Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 52

Tổng truy cập: 1361928

LỄ CHÚA GIÊSU THĂNG THIÊN

LỄ