam, tôi có dịp gặp một số cụ bà Việt Nam sống rất quảng đại đối với người nghèo. Các cụ không có nhiều tiền lắm của nhưng tấm lòng thì luôn mở rộng. Các cụ giúp đỡ người nghèo, người phong cùi, hoặc nâng đỡ các chủng sinh tiến tới chức linh mục với những đồng tiền khiêm tốn. Một cụ chia sẽ rất chân thành và cảm động: "Tất cả con có là của Chúa ban. Chúa cho con nhiều thì con chia sẻ lại cho những người kém may mắn hơn con."
Các bà cụ Việt Nam đã sống và thực hiện lời Chúa trong bài Phúc Âm Matthêu hôm nay: "Các con lãnh nhận nhưng không thì hãy trao ban nhưng không."
Những lời nói trên được Chúa Giêsu nói đến khi Người sai mười hai tông đồ đi rao giảng. Trước khi đi rao giảng, Chúa Giêsu ban cho các môn đệ quyền trừ quỉ, chữa bệnh nhân và ngay cả làm cho người chết sống lại. Tuy nhiên những ơn mà Chúa ban cho các tông đồ không phải chỉ giữ riêng cho cá nhân hay tìm lợi ích riêng cho họ. Mục đích chính của các ơn này là phải mang lại lợi ích cho người khác.
Chúng ta cũng vậy. Tất cả những khả năng chúng ta có đuợc là do Thiên Chúa ban, nhưng không chỉ giữ riêng cho chúng ta. Chúng ta có thể trau dồi, mài dũa làm cho các khả năng mà chúng ta đang có trở nên tốt và hoàn hảo hơn, nhưng nguồn gốc của nó vẫn là do Thiên Chúa ban nhưng không cho chúng ta. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng tất cả những gì các con có mà không phải bởi Chúa đâu. Chúng ta chỉ là những người được uỷ thác cai quản, trông nom và làm sinh hoa lợi chúng. Giống như các tông đồ trong bài Phúc âm hôm nay hay các cụ trong câu chuyện ở trên, chúng ta có nhiệm vụ dùng những khả năng mà chúng ta đang có để mưu cầu ích lợi và hạnh phúc cho tha nhân.
Nếu chúng ta chỉ giữ lại những khả năng chúng ta đang có cho riêng chúng ta thôi thì những khả năng đó sẽ không bao giờ hoàn thành đầy đủ mục đích của nó. Nhưng nếu chúng ta biết đem những khả năng chia sẻ với người khác thì nó sẽ được hoàn thành trọn vẹn ý nghĩa của nó. Giống như cái ghế chưa đạt được mục đích của nó nếu nó không được sử dụng.
Chúng ta có thể không có nhiều tiền lắm của để làm những việc đại sự. Chúng ta không có khả năng siêu việt như làm phép lạ chữa bệnh, trừ quỉ, hay cho người chết sống lại như các tông đồ khi Chúa Giêsu sai họ đi rao giảng. Nhưng chúng ta có những khả năng nhỏ nhoi mà có thể mưu cầu lợi ích và hạnh phúc cho người khác.
Bạn có khả năng trao ban nụ cười cho người khác chứ? Mẹ Têrêsa Calcutta, Đấng Sáng Lập Dòng Nữ Tử Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo khó, khi còn sống đã cho chúng ta một lời khuyên, một triết lý sống đơn sơ: "Hãy trao cho nhau nụ cười. Chồng hãy trao cho vợ nụ cười, vợ hãy trao cho chồng nụ cười; cha mẹ hãy trao cho con cái nụ cười. Chúng ta hãy trao cho nhau nụ cười. Nụ cười sẽ giúp chúng ta lớn lên trong tình yêu thương với mọi người... Hãy bày tỏ sống động sự quan tâm, thân ái của Thiên Chúa nơi bạn - sự thân ái, quan tâm trên khuôn mặt bạn, trong đôi mắt bạn, trên nụ cười tươi, trong sự chào đón nồng ấm và cởi mở của bạn tới tha nhân."
Nhiều người Mỹ nhận định rằng người trẻ Việt Nam có nhiều khả năng lắm. Thật thế, nhìn chung vào các cộng đoàn, giáo xứ Việt Nam nhiều người trẻ có nhiều khả năng lắm; họ đã hy sinh thời giờ, đem các khả năng mình đang có đóng góp, dấn thân trong cộng đoàn, giáo xứ trong các lãnh vực như tham gia ca đoàn, phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể, thăm viếng những người già cô đơn tại các hưu dưỡng, tổ chức gây quĩ giúp người nghèo, trẻ em nghèo tại Việt Nam và các hoạt động khác... Rất cảm phục và hoan hô.
Bạn thân mến, ai trong chúng ta chắc chắn đều có những khả năng nào đó. Tuy nhiên, chúng ta có muốn trao ban, chia sẽ nhưng không những cái mà chúng ta đang có hay không mới là điều quan trọng.
33.Suy niệm của Noel Quesson
Một giai đoạn mới của Tin Mừng Thánh Matthêu bắt đầu từ hôm nay. Sau giai đoạn đầu tiên tập trung xung quanh Bài Giảng Trên Núi, trong đó Đức Giêsu đã trình bày những nền tảng sứ điệp của Người và bắt đầu biểu lộ quyền bính độc nhất mà người có khi thực hiện một vài "dấu chỉ mầu nhiệm" đặc thù... Giờ đây là một giai đoạn mới tập trung xung quanh Bài giảng về sứ mệnh truyền giáo mà Đức Giêsu sẽ kêu gọi con người cọng tác vào sứ vụ của Người.
Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương
Đôi mắt của Đức Giêsu! Cái nhìn của Đức Giêsu! Cái nhìn tuyệt vời ấy mà một số ảnh thánh đã vẽ lại trong đôi mắt to. Có nhiều cách "nhìn". Một nhân viên vô danh của một thương xá, đã quen với cái nhìn lãnh đạm, nói với một bà khách hàng: "Bà đã nhìn tôi không như mọi người, tôi đoán rằng có "cái gì đó" trong lòng bà...".
