Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 60

Tổng truy cập: 1360734

LAO LỘNG THEO Ý CHÚA ĐỂ XÂY DỰNG VÀ GÌN GIỮ GIA ĐÌNH NHÂN LOẠI LUÔN HẠNH PHÚC

LAO LỘNG THEO Ý CHÚA ĐỂ XÂY DỰNG VÀ GÌN GIỮ GIA ĐÌNH NHÂN LOẠI LUÔN HẠNH PHÚC

 

Bài Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn và cũng là một ám ngôn, vì vừa hình dung vừa diễn tả sự thật, vừa có tính cách lịch sử vừa có tính cách tiên tri. Vườn nho ám chỉ Nước Chúa, được trao cho dân Do Thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo đứng đầu trong dân Do thái. Các đầy tớ là các ngôn sứ được Thiên Chúa phái đến đều bị ngược đãi hoặc giết chết. Câu chuyện vườn nho hôm nay không chỉ nói với người Do Thái mà còn nói với tất cả chúng ta. Mỗi người chúng là những cây nho được Chúa ưu ái trồng trong vườn nho của Chúa. Vườn nho đó là Nước Chúa, là Giáo Hội, là giáo xứ, Giáo phận và gia đình của chúng ta. Chúa đặt lương tâm như tháp canh, rào giậu để cảnh báo tội lỗi có nguy cơ đe dọa tàn phá vườn nho, để ngăn chặn tội lỗi tàn phá đời sống thân xác và tâm hồn chúng ta. Rào giậu, tháp canh đó là những điều luật của Chúa và của Hội Thánh. Qủa thế, Lời Chúa và các điều luật của Hội Thánh dạy không chỉ để giúp bảo vệ cuộc đời của chúng ta được bình an, thánh thiện và hạnh phúc mà còn làm phát sinh hoa thơm trái tốt đẹp cho đời và Giáo Hội là các nhân đức và công việc làm ăn chân chính. Vì vậy, các bài Lời Chúa hôm nay tập trung kêu gọi chúng ta hãy ra công lao động theo thánh ý Chúa và Lời Ngài qua nhiều công đoạn, nhiều thời mới trở nên những người hữu ích cho gia đình nhân loại và Nước Chúa. Cho nên, mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho là gia đình, Giáo xứ, Giáo phận hay xã hội, chúng ta có bổn phận phải làm sáng danh Chúa và mưu ích cho tha nhân.

Cụ thể, Lời Chúa trong bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia kể về một người bạn thân của Ngài có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho hầu mong mai sau đem lại một mùa bội thu sinh ích cho anh và mọi người. Rồi, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói: “Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giêsu”. Như vậy, Lời Chúa nói rõ rằng những ơn phúc Chúa ban: tài năng tinh thần, những của cải vật chất, sức khoẻ, lòng đạo đức, các kinh nguyện… chúng ta phải biết sử dụng chúng để sinh lợi vật chất và đức tin trong tinh thần của Chúa Giêsu và Lời Ngài. Mỗi người được Chúa trao ban cho một vốn liếng khác nhau về nơi chốn, thời gian, khả năng, cơ hội, trí thông minh, sức khoẻ… không ai giống ai cả, nhưng ai cũng phải làm lợi ra với số vốn liếng Chúa ban theo ý Chúa và Lời Ngài chỉ bảo chứ không phải theo ý mình đề rồi như các người tá điền kia đã không chịu làm ăn mà còn không có lương tâm, vô đạo đức nên họ đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ… chỉ vì muốn thu lợi cho mình một cách bất chính.

Đời sống và sự phát triển của con người gắn chặt với lao động. Đúng thế, lao động làm cho đời sống có ý nghĩa bởi lẽ lao động vừa giúp người ta được tồn tại, mà còn là sự tiếp nhận thành quả và chuyển đạt hạnh phúc cho đời sau. Cho nên, lao động là để tạo hạnh phúc và giữ gìn hạnh phúc, lao động là để phục vụ và giúp đỡ người khác và lao động là để cộng tác với chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Vì vậy việc lười biếng, thích hưởng thụ, lao động bất chính là việc đi ngược và cản bước tiến của tiến trình phát triển của nhân cách, của xã hội đồng thời không làm theo đúng ý Chúa, gây tội lỗi cho con người.

Lời Chúa trong Sách Sáng Thế kể: “Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eđen để con người canh tác và coi sóc đất đai” (St 2,5). Vườn Eden, địa đàng, là hình ảnh của hạnh phúc mà Thiên Chúa đã tạo dựng sẵn cho con người. Con người hưởng được hạnh phúc ấy bằng cách phải canh tác, nghĩa là phải làm việc để tạo ra hạnh phúc. Không chỉ vậy, con người phải biết “canh giữ vườn”, đồng nghĩa với việc giữ gìn hạnh phúc bằng việc vâng nghe Lời Chúa thì mới tồn tại và tiếp tục được hưởng phúc. Cho nên, lao động trong tinh thần tuân giữ Lời Chúa thì mới tạo ra hạnh phúc. Vì thế, đại văn hào Voltaire nói: “Lao động xua đuổi ba sự xấu xa kinh khủng nỗi buồn chán, thói trụy lạc và sự nghèo túng”. Còn ông bà ta nói: “nhàn cư vi bất thiện”. Vì thế, người có việc gì đó để làm là người hạnh phúc nhất như ai đó đã nói: “Người hạnh phúc là người có việc gì đó để làm, ai đó để yêu thương và điều gì đó để hy vọng.” Còn đối với người công Giáo chúng ta, trong tinh thần của Chúa Đức Kitô, làm việc để phục vụ và giúp đỡ người khác là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta vì chưng Thánh Phaolô dạy: “Phải giúp đỡ người khác bằng cách làm lụng vất vả và phải nhớ lời Chúa Giêsu dạy: cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,33-35). Như vậy chúng ta làm việc không chỉ là bổn phận và  trách nhiệm mà còn là mối phúc của chúng ta nữa, đúng như Lời Chúa Giêsu nói: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa (Mt 5,9). Như vậy, dưới ánh sáng đức tin, khi lao động, con người được Thiên Chúa mời gọi cộng tác để kiện toàn công trình tạo dựng; đồng thời thực thi được ý muốn của Thiên Chúa qua lao động. Nói cách khác, con người được dựng nên để đồng sáng tạo với Thiên Chúa. Cho nên, Công đồng Vatican II cũng xác định: “Khi cấy cầy với hai bàn tay hoặc với phương tiện kỹ thuật để trái đất nảy sinh hoa quả và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của toàn thể gia đình nhân loại con người đã tuân theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày ngay từ thủơ ban đầu, là loài người phải chế ngự trái đất và hoàn tất công trình sáng tạo”.

Qua dụ ngôn ông chủ và các tá điền trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu muốn chúng ta cộng tác với Người tuỳ theo những nén bạc Chúa trao vì vậy mỗi người phải ra công làm việc để để sinh lời cho Nước Chúa là Giáo hôi, gia đình hay xã hội chúng ta. Noi gương Chúa Giêsu, Đấng làm việc liên liên lỉ theo thánh ý Chúa Cha (Ga 5,17), đem lại ơn cứu độ cho con người, chúng ta, những người Kitô hữu, cũng ra công làm việc để mưu cầu hạnh phúc, giúp đỡ chia sẻ với người khác và thực thi thánh ý Thiên Chúa.  Mỗi người, tuỳ theo hoàn cảnh, địa vị và ơn ban riêng Chúa ban, phải làm việc và sinh ích lợi cho mọi người. Bậc làm cha mẹ thì lo làm tròn bổn phận của người làm cha làm mẹ, giữ gìn gia đình hạnh phúc. Kẻ làm con cái lo sao chữ đạo hiếu cho tròn. Người sống đời dâng hiến làm việc bằng cách tuân giữ kỷ luật tu trì và rao giảng Tin Mừng cứu độ hầu mưu ích cho các linh hồn và sáng danh Chúa.

Vậy ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa ban cho chúng ta được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng ta trong đời sống thường ngày dù’ nhỏ hay lớn đều nêu cao tinh thần tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận sinh lợi cho Nước Chúa là làm sao cho Tin Mừng được mọi người biết đến, yêu thích và sống theo để mọi người cùng nhau xây dựng đức tin và hạnh phúc ngay đời này và đời sau. Amen.

 

16. Sống bằng tình yêu

Anh chị em thân mến.

Trong câu chuyện lịch sử “Chiếc nỏ thần”, để lại một dấu ấn trong cuộc sống của dân tộc Việt Nam.

Thục Phán An Dương Vương được Thần Kim Quy tặng cho chiếc nỏ có sức công phá cực kỳ, không ai có thể chống lại được. Nhờ chiếc nỏ mà trong nước được an bình.