Đức Giêsu "chạnh lòng thương". Động từ Hy Lạp “esplanchmzô" có nghĩa đen là "xao xuyến trong gan ruột" và gợi lại một từ ngữ Do Thái rất quan trọng "rahamim", thể hiện vừa "lòng mẹ" vừa "tình yêu”. Trong Tin Mừng, từ ngữ ấy dành riêng cho Thiên Chúa và Đức Giêsu (Lc 10,33; 7,13; 15,20; Mc 9,22; Tv 51,3; Gr 31,20; Is 54,7 Ds 27,16-17). Đức Giêsu để mình xúc động đến ruột gan: Tại sao? Người đã thấy cảnh tượng gì làm cho đôi mắt to của Người bao phủ bóng mờ của lòng thương cảm?
…vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.
Đôi khi lầm than vất vưởng còn được dịch là mệt mỏi, lả đi. Những con người kiệt sức, không còn có thể làm được gì! Một sự chán nản to lớn, sự chán ghét sâu xa trước cuộc đời phi lý không có ý nghĩa gì. Những đám đông không có mục tử. Những con người không có Thiên Chúa. Một nhân loại kiệt sức một cách vô ích trên những nẻo đường không dẫn đến đâu cả… như một bầy chiên đi lang thang bất định...
Phải chăng thân phận của người nghèo trên thế giới đã thay đổi nhiều từ thời Đức Giêsu? Cái nhìn hiện nay của Đức Giêsu trên nhân loại phải chăng rất khác với cái nhìn lúc đó? Còn chúng ta thì sao? Chẳng phải chúng ta được mời gọi để nhìn đến những đám đông đó sao? Những nỗi thống khổ mênh mông của hàng tỉ con người và những trẻ em thiếu ăn trên hành tinh chúng ta. Những nỗi khổ tinh thần của tất cả những người đã thất bại, đã bị bỏ rơi, không cảm thấy mình được yêu thương. Sự suy sụp của những người sống buông xuôi, sử dụng ma túy, hóa rồ dại và tự hủy hoại mình dần dần...
Lạy Chúa! Xin giúp các môn đệ của Chúa chấp nhận cái nhìn của Chúa!
Toàn thể thế giới từ nay ở dưới ánh mắt chúng ta qua màn hình của vô tuyến truyền hình. Những cuộc du hành của chúng ta trong những nước thuộc thế giới thứ ba không chỉ là du lịch. Và trong những thành phố lớn, ngay trước cửa nhà chúng ta, có một thế giới thứ tư của những con người bị đè bẹp. Chúng ta hướng về các thực tại ấy với cái nhìn nào?
Có phải chúng ta sẽ ở trong số những người… dửng dưng, chán chường, thụ động không? Và Đức Giêsu làm gì trước những cảnh tượng đó?
Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặp lại ít”.
Đức Giêsu không phải là một người chán chường. Người nhìn nhân loại như một cánh đồng lúa chín dập dờn dưới làn gió mùa hè. Mùa gặt kia rồi, tất cả đã sẵn sàng. Người ta vui mừng vì mùa gặt đến, nhưng thợ gặt lại ít. Đức Giêsu thừa nhận công việc của Người rất nhiều. Người muốn có những người cộng tác. Ai sẽ đứng dậy để hành động với Người?
Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.
Sự cầu nguyện là hành động truyền giáo đầu tiên. Tại sao?
Tại sao "chủ mùa gặt" tức Thiên Chúa không trực tiếp sai các thợ gặt cần thiết? Tại sao Người yêu cầu chúng ta cầu nguyện"? Người tôn trọng trách nhiệm to lớn của con người: Thiên Chúa cần đến những con người! Mầu nhiệm to lớn của việc cần thiết phải can thiệp bằng sự cầu nguyện, mở ra cho chính chúng ta công việc phải làm ở cánh đồng đó. Nếu bạn cầu nguyện thì người thợ găt đầu tiên mà Thiên Chúa có ngay trong tay Người, chính là bạn. Bạn không chỉ cầu nguyện để gởi những người khác đến công trường, mà bạn hãy đi đến đó! “Lạy Chúa, này tôi đây, tôi xin Chúa hãy sai tôi” (Is 6,8). Người ta lo lắng rất nhiều về trách nhiệm to lớn của việc Tin Mừng hóa. Trên hết, người ta quan tâm về các phương pháp. Nhưng trước khi để cách làm “thế nào" thôi miên, chẳng phải trước tiên người ta cần ý thức lại bản chất sâu xa của “sứ vụ” đó sao. Nhiệm vụ làm tông đồ của chúng ta tùy thuộc vào Đấng Tha Thể Tuyệt Đối (Đấng Khác) sai chúng ta đi…
Đó không phải công việc "của chúng ta". Chúng ta không làm việc bởi sức mình. Chúng ta ở trong cánh đồng của Thiên Chúa, trong mùa găt của Người, "Đấng muốn rằng nhân loại được cứu” (1Tm 2,4). Từ đó, có sự ưu tiên của việc cầu nguyện trên mọi phương pháp. Và phải chăng khủng hoảng của ơn gọi thực ra chỉ là một khủng hoảng của sự cầu nguyện?
Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
Đức Giêsu không có ý định một mình thực hiện công việc của Thiên Chúa: Người trao dự án và quyền bính của Người cho "một ít người", mười hai người mà Người chọn trong số hàng trăm môn đệ đi theo Người: Chức tư tế thừa tác bắt nguồn từ đây, trong ý muốn tổ chức Giáo Hội của Người.
Con số "mười hai" là con số tượng trưng. Nó ám chỉ mười hai bộ tộc của Israel tạo thành "dân Thiên Chúa" và bảo đảm việc phụng tự mỗi tháng, trong mười hai tháng của năm âm lịch. Vì thế con số mười hai này biểu thị toàn bộ miền "đất hứa", vì toàn bộ "thời gian".
Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô, rồi đến ông Anrê, anh của ông; sau đó là ông Giacôbê con ông Dêbêđê, và ông Gioan, em của ông, ông Philípphê, và ông Batôlômêô; ông Tôma và ông Mátthêu người thu thuế, ông Giacôbê con ông Anphê và ông Tađêô; ông Simon thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giuđa Iscarios chính là kẻ nộp Người.
Các sách Tin Mừng đưa ra cho chúng ta danh sách này bốn lần: với một vài sự khác nhau nhỏ nhưng với sự phù hợp tối đa. Matthêu đã tập họp tất cả các tên ấy “từng đôi một". Đây không phải là chuyện ngẫu nhiên. Việc thành lập "đội quân" của Đức Giêsu rất có ý nghĩa: Người đã chọn làm những người cộng tác mật thiết cùng lúc một người ‘thu thuế’ bởi nghề nghiệp mà thỏa hiệp với quân chiếm đóng La Mã… và một người thuộc nhóm ‘quá khích’, theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chống lại người La Mã. Một sự phối hợp dễ bùng nổ, Matthêu nhấn mạnh: đây không phải do sự ngẫu nhiên…
Chẳng phải là Giáo Hội chủ yếu phải "đa nguyên", để có thể đảm đương những điểm khác nhau và những xung đột của thế giới… để: giải quyết chúng trong một sự hiệp thông cao cả hơn. "Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Còn Thầy, Thầy bảo thật anh em: "Hãy yêu kẻ thù” (Mt 5,43-48). Sau hết, chúng ta cũng đoán ra Giáo Hội phải có sự khiêm nhường nào. Trong những người có trách nhiệm, Giáo Hội lúc đó bao gồm "người' đứng đầu", Simon Phêrô, người đã chối Đức Giêsu, và "người đứng cuối", Giuđa, là người đã nộp Chúa cho các đao phủ. Quả là một đội quân đáng thương. Nó chỉ mạnh bởi sự chọn lựa mầu nhiệm mà Chúa Giêsu đã thực hiện: "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa nhưng là bạn hữu” (Ga 15,15).
Đức Giêsu sai mười hai ông ấy đi và chỉ thị rằng: "Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samari. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc anh nhà Israel”.
Đức Giêsu sai họ đi! Nào anh em hãy đi! Hãy lên đường! Nhưng chúng ta nhận thấy rằng "môi trường hoạt động" rất hạn chế, trái ngược với sứ vụ bao quát cả hoàn vũ mà Người sẽ truyền lệnh sau khi Người sống lại: "Vậy anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Tại sao sứ vụ đầu tiên này ở Galilê có những sự hạn chế? Có lẽ để nói rằng Thiên Chúa trung tín với điều hứa của Người và Israel phải là người đầu tiên đón nhận Tin Mừng (đó là điều Thánh Phaolô sẽ làm). Nhưng cũng bởi vì xét về phương diện con người, người ta không thể làm tất cả mọi sự: phải bắt đầu và không được ẩn náu trong sự to lớn của nhiệm vụ để không làm gì cả!
Nào anh em hãy đi! Hãy lên đường! Anh em được sai đi. Mỗi sự quy tụ của các Kitô hữu phải hoàn thành trong sự sai đi này: Ite, missa est! Cộng đoàn Giáo Hội, dưới khía cạnh phụng vụ, là một cuộc tập hợp tạm thời phải được chuẩn bị để đi vào thế giới ngõ hầu cùng với mọi người, tín hữu hoặc không phải là tín hữu, tạo thành một "cộng đoàn nhân loại". Giáo Hội được quy tụ vì Thánh Thể có tính chất "ngôn sứ": Giáo Hội "nói lên" dự án của Thiên Chúa là "quy tụ lại trong sự hiệp nhất mọi con cái của Thiên Chúa đã bị phân tán". Giáo Hội nói lên rằng nhân loại từ nhiều phải được làm nên một, theo hình ảnh của Ba Ngôi. "Để tất cả nên một như Chúng Ta, như vậy thế gian sẽ tin" (Ga 17,21). "Sứ vụ”, "sự sai đi" là yếu tính của Giáo Hội. Nhiệm vụ đầu tiên của Giáo Hội không phải là tuyển mộ: "Anh em hãy đến gặp chúng tôi!" mà là công bố: "Nước Trời ở đây rồi”; “Thiên Chúa ở với anh em, nơi anh em đang ở". Trước tiên, phải Tin Mừng hóa, phải rao giảng Tin Mừng.
Dọc đường hãy rao giảng rằng: "Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”.
Đây là những công thức tượng trung để diễn tả "Dự án" của Thiên Chúa. Mọi đời sống con người đã được Thiên Chúa cư ngụ và có được một ý nghĩa vượt qua chính nó: “bạn sẽ không chết”. Cưới nhau và sinh con cái chính là tin rằng sự sống vượt qua sự chết. Triều đại của Thiên Chúa "đã bắt đầu". Sự khác nhau giữa người tín hữu và kẻ vô thần, đó là người tín hữu lắng nghe ở đáy lòng, "ý nghĩa" của điều mình sống, và người ấy biết điều đó dẫn đến đâu. Người ấy "tin rằng" Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử và người ấy tham gia vào lịch sử ấy với nhiều ý thức nhất khi làm cho sự sống chiến thắng.
34.Phương pháp hiệu quả nhất.
(ĐỐI THOẠI VỚI THIÊN CHÚA – Fernandez)
1) Tinh khẩn thiết của sứ mạng tông đồ: mùa màng thì nhiều mà thợ gặt lại ít
Bài Tin mừng trong Thánh lễ hôm nay vẽ ra một cảnh tượng mà chắc chắn đã thường xuyên xảy ra mỗi khi Chúa Giêsu rảo bước qua các thành thị và làng mạc để rao giảng Nước Trời đang đến gần. Khi nhìn đám đông, Người chạnh lòng thương; Người đã xúc động trước cảnh ngộ khốn khổ của họ vì thấy họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9,36). Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,37). Ngày nay hoàn cảnh cũng tương tự như thế, có quá ít nhân lực để thực hiện một công trình to tát. Hoa mầu có thể thất thu vì không có người ra đồng mà gặt. Vì thế có một nhu cầu thúc bách các Kitô hữu sống trung tín đơn thành hiệu quả và vui tươi với Hội Thánh và ý thức được những việc cần phải làm. Tất cả chúng ta đều can dự vào công việc này, vì Thiên Chúa đang cần những công nhân, sinh viên đem Đức Kitô đến công trường hay vào giảng đường bằng uy tín và tinh thần tông đồ của họ. Thiên Chúa cần những giáo viên sống mẫu mực, truyền bá nhân sinh quan Kitô giáo, những giáo viên biết tận tụy dành thời giờ cho sinh viên, những giáo viên chính hiệu. Thiên Chúa cũng cần những bậc làm làm mẹ biết quan tâm đến việc giáo dục và đức tin của con cái và đóng một vai trò tích cực trong hội đồng nhà trường, các ủy ban và hiệp hội địa phương.