Ông có cô con gái tên Mỵ Châu, được chàng Trọng Thuỷ con của Triệu Đà thuộc nước lân bang đến cưới. Mọi việc hết sức tốt đẹp, mối duyên của đôi trẻ ngày càng nồng ấm.

Một hôm Trọng Thuỷ xin về thăm cha của mình. Ít ngày sau thì chiến tranh kéo đến. Nhìn thấy đoàn quân đến từ xa, An Dương Vương không lo lắng gì, ông mỉm cười tự tin, vì đã có chiếc nỏ thần trong tay. Giặc càng ngày càng gần, đến lúc cần thiết, ông mới dùng đến nỏ thần. Nhưng bất ngờ thay, chiếc nỏ không còn công hiệu như xưa, đội quân của ông không phòng thủ nỗi với sức tấn công dũng mạnh của quân thù. Oâng cùng với cô con gái thân yêu tìm đường thoát thân. Nhưng càng chạy thì nghe tiếng của địch quân ngày càng gần. Nhìn lại thì ông thấy chính đứa con mà ông yêu thương nhất lại là người làm ông thất vọng nhất. Chính cô đã để lại dấu hiệu trên đường cho giặc đuổi theo. Oâng cũng hiểu ra: chính vì đứa con mà ông yêu thương, nên kẻ thù mới lợi dụng tình yêu thương đó, cưới con ông và tráo đỗi nỏ thần, khiến cho ông phải đi vào chỗ chết. Ông yêu thương con gái mình, nên cũng rất mực yêu thương chàng rể. Nhưng những gì mà ông yêu thương đã phản bội lại ông, làm cho ông phải chết. Nếu như ông có quyền trở lại ông sẽ đối xử với chàng rể như thế nào?

Khi lòng tham đã lên ngôi, thì tình yêu thương không còn hiệu quả nữa mà bị phản bội. Lòng tham làm cho con người trở nên tàn ác, bất chấp mọi thủ đoạn, miễn làm sao lòng tham đạt được như ý muốn.

Đó là những gì của con người. Nhưng Thiên Chúa không để cho sự ác ngự trị mãi được, sự ác không thể tồn tại, ngay cả trong con người đang làm ác cũng không thể chấp nhận được cái ác.

Những người thời đó không thể chấp nhận được việc làm của những người trong dụ ngôn, hành động không có nhân tính.họ đã quên đi những gì người khác làm cho họ, họ cũng quên đi những gì họ đang có là từ đâu mà đến. Họ càng không muốn nhớ đến thời khó khăn trước đó như thế nào và làm sao mà họ thoát khỏi khó khăn như thế. Giờ đây họ chỉ còn nhìn thấy cái lợi vật chất. Họ tìm cách chiếm đoạt mà không cần biết đến cảm nghĩ của người khác như thế nào, cũng không cần biết đến hậu quả ra sao. Họ không nhìn thấy được tình yêu thương chung quanh họ, thì làm sao họ có thể sống trong tình yêu được.

“Nước Thiên Chúa sẽ lấy khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm trổ sinh hoa lợi”.

Một câu nói mạnh mẽ mà Chúa Giêsu thốt lên để cảnh báo cho những người không biết đến tình nghĩa, không nhìn thấy người khác, cũng không nhận ra được chính mình.

Câu cảnh báo cho người xưa cũng là lời cảnh báo cho những người hôm nay, cho chúng ta. Mỗi người được bao bọc trong tình yêu thương, được Thiên Chúa ưu ái, ban cho một hoàn cảnh sống thật tốt đẹp. Nhưng nhìn lại, chúng ta có biết cảm tạ hồng ân Chúa, hay mỗi ngày chúng ta đòi hỏi nhiều hơn, bất mãn nhiều hơn, toan tính để được nhiều hơn cái không phải là của mình. Càng không chấp nhận được khi những gì là của mình mà bị bắt buộc phải chia cho người khác. Nên nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta giống như những người trong dụ ngôn, muốn loại trừ người khác, ngay cả tiêu diệt người khác bằng mọi cách, để có thể hưởng trọn những gì mình muốn. Những lúc đó chúng ta cũng giống như chàng Trọng Thuỷ vô tâm, đứng trước một tình yêu chân thành nhưng không biết tận hưởng, mà chọn lấy nguồn lợi riêng tư để bước vào con đường chết. Nếu chúng ta nhận ra hồng ân Chúa trong đời sống và biết cảm tạ bằng những gì trong cuộc sống đời thường, để biết chu toàn mà đền đáp hồng ân Chúa thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.

Xin Chúa soi sáng cho mỗi người, để biết nhận ra Chúa là nguồn tình yêu, mà biết sống xứng đáng để đền đáp tình yêu thương của Chúa.

 

17. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông.

Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 27 này, Bài Đọc I trích từ Is 5-1-7 và Tin Mừng trích từ Mt 21: 33-43 cách nhau khoảng tám trăm năm, tuy nhiên cả hai xướng đáp với nhau qua cùng một dụ ngôn vườn nho với cung điệu bi thương.

Is 5: 1-7

Trong một bài thơ trữ tình theo thể hát đối, ngôn sứ I-sai-a ca ngợi vườn nho được ông chủ hết lòng chăm sóc, nhưng vườn nho lại sinh trái nho dại trái với lòng mong ước của ông. Lúc đó, giọng nói của vị ngôn sứ vang lên: vườn nho vô ơn bội nghĩa “chính là dân Ít-ra-en”.

Pl 4: 6-9

Trái với bầu khí bi thương của Bài Đọc I và Tin Mừng, đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê tràn ngập bình an, chan chứa niềm tin tưởng và đầy lòng yêu thương.

Mt 21: 33-43

Tin Mừng thuật lại dụ ngôn về “các tá điền gian ác”. Sau khi đã đối xử tàn ác với các tôi tớ của ông chủ vườn nho, chúng ra tay sát hại cả người con một của ông để mong chiếm đoạt vườn nho.

BÀI ĐỌC I (Is 5: 1-7)

Bài thơ ca ngợi “vườn nho” của ngôn sứ I-sai-a rất nổi tiếng, vì giá trị văn chương của nó. Đây là một bài thơ được trao chuốc rất công phu nói về dân Ít-ra-en là vườn nho của Đức Chúa. Về hình ảnh “Ít-ra-en là vườn nho của Chúa, ngôn sứ I-sai-a đã đón nhận nguồn cảm hứng từ ngôn sứ Hô-sê:

“Ít-ra-en vốn là một cây nho sum sê,

trái trăng thật dồi dào phong phú.

Nhưng trái trăng càng nhiều,

chúng càng  dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng;

đất nước càng giàu sang,

chúng càng làm thêm những cột thần lộng lẫy” (Hs 10: 1)

Hình ảnh “Ít-ra-en là vườn nho của Chúa” nầy được lập đi lập lại nhiều lần trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 32: 32), trong Thánh Vịnh (Tv 80), qua ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr 2: 21; 5: 10; 6: 9; 12: 10), ngôn sứ Êdê-ki-en (Ed 15: 1-8; 19: 10-14), vân vân. Trên môi miệng của Đức Giê-su, hình ảnh này rõ ràng quy chiếu đến bài thơ của I-sai-a (Mt 21: 33-41).

  1. Ngữ cảnh:

Các nhà chú giải có thể ấn định niên biểu của bài thơ về vườn nho nầy vào khoảng năm 737 trước Công Nguyên, nghĩa là vào giai đoạn đầu sứ vụ của ngôn sứ I-sai-a ở Giê-ru-sa-lem trước khi thành thánh bị đạo quân Sy-ri liên minh với đạo quân vương quốc miền Bắc vây hãm.

Những sứ điệp đầu tiên của vị ngôn sứ liên quan đến tội thờ ngẫu tượng của vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en mà thủ đô là Sa-ma-ri. Khi hướng nhìn về vương quốc miền Nam, vương quốc Giu-đa mà thủ đô là Giê-ru-sa-lem, ngôn sứ I-sai-a thất vọng theo cách khác: bất công, áp bức những kẻ nghèo hèn cô thế, bạo lực, máu và nước mắt, giả nhân giả nghĩa, vân vân. Bài thơ về vườn nho của ông là một lời cảnh báo.

Chúng ta có thể hình dung vị ngôn sứ ngâm hay hát bài thơ của ông trên hành lang đền thờ vào dịp lễ hội thu hoạch nho (sau nầy được gọi lễ Lều). Lễ hội nầy kéo dài một tuần lễ. Vào ngày khai mạc và ngày kết thúc, các nghi lễ diễn ra trong khuôn viên đền thánh. Dù thế nào, xứ Pa-lét-tin là miền đất trồng nho, vì thế, bài thơ của vị ngôn sứ chạm đến độ nhạy cảm của một dân trồng nho.