Khi chúng ta thấy nhiều người đang đi vào con đường sai trái, cuộc đời họ luôn thiếu vắng Thiên Chúa và trong lòng chỉ quan tâm tới của cải vật chất hay khao khát muốn chiếm hữu những của cải ấy, chúng ta không thề cứ ù lì, bất động, “bình chân như vại” mãi được. Vì mặc dù bề ngoài họ có vẻ dửng dưng, nhưng thâm sâu trong tâm hồn, họ vẫn khát khao tìm Thiên Chúa. Họ mong muốn có ai đó nói với họ về Thiên Chúa và những chân lý cứu độ. Nếu các Kitô hữu không lấy tinh thần hy sinh ra mà giải quyết vấn đề này, thì những lời tiên tri của ngôn sứ Giôen ngày xưa sẽ trở thành sự thật mất thôi: Đồng ruộng bị tàn phá, đất đai cũng u sầu như thể chịu tang, vì lúa mì bị tàn phá, rượu mới đã cạn khô, dầu tươi chẳng còn nữa. Hỡi nhà nông, hãy thẹn thùng xấu hổ, kẻ trồng nho, hãy rú lên nào, tiếc cho lúa miến, lúa mạch, vì đồng ruộng chẳng còn gì để gặt hái. Nho cằn cỗi, vả héo tàn, cả lựu, cả chà là lẫn táo, mọi cây cối ngoài đồng đã chết khô. Thế là đã cạn hết niềm vui của con cái loài người (Ge l,1-12). Thiên Chúa mong mỏi hoa mầu được thu hoạch nhưng chúng lại thất thoát chỉ vì sự chểnh mảng của đám thợ gặt mà thôi.
Những lời Chúa Giêsu nói, lúa chín thì nhiều nhưng thợ gặt thì ít, đáng cho chúng ta hôm nay suy gẫm, và hàng ngày xét mình xem: hôm nay chúng ta đã làm cho Danh Chúa được tỏ hiện cho mọi người chưa? Tôi đã nói với ai về Đức Kitô chưa? Tôi đã làm được một việc tông đồ nào chưa? Tôi có quan tâm đến ơn cứu độ của bằng hữu và đồng nghiệp? Tôi có nhận thức rằng nhiều người có thể đến gần Thiên Chúa hơn nếu như tôi dạn dĩ hơn và gương mẫu hơn trong việc chu toàn những nghĩa vụ bổn phận hàng ngày?
2) Không được viện cớ thoái thác.
Thiên Chúa kêu gọi mọi người làm tông đồ. Cầu nguyện là phương thế cần thiết và hiệu nghiệm nhất để thực thi sứ mạng ơn gọi này.
Người ta có thể đưa ra nhiều lời bào chữa cho việc đã không mang Đức Kitô đến với tha nhân - nào là thiếu nhiều phương tiện, chưa chuẩn bị tương xứng, không có thời giờ, nào là vì chúng ta đang sống ở xó xỉnh này có quen biết được bao nhiêu người đâu hay vì chúng ta sẽ phải đi thật xa, hay cho dù ngay trong vùng chúng ta đang sống cũng phải đi thật nhiều. Tuy nhiên Thiên Chúa tiếp tục nhắc nhở tất cả chúng ta, và đặc biệt hơn trong thời đại mà người ta quá dửng dưng với tôn giáo này, rằng mùa màng thì nhiều mà thợ gặt lại ít. Hoa màu không thu hoạch kịp sẽ bị hư thối. Những lời vàng ngọc của thánh Gioan Kim khẩu sau đây cũng có thể giúp chúng ta thấy được là trong khi cầu nguyện, chúng ta có quá dễ dàng thoái thác lời kêu gọi cao quý đến nỗi từ chối làm tông đồ theo như thánh ý Chúa. Không có ai lạnh lùng nn tâm hơn một Kitô hữu mà chẳng biết quan tâm đến ơn cứu độ của tha nhân. Anh em không được dùng sự nghèo khổ mà biện bạch. Bà góa dâng cúng vào đền thờ vài xu kia sẽ tố cáo bạn cho mà xem. Chính thánh Phêrô cũng nói: "Vàng bạc thì Ta chẳng có" (Cv 3,6). Còn Thánh Phaolô còn nghèo đến độ lắm phen phải chịu cảnh đói khát thiếu thốn mọi phương tiện cần thiết để sống, Đừng viện cớ hoàn cảnh khiêm hạ bình dân để biện minh chữa mình. Các Ngài cũng xuất thân từ đám người khiêm hạ nhất đấy thôi. Cũng đừng phân trần kêu ca mình thiếu kiến thức này kia. Các Ngài cũng mù chữ thất học cả đấy. Dù có là nô lệ tôi đòi, hay là khách kiều cư di dân lập nghiệp, anh em phải làm tất cả những gì có thể làm. Ônêsimô trước vẫn thế, và hãy khôn ngoan trong ơn gọi của mình... Đừng kêu ca ốm đau bệnh hoạn để biện minh chữa mình. Timôthê cũng thường xuyên đau ốm đấy thôi... Mỗi người trong chúng ta đều có thể có ích cho những người chung quanh nếu như chúng ta làm tất cả những gì chúng ta có thể làm. Chúng ta muốn trung tín với Thiên Chúa. Chúng ta sẽ mãi tín trung với Ngài nếu chúng ta làm tất cả những gì chúng ta có thể.
Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Thánh Gregoriô chú giải thế này: Khi nghe câu này, chúng ta không thể không cảm thấy buồn, vì chúng ta biết rằng có nhiều người muốn nghe Tin mừng, nhưng cái đang thiếu là thiếu những người đi loan báo cho những tin vui này.
Vì thế để có nhiều người vai kề vai, mỗi một người trong vị trí riêng của mình, cùng nhau làm việc trên thế giới này, chúng ta chỉ có một cách là đi theo con đường chính Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta: Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về (Mt 9,37). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cầu xin Thiên Chúa đánh thức ước muốn, trong nhiều tâm hồn, được góp phần to lớn hơn vào công cuộc cứu độ. Cầu nguyện là những phương tiện hiệu quả nhất để thu phục những tông đồ mới và giúp con người khám phá ra ơn gọi của mình. Trong kinh nguyện dâng lên Thiên Chúa, ước muốn có thêm những tông đồ phải được chúng ta bộc bạch với Ngài trước mọi điều khác: nài xin khiêm tốn, tín thác và liên lỉ. Tất cả mọi Kitô hữu cần cầu xin Thiên Chúa sai thợ ra gặt lúa về. Nếu chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban nhiều ơn gọi, thì chính chúng ta sẽ cảm thấy thôi thúc hơn, bạo dạn hơn trong công tác tông đồ của chúng ta, vì thế cũng có thể thu hút thêm nhiều thợ gặt mới cho vụ mùa.
3) Cầu xin Thiên Chúa ban nhiều ơn gọi
Bằng cách sai các môn đệ đi trước, Chúa Giêsu đã chuẩn bị xa cho những chuyến đi của Người tới những làng mạc thị thành khác. Công việc ấy mới chỉ là chuẩn bị nhưng cũng là công tác tông đồ cả đấy. Các tông đồ đã đi vào các làng mạc nơi chính Chúa Giêsu sẽ đến. Mọi công tác tông đồ chẳng qua đều là nhắm đến mục tiêu chuẩn bị cho người ta đón nhận Thiên Chúa đến với họ.
Lúa chín vẫn cứ nhiều... chúng ta cứ phải tiếp tục cầu xin Thiên Chúa đánh thức tâm hồn mọi Kitô hữu nam cũng như nữ để họ nhận ra được ý nghĩa ơn gọi trong cuộc đời mình. Họ sẽ nhận thức rằng mình không chỉ muốn sống lương thiện tốt lành, mà còn phải tập tành làm thợ gặt trong cánh đồng của Thiên Chúa, mỗi khi quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu. Nam hay nữ, trẻ hay già đều sống tận hiến cho Thiên Chúa trên đời này; nhiều người độc thân làm tông đồ; cả những Kitô hữu bình thường, trong khi cùng sinh hoạt với mọi người trong xã hội, lại là những người mang Đức Kitô vào tận giữa lòng cuộc đời này.
Hãy cầu xin chủ mùa gặt... chúng ta cũng phải cầu xin cho có nhiều ơn gọi linh mục và tu sĩ, những ơn gọi đầy hân hoan thánh thiện và trung tín, những ơn gọi rất đỗi cần thiết cho Hội Thánh.
Chúa Giêsu, một mình Người vẫn có thể thực hiện trọn vẹn ơn cứu độ trên thế gian này, nhưng lại muốn cậy dựa vào các môn đệ đi trước mình vào các làng mạc thị thành, và nay là các đại học, các công trường nhà máy, để loan báo những kỳ công, dấu lạ, điềm thiêng và những yêu sách đòi hỏi của Vương quốc Thiên Chúa đang ngự đến. Rõ ràng là Hội Thánh Mẹ chúng ta đang cần những người dấn thân vào con đường tận hiến thánh thiện này. Các Đức giáo hoàng Rôma đã không ngừng nhắc nhở chúng ta nhớ đến nhu cầu khẩn thiết cần có những ơn gọi làm tông đồ, vì công cuộc phúc âm hóa thế giới này đang nằm trong tay những ơn gợi ấy.
Hãy cùng tôi kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu, các linh hồn!... các tâm hồn tông đồ! Ho thuộc về Chúa, họ sống cho Chúa, cho Vinh Danh Chúa”. Cuối cùng anh em sẽ thấy Ngài sẽ nhậm lời chúng ta.
Phần tôi, tôi đang làm gì để thu nhận những ơn gọi này? Những ơn gọi này sẽ xuất hiện giữa con cái, anh em, chị em, họ hàng, bằng hữu và người quen biết của chúng ta. Chúng ta đừng quên Thiên Chúa muốn gọi nhiều người. Chúng ta hãy xin Ngài ban ơn thúc đẩy và khuyến khích ơn thiên triệu cho những người chúng ta tiếp xúc hằng ngày.
Chúng ta cũng cầu xin Đức Maria giúp chúng ta lắng nghe nghiêm túc Lời Chúa hôm nay và quyết tâm làm tất cả những gì chúng ta có thể, với ý thức khẩn trương và liên tục nhờ vậy để chúng ta sẽ được thấy nhiều thợ gặt đến làm việc trong cánh đồng Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Ngài ban cho mình niềm vui được làm dụng cụ cho Chúa Giêsu mời gọi người khác. "Tin vui đây: một "gã khùng” khác sắp vào nhà thương điên đây... Và tất cả mọi chuyện đều trở nên hồ hởi phấn khởi qua lời lẽ của anh thuyền chài nọ... Xin Thiên Chúa làm cho những mẻ lưới của anh em đầy tràn."
Thiên Chúa không bao giờ quên được ‘anh chàng thuyền chài’ đó đâu.
35.Sứ mệnh của Nhóm Mười Hai
(Trích trong “Chú giải Phúc Âm Chúa Nhật của Giáo Hoàng Piô X Học Viện”)
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Chủ đề “quyền bính" (quyền năng) có được nhắc lại trong đoạn văn này không?
2. Con số 12 ở đây có ý nghĩa gì đặc biệt?
3. Hình ảnh đoàn chiên không người chăn và hình ảnh mùa gặt có phải là do Chúa Giê-su tạo ra không?
4. Phải hiểu thế nào lời Chúa Giêsu ra lệnh cho các sứ đồ đừng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại?
5. Trong Mt, sau Diễn từ về sứ mệnh, ta có thật chứng kiến một chuyến truyền giáo của nhóm 12, như trong Mc và Lc không? Tại sao?
***
1. Với đoạn văn hôm nay, ta vượt qua một giai đoạn quan trọng trong tình thuật Mt. Theo bố cục căn bản của Tin Mừng này, ta đang đến bài huấn thị dài thứ hai của Chúa Giêsu trong bài huấn thị làm thành 5 mốc chủ yếu của Tin Mừng. Sau khi mô tả sự “công chính" mới hay sự trung tín của Nước Trời (ch. 5- 7), và trước khi diễn tả mầu nhiệm" của nó trong các dụ ngôn ở chương 13, tác giả giới thiệu các truyền lệnh sứ của Nước ấy với các huấn thị mà họ nhận được từ Chúa Giêsu. Tất cả đều nằm trong quan niệm sư phạm và thần học của Mt. Ta dễ dàng ghi nhận mối liên hệ về văn chương cũng như về tư tưởng giữa bản văn với những gì đi trước: Nếu các chương 5 đến 7, với phần trình thuật bổ túc là các chương 8 và 9, bị chi phối bởi ý tưởng Chúa Giê-su có quyền bính trong việc giải thích Lề luật và trong mối liên hệ với giáo quyền (Biệt phái) cũng như quỷ thần (bệnh tật) của thời Người và của dân Người, thì phần này lại trình bày cho thấy quyền năng đó đã được Chúa Giêsu ban (10, 1) cho sứ đồ Ngài.