  1. Cấu trúc:

Bài thơ được xây dựng theo cách thức của một bài thi ca trữ tình, nhưng tình phụ bạc. Thiên Chúa là hôn phu và là người trồng nho, còn Ít-ra-en là hôn thê và là cây nho hoặc vườn nho. Trong bài thi ca nầy, hai hình ảnh “người trồng nho và cây nho” và “hôn phu và hôn thê” được đan quyện vào nhau. Đáp lại sự ân cần chăm sóc của người chồng là sự bất trung của người vợ. Người chồng bị tình phụ xin đám đông phân xử. Cũng như trong các bài thi ca trữ tình khác, bài thi ca nầy được sáng tác theo thể hát đối.

Trước hết, vị ngôn sứ, đại diện bạn mình là chủ vườn nho, cất tiếng hát (5: 1-2). Đoạn, đến phiên mình, chủ vườn nho thổ lộ nỗi niềm tâm sự và bừng bừng nổi giận (5: 3-6). Sau cùng, vị ngôn sứ tiếp lời, và chính lúc đó một mặc khải gây choáng váng: ông chủ vườn nho không ai khác chính là Đức Chúa; vườn nho không sinh hoa lợi, chính là Ít-ra-en, dân bất trung sẽ bị trừng phạt vì phụ tình bội nghĩa của nó (5: 7).

  1. Bạn của chủ vườn nho cất tiếng (5: 1-2):

Vị ngôn sứ tự xưng mình là “bạn của chủ vườn nho”, chắc chắn tước hiệu nầy được gợi hứng bởi “bạn của chàng rể” trong những bài ca hôn nhân (tước hiệu mà Gioan Tẩy giả sẽ áp dụng cho mình). Bài thơ mô tả người chồng hết mực trìu mến chăm lo cho người vợ của mình như ông chủ vườn nho ân cần chăm sóc vườn nho của mình, rào giậu chung quanh, trồng giống nho tốt “trên sườn đồi màu mỡ”. Ông chủ cất một vọng gác trong vườn nho nói lên một sự ân cần hết mức của ông dành cho vườn nho của mình: canh giữ vườn nho ngày lẫn đêm, trông chừng những tên hái trộm, những con vật phá hoại …Than ôi, mặc cho những ân cần săn sóc giữ gìn của ông chủ, vườn nho chỉ sinh nho dại!

Đức Giê-su sẽ trích dẫn đúng nguyên văn vài chi tiết của bài thơ trong dụ ngôn của mình về “bọn tá điền gian ác”: “Có một gia chủ kia trồng được vườn nho; chung quanh vườn, ông rào dậu; ông khoét bồn đạp nho, và xây một vọng gác” (Mt 21: 33).

  1. Ông chủ vườn nho thổ lộ tâm sự (5: 3-6):

Đến phiên mình, ông chủ vườn nho thổ lộ tâm can. Ông xin toàn thể dân chúng làm chứng cho những công sức mà ông đã đổ ra cho vườn nho của ông cách vô ích: “Người Giê-ru-sa-lem, và dân Giu-đa hỡi”. Vườn nho vô ơn bội nghĩa sẽ phải đón nhận sự trừng phạt đích đáng. Ông sẽ không còn quan tâm đến vườn nho của mình để mặc cho nó bị giày xéo và trở nên hoang phế, không người chăm sóc và không cho mưa trời tưới xuống. Lối nói ngoa ngữ: “Sẽ truyền lệnh cho mây, đừng để mưa tưới xuống” ở đây để cho thoáng thấy ông chủ vườn nho là một nhân vật đầy quyền năng.

  1. Vị ngôn sứ tiếp lời (5: 7)

Vị ngôn sứ lại cất tiếng hát. Mặc khải của ông được chuẩn bị rất khéo léo. Dân chúng tự kết án mình vì họ không còn cách nào ngoài việc thú nhận mình là vườn nho được Chúa vun trồng chăm sóc hết mực nhưng chỉ sinh những nho dại, vì thế đáng bị trừng phạt.