2. Thật là đầy ý nghĩa khi Simon được nêu danh trước mọi sứ đồ khác với cái tên thứ hai là Phêrô. Nhưng lâu về sau, Mt mới ghi lại các hoàn cảnh của việc ông nhận tên ấy (16, 18). Đây là một bản danh sách chính thức trong đó tên thứ hai của Simon được ghi vào. Tiếp theo ông, người ta nêu danh hai nhóm anh em (câu chuyện kêu gọi họ đã được ghi lại trên kia, 4, 18- 22), những kẻ mà thời đầu Giáo Hội chắc đã coi như là những người được hiệu triệu trước tiên. Còn các tên khác, Tin Mừng chỉ nêu ra chi tiết về hai người: Matthêô (Lêvi) nhân viên thu thuế, kẻ được gọi khi đang hành nghề (9,9), và Giuđa, tên phản bội. Tin Mừng thứ tư ghi thêm vài chi tiết liên hệ đến ông Philipphê, Batôlômêô và Tôma nữa (Ga 1 , 43- 51; 6, 5-7; 14, 8- 10). Nhưng từng ấy không đáng kể tí nào. Nên chẳng lạ gì khi thấy về sau người ta đã thêu dệt thêm các dữ kiện ít ỏi đó hầu lắp đầy những lỗ trống lớn của bản văn Tin Mừng. Nhưng tác giả bản văn ta đang nghiên cứu đã không tìm cách thỏa óc hiếu kỳ hay các loại tình cảm đạo đức; ông chỉ muốn mọi cái đều tập trung vào điểm thiết yếu: Chúa Giêsu, Đấng Mê-si-a. Ngay cả những kẻ được trao phận vụ tối thượng là làm sứ đồ cũng chỉ có giá trị nhờ Người, với Người và trong Người mà thôi.
3. Tuy thế, việc đơn giản nêu danh cũng cho ta một vài nhận xét, đặc biệt về thành phần cấu tạo của nhóm Sứ đồ. Có các tên Hy lạp và Do thái cho thấy mấy ông thuộc nhiều miền khác nhau trong xứ Palestin; vài ngư phủ chất phác đứng bên cạnh một đảng viên đảng cấp tiến tên là Nhiệt Thành (Simon nhiệt.Thành); rồi có môn đồ của Gioan Tẩy giả nữa (Giacôbê và Gioan.). Tóm lại, nhóm thật mang nhiều sắc thái. Rõ ràng là Chúa Giê-su không tìm cách quy tụ quanh mình các phần tử dễ tính và học thức, cũng chẳng muốn liên kết với những kẻ nịnh bợ xu thời. Người phải khổ sở vất vả với họ và hình như đã chẳng thâu lượm mất kết quả khả quan. Tuy nhiên, ngày họ thực sự hoán cải và lãnh nhận Thánh Thần, họ đã biến thành những nhân chứng sẵn sàng đổ máu, và trở nên cột trụ nền tảng của tòa nhà Giáo Hội.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Thấy dân chúng, Người chạnh lòng thương họ": khởi điểm sứ mệnh tạm thời của nhóm 12 và khởi điểm toàn thể sứ mệnh của Giáo Hội là lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu ... Đây là một thứ tình cảm sâu đậm (chữ Hy lạp gợi lên hình ảnh tâm thần xao xuyến) mà Cựu ước đã gán cho chính Thiên Chúa (Xh 34, 6; Tv 103, 8- 13; Tv 103, 8- 13; Hs 2, 2- 3; Gr 31, 20; Is 54, 7) và các Tin Mừng dành riêng cho Chúa Giêsu (Mt 14, 14; 15, 32; 20, 34; Mc 6, 34; 8, 2; 9, 22; Lc 7, 13) hay cho các nhân vật dụ ngôn tượng trưng Người hay Thiên Chúa (Lc 15, 20; Mt 18, 27; x. Lc 10, 35).
"Vì họ bơ phờ vất vưởng như chiên không người chăn giữ” ở đây điều làm Chúa Giêsu âu yếm xót thương là tình cảnh quẫn bách của những đoàn lũ "bơ phờ", "yếu liệt", "nằm sòng sãi ", như một đàn chiên không có chủ chăn. Hình ảnh thôn dã này mượn từ Cựu ước, mà bản văn gần giống nhất là Ds 27, 16-17: Môien thưa với Giavê rằng: Lạy Giavê, xin Ngài đặt một ai đó trên cộng đoàn, để ra trước chúng và vào trước chúng để đem chúng ra và đem chúng vào, hầu cộng đoàn của Giavê khỏi như chiên không người chăn giữ ". Đàn chiên của Thiên Chúa, trong suốt giòng lịch sử, đã từng bị những tên lái buôn "bóc lột và phân tán” (Dcr 11, 7. 11; x. 1 V 22, 17; Gr 23, 1- 2; 50, 6; Ed 34, 1- 10; Is 56, 11); và bây giờ vẫn còn những kẻ hướng đạo đui mù (Mt 15, 14; 23, 16. 24) dùng môn học thuyết sai lạc của họ (16, 12) làm lạc hướng đàn chiên, vẫn còn những hạng chăn thuê vô liêm sỉ làm chiên tan tác (Ga 10, 12tt). Vì thế Chúa Giêsu, chủ chăn vương giả mà Edêkien laon báo (34, 23tt), mục tử tuẫn nạn mà Dacaria đệ nhị đã thoáng thấy mơ hồ (13, 7 = Mt 26, 31), sắp ủy thác cho nhóm 12 trách vụ quy tụ đàn chiên từ mọi chuồng chiên khác (Ga 10, 16) như ngày xưa Môisen đã ủy thác dân cho môn đồ mình là Giosuê chăm nom (Ds 27,17). Đây thật là một vinh dự lớn lao và cũng là một trách nhiệm nặng nề cho nhóm 12 môn đồ của Môisen mới…
"Mùa màng nhiều, thợ gặt ít”: Mùa gặt là một hình ảnh cổ điển Cựu ước thường dùng để chỉ cuộc Chung thẩm của Thiên Chúa (Is 27, 12; Ge 4, 13 v.v...). Trong. Tân ước mùa gặt này thường phân làm hai, gồm giai đoạn đầu được đánh dấu bởi thời gian của Chúa Giê-su và của Giáo Hội và giai đoạn hay lịch sử chấm dứt, lúc Con Người sẽ thu lúa vào lẫm (Mt 13, 30) và đốt cỏ lùng (13, 30. 41tt): đó sẽ là mùa gặt sau hết (Mc 4, 29; Kh 14, 14tt), là “ngày tận thế" (Mt 13, 39), ngày chung thẩm (25, 31- 46) và bấy giờ thợ gặt sẽ là chính Chúa Ki-tô với các thiên thần của Người (13, 39; x. Kh 14, 14- 19). Nhưng trong khi chờ đợi ngày tận cùng đó, thì kể từ cuộc giáng lâm lần thứ nhất của Chúa Kitô, rõ ràng phải cần một vụ gặt qua sự kiện là đã có sự phân biệt giữa hạt giống tốt và xấu, khi Tin Mừng đòi buộc con người phải tuyên bố theo hay chống Chúa Ki-tô (Mt 10, 13- 16. 40; Ga 3, 18tt). Đấy là công việc chuẩn bị trong đó Chúa Giêsu đã đóng vai trò gieo giống (Mt 13, 1- 8ss; 13, 37; Ga 4, 36tt), còn nhóm 12 sẽ là những người thu hoạch.