Phương pháp tâm l‎ý nầy nhắc nhớ phương pháp mà ngôn sứ Na-than đã áp dụng cho vua Đa-vít về tội vua sát hại người tôi trung của mình là ông U-ri và cướp đoạt vợ của ông. Ngôn sứ Na-than cũng xây dựng một dụ ngôn về người giàu có một trăm con chiên mà lại bắt một con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt để đãi khách. Khi vừa nghe xong dụ ngôn, “Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy”. Ngôn sứ Na-than trả lời: “Kẻ đó chính là ngài” (2Sm 12: 1-7). Cũng vậy, ngôn sứ I-sai-a vạch mặt chỉ tên: “Vườn nho của Chúa Tể càn khôn, chính là nhà Ít-ra-en đó. Cây nho Người mến yêu quí chuộng, ấy là dân nước Giu-đa”.

BÀI ĐỌC II (Pl 4: 6-9)

Chúng ta tiếp tục đọc thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân đề nghị một khuôn mẫu sống, theo đó di sản Do thái giáo, mặc khải Ki-tô giáo và lý tưởng Hy-lạp hòa hợp với nhau.

  1. Di sản Do thái giáo:

“Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giải bày trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”. Đây là lời cầu nguyện mang đậm nét lời cầu nguyện Do thái giáo qua việc lập đi lập lại những lời ngợi khen, cảm tạ và tri ân: “Ngợi khen Thiên Chúa…Chúc tụng Thiên Chúa…”, được xen lẫn với những lời khấn nguyện cầu xin Chúa rủ lòng thương. Thánh Phao-lô, trung thành với truyền thống nầy, dễ dàng thích ứng truyền thống nầy vào trong lời cầu nguyện Ki-tô giáo và khuyên bảo các tín hữu Phi-líp thực hành như thế.

  1. Mặc Khải Kitô giáo:

“Bình an của Thiên Chúa, là bình an không ai hiểu thấu, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giê-su Kitô”. Chúc bình an cũng thuộc vào truyền thống Do thái giáo. Ở đây, không chỉ cầu xin “bình an”, nhưng còn những ơn ban khác nữa. Theo gương Đức Giê-su, thánh nhân đem đến cho chữ “bình an” một chiều kích mới. Đối với thánh nhân, bình an của Thiên Chúa, chính là bình an mà hy tế của Đức Giê-su đã mang lại cho chúng ta. Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã hòa giải muôn loài muôn vật với mình. Nhờ Thánh Thần của Ngài, Ngài toả rạng bình an giữa các Ki-tô hữu và giữa các Kitô hữu với muôn dân. Bình an là một khía cạnh của cuộc sống đời đời, được khởi sự từ dưới thế nầy.

  1. Lý tưởng Hy lạp:

Thánh Phao-lô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu gốc Hy-lạp. Thánh nhân khuyên họ đừng từ bỏ, nhưng hãy thấm nhập vào trong con người họ những đức hạnh mà truyền thống cha ông của họ đã dạy: “Những gì là đức hạnh đáng khen, thì xin anh em hãy để ý”.

Như vậy, thánh Phao-lô đã không xem thường l‎ý tưởng luân lý của truyền thống văn hóa Hy-lạp. Ki-tô giáo không nhằm loại bỏ “những gì là chân thật, cao quí, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt”. Thánh nhân đã hình thành nên “học thuyết nhân bản Kitô giáo”. Nhưng học thuyết nầy để thực sự là Ki-tô giáo phải dựa vào lời dạy tông đồ để không có bất kỳ khiếm khuyết nào và sai lệch nào: “Những gì anh em đã học hỏi, đã hấp thụ, đã nghe, đã thấy nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành”. Công Đồng Va-tican II cũng đã dạy theo cùng một cách như vậy: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Vui Mừng và Hy Vọng, 1).

TIN MỪNG (Mt 21: 33-43)

Tiếp theo dụ ngôn về “hai người con” mà chúng ta đã suy gẫm vào Chúa Nhật vừa qua, thánh Mát-thêu ghi tiếp dụ ngôn về “những tá điền gian ác” theo cùng một chiều hướng và cùng nhắm đến một đối tượng.

  1. Dụ ngôn “Những tá điền gian ác”:

Đức Giê-su mượn ở nơi bài thơ của ngôn sứ I-sai-a hình ảnh về ông chủ vườn nho: “trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; ông khoét một bồn đạp nho, và xây một vọng gác”, nhưng lại triển khai theo một chiều hướng khác với ngôn sứ I-sai-a. Trong sấm ngôn của I-sai-a, đối tượng được nhắm đến là vườn nho. Dù được chăm sóc chu đáo, nhưng vườn nho lại sinh những trái nho dại, vì thế, bị bỏ mặc thành hoang phế. Trái lại, trong dụ ngôn, đối tượng được nêu bật là thái độ gian ác của bọn tá điền.