Chính mùa gặt tiên trưng này là mùa mà nhóm 12, khi thụ hưởng các thành công đầu tiên của Chúa Giêsu, thấy mình được Người ủy thác cho tại Galilê, và chính về nó mà ta có thể áp dụng trước tiên câu nói của Chúa Giêsu trong Gioan: "Thầy đã sai các con đi gặt nơi các con đã không vất vả làm ra: có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các con chỉ đến thừa hưởng công lao của họ" (Ga 4, 38). Tuy nhiên sứ vụ ở Galilê chỉ là mào đầu và là hình ảnh của những mùa lúa chín vàng (Ga 4, 35) và phì nhiêu (Mt 9, 37) mà các sứ đồ cùng bao thợ khác của Tin Mừng, thừa hưởng công lao khó nhọc và hoa quả của hy tế Chúa Giêsu (x. Ga 4, 6; 12, 24), sẽ thu vào lẫm (so sánh Ga 4, 37tt và Cv 8, 15tt) từ ngày Hiện xuống.
“Chữa mọi tật nguyền bệnh hoạn": Ở đây Mt dùng lại cùng những hạn từ đã sử dụng để nói lên quyền năng tràn đầy mà chính Chúa Giêsu đã được trao ban (9, 35); qua cách đó ông cho thấy các sứ đồ hoàn toàn in hệt Người và họ phải trở nên như cánh tay nối dài của Người vậy. Họ sẽ hoàn tất các công thành giống như của Người và sẽ củng cố lời rao giảng của họ bằng cách làm phép lạ. Uy quyền của Chúa Giêsu được chuyển qua cho môn đồ của Người vậy.
"Mười hai sứ đồ ": Đây là lần duy nhất Mt dùng thành ngữ này; nơi khác, ngoài thành ngữ "nhóm 12" (10, 5; 20, 17; 26, 14. 20. 47), ông sẽ viết "12 môn đồ " (10, 1; 11, 1; x. 28, 16) hay các môn đồ " (13, 10; 14, 15; 26, 8. 56 v.v. ..), vì hơn Mc và Lc, Tin Mừng thứ nhất ưa lẫn lộn môn đồ và sứ đồ với nhau. Kiểu nói bất thường của đoạn văn chúng ta sử dụng chữ "sứ đồ" theo chính xác được dùng trong Giáo Hội sơ khai để chỉ nhóm 12 và một vài nhân chứng chính thức khác của việc Chúa phục sinh.
“Đừng lên đường đến các dân ngoại": Mấy chữ này rõ ràng là kiểu nói cổ xưa (như kiểu nói "thành của người Samari" để chỉ tỉnh Samari), có căn ngữ Aram (kết quả nghiên cứu Schurmann, Cerfàux) cũng chắc chắn phát xuất từ một nguồn trước Mt; và bởi thế ta hiểu được rằng Mc và Lc đã dùng đến vì nể các độc giả lương dân của họ. May thay còn lại các chữ đó, vì chúng là bằng chứng cho thấy các Ki-tô hữu đầu tiên đã xem việc truyền giáo ở Galilê là một sự kiện lịch sử, đáng ghi nhớ. Ông không xem đó như là lời phát biểu một nguyên tắc ngàn đời của việc truyền giáo, vì như vậy mâu thuẫn với mệnh lệnh sau cùng mà ông có ghi lại: các con hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân" (28, 19), nhưng xem như là lời diễn tả một kế hoạch tạm thời, mà tất cả thái độ của Chúa Giêsu đã làm chứng cho thấy, một kế hoạch mà theo đó Tin Mừng phải được dành riêng cho "con cái của Vương quốc” (8, 12) Trong một thời gian đầu, nghĩa là cho đến cuộc chiến thắng phục sinh, cái biến cố sẽ tạo nên khí cụ cứu rỗi cho tất cả mọi người, tạo nên chủ đề chính yếu của lời rao giảng và khởi điểm của việc rao giảng khắp vũ hoàn. Mt đã nghĩ rằng độc giả của ông đủ thông minh để phân biệt, trong mớ tài liệu sưu tập của chương 10, cái gì đã chỉ có giá trị đối với việc truyền giáo ở Galilê và cái gì áp dụng được cho mọi thời đại của Giáo Hội.
“Hãy loan báo ... hãy chữa lành”: Việc rao giảng của Chúa Giêsu và của các sứ đồ ở Galilê đã quy hướng cái nhìn của Israel về sự can thiệp dứt khoát cận kề của Thiên Chúa, được hứa thực hiện trong thời sau hết (Is 52, 7; Dcr 14, 9; Đn 2, 44 v.v...). Và các phép lạ cùng các việc trừ quỷ của Chúa Giêsu, đi đôi với lời người rao giảng (Mt 4, 23; 9, 35; Lc 9, 11...) làm nên khởi nguyên (Mt 12, 28; Lc 17, 20) cũng như dấu chỉ của Vương quyền cứu độ này của Thiên Chúa. Đó cũng là vai trò của các phép lạ và việc trừ quỷ do nhóm 12 thực hiện. Ngoài ra Mt còn ghi thêm lệnh phục sinh kẻ chết và tẩy sạch người phung hủi; như thế ông đã đưa ra được bản liệt kê các dấu chỉ thiên sai, cảm hứng từ Is, gần giống với bản liệt kê trong câu Chúa Giêsu trả lời cho Gioan Tẩy giả (11, 4).