Ông chủ vườn nho “trẩy đi xa” và để vườn nho cho bọn tá điền thuê. Đến mùa thu hoạch, chủ vườn nho sai gia nhân của mình đến thu hoạch huê lợi. Các tá điền không chỉ không giao nộp huê lợi như giao ước, trái lại “chúng đánh người nầy, giết người kia, ném đá người nọ”. Vẫn một mực nhẫn nại, ông chủ vườn nho cố thử thêm một lần nữa: “sai một số đầy tớ khác đông hơn trước; nhưng bọn tá điền vẫn cư xử với họ y như vậy”. Cuối cùng, ông quyết định liều sai đứa con trai một của mình, vì nghĩa rằng: “Chúng sẽ nể con ta!”. Nhưng ông không ngờ, bọn tá điền muốn cướp đoạt vườn nho, vì thế “chúng bắt lấy cậu, lôi ra ngoài vườn nho và giết chết cậu”.

  1. Ý nghĩa của dụ ngôn đối với lịch sử cứu độ:

Dụ ngôn nầy diễn tả một cách ngắn gọn cả một lịch sử cứu độ dài, một thiên tình sử giữa Đức Chúa và dân Ngài. Vườn nho của Đức Chúa chính là dân Ít-ra-en. Ngài đã trao cơ nghiệp của Ngài cho các giai cấp lãnh đạo Do thái để họ chăm lo vun xới và làm trổ sinh hoa trái. Biết bao lần, Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ trung thành tuân giữ giao ước, nhưng họ đã ngược đãi, bách hại và giết chết các ngài. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn sai lần lượt các ngôn sứ nầy đến các ngôn sứ khác, nhưng họ không hề thay đổi, vẫn thói nào tật nấy hành xử với các ngài theo cùng một cách như thế. Nhưng lòng nhẫn nại của Thiên Chúa vẫn không hề vơi, cuối cùng Ngài sai chính Con Một của Ngài với hy vọng: “Chúng sẽ nể con ta”. Nhưng lòng gian ác của họ đã đạt đến cực điểm. Họ đã tra tay bắt lấy “Người Con Một” của Ngài và lôi ra ngoài thành thánh Giê-ru-sa-lem mà giết đi để mong chiếm đoạt gia sản của Ngài, tức là biến dân của Ngài thành dân của họ.

Qua dụ ngôn nầy, Đức Giê-su quy trách nhiệm cho giai cấp lãnh đạo Do thái còn cứng rắn hơn dụ ngôn hai con trai trước đó. Đồng thời, Ngài cũng kín đáo và thống thiết muốn cho họ hiểu rằng Ngài là Con Thiên Chúa và sắp bị giết chết bởi lòng dạ gian ác của họ.

  1. Ý nghĩa dụ ngôn đối với Giáo Hội.

Như vị ngôn sứ trong bài ca vườn nho, Đức Giê-su xin thính giả của Ngài, tức giai cấp lãnh đạo Do thái, phân xử. Những người nầy phẩn nộ về thái độ của bọn tá điền, không ngờ chính mình lại tự kết án mình. Và như dụ ngôn hai người con trước đây, ở đoạn cuối, ý nghĩa của dụ ngôn được Chúa Giê-su giải thích rõ ràng khi trích dẫn Tv 118: ‘Viên đá người thợ xây loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Ấy là Chúa đã làm nên như vậy, trước mắt chúng ta, thật lạ lùng”. Thánh vịnh nầy ca ngợi việc chấn hưng dân Ít-ra-en tương lai và được giải thích như Thánh vịnh thiên sai. Giáo Hội tiên khởi đã thấy ở đây một lời loan báo về sự Phục Sinh của Đức Kitô (cf. Cv 4: 11 và 1Pr 2: 7).

Con Thiên Chúa bị giết chết xem ra là một sự thất bại rõ ràng. Nhưng nhờ cái chết của Người Con nầy, một dân mới, được biểu thị không còn qua hình ảnh vườn nho nhưng tòa nhà. Toà nhà nầy Đức Giê-su sẽ là viên đá góc tường sẽ được xây dựng trên nền móng vững chắc: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt. 16: 18).

 

home Mục lục Lưu trữ