Sau này, các sứ đồ sẽ tiếp tục rao giảng Nước Trời (Cv 19, 8; 20, 25; 28, 23. 31), nhưng sẽ thêm vào đó (Cv 8, 12) tên của Đấng đã chết để giải thoát ta khỏi ách kìm kẹp của Satan, tội lỗi và sự chết, đã được tôn phong làm Chúa trên trời (Cv 2, 30- 36; Pl 2, 11; Kh 19, 16) và sẽ trở lại hoàn thành Vương quốc (1Cr 15, 20- 28. 50; Cv 3, 21…). Để củng cố lời rao giảng Tin Mừng (Mc 16, 15- 18; Cv 4, 29tt), họ sẽ tiếp tục chữa lành bệnh tật (Cv 3, 1- 10; 5, 15tt; 8, 7; 9, 32- 35; 19, 12), phục sinh kẻ chết (Cv 9, 36- 42; 20, 7- 12), xua trừ ma quỷ (Cv 8, 7; 16, 16) và tỏ ra bất vụ lợi hoàn toàn (1Tx 2, 2- 12; Cv 8, 19tt). Tiếp tục trách vụ của họ, Giáo Hội truyền giáo sẽ không thể tách rời việc rao giảng Tin Mừng với các hoạt động bác ái vô vụ lợi, vì cả hai đều ban phát cho mọi người ơn cứu độ hoàn toàn Chúa Giêsu đã đạt được.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đã động lòng xót thương đàn chiên bơ vơ lạc lõng trước mặt Người cũng như các con chiên bơ vơ Người thoáng thấy trong muôn thế hệ về sau. Trước khi hiến thân để chỉ con "một đàn chiên, một chủ chiên" (Ga 10, 16), Người đã chọn và sai nhóm 12, thủ lãnh của một dòng dõi những kẻ phục vụ Tin Mừng, để họ rao giảng Tin Mừng, xua đuổi Tà thần, chữa lành bệnh tật, nghĩa là ban phát cho toàn thể con người ơn cứu độ mà Người đã tạo được nhờ lao nhọc gieo vãi và cứu chuộc Giáo Hội, thành thánh đặt cơ sở trên 12 móng, mỗi móng mang tên của một trong 12 sứ đồ của Con Chiên (Kh 21,14), có trách vụ tiếp tục cho đến tận thế sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và ân cần chăm sóc hết những ai đau khổ. Nhưng vì thợ gặt ít, nên Chúa Giêsu xin ta cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy sai thợ gặt đồng lúa của Ngài !
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Khi hạn định sứ mạng của mình trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu đã tuân theo một trật tự, một tiến trình cứu rỗi đã được tiên liệu chiếu theo quyết định của Thiên Chúa: bắt đầu từ dân Do thái đi đến dân ngoại. Người đã hiểu sứ mệnh mình như thế và đã nghiêm túc tuân theo. Có lẽ Người đã đau khổ vì sự hạn chế này. Sự vâng phục này nằm trong sự từ bỏ sâu xa và hoàn toàn của Con Thiên Chúa, mà nhờ đó la được cứu chuộc. Giữa bao lao nhọc truyền giáo và mục vụ, ta chớ bao giờ quên rằng: điều quan trọng không phải là số lượng công việc đã làm, đường xa đã đi, số người đã ảnh hường, tính cách bao la của công trình, nhưng là thi hành thánh ý Thiên Chúa trong các giới hạn mà thánh ý Ngài đã ấn định.
2. Thiên Chúa đã muốn cần đến con người để tiếp nối hành động Ngài trong thế gian. Ngài có thể bất cần sự hợp tác đó thế nhưng Ngài đã muốn cho con người tham dự vào cuộc tạo dựng thứ hai (việc rao giảng Tin Mừng làm lại con người một cách khác từ cái chết do tội) sau khi đã kết nạp họ vào cuộc tạo dựng thứ nhất ("Hãy nên đầy dấy trên đất và hãy bá chủ nó ", St 1, 28).
3. Những kẻ Thiên Chúa gọi, thì Ngài gọi cách tự do, chứ không chiếu theo danh nghĩa đặc biệt nào (giai cấp xã hội, quốc tịch, chính kiến, thông minh...). Tuy nhiên Ngài ưa tiên lưu tâm đến những người đơn sơ chất phác, nghèo hèn, ít học... Điều Ngài đòi hỏi là sự cởi mở, quảng đại, sẵn sàng. Nếu có các đức tính đó, Ngài có thể làm những việc kỳ diệu, dù họ vẫn còn nhiều khuyết điểm và yếu đuối của con người.
4. Lòng thương xót trắc ẩn của Chúa Kitô thúc bách Người lắng lo cho các chiên không chủ chăn thời đó. Ngày nay phải chăng đã đổi hoàn cảnh? Không! Đọc bất cứ tờ báo nào, nghe bất cứ đài phát thanh nào, ta đều chứng kiến bao cảnh biểu lộ sự bối rối hay thất vọng trước nỗi khó khăn, phi lý của cuộc đời. Nhìn đám đông trong thành phố, dưới vỉa hè hay trên xe cộ, hình như ta cũng có cùng cảm thức như Chúa Giêsu khi đứng trước đám người Do thái ở Galilê. Đôi lúc chính các Ki-tô hữu ngày nay không còn biết tin tưởng vào ai, theo vị thầy nào. Chúa Kitô sai Kitô hữu đến thế gian để tiếp nối sứ vụ chủ chiên nhân lành của Người bên cạnh con người thế kỷ XX.
5. Vào mỗi thời kỳ khó khăn hay chuyển hướng của lịch sử Giáo Hội, thì chủ mùa gặt, để đáp lại lời cầu xin của biết bao người hèn mọn, yếu đuối, vô danh, đã luôn làm chỗi dậy nam nữ sứ đồ. Những kẻ này xuất hiện như là những vị giảng đạo của thời đại, những chứng nhân cho một Vương quốc duy nhất có thể biểu lộ sức mạnh của mình bằng nhiều cách. Nhưng chỉ nhờ lời cầu nguyện mới có các chứng nhân đó.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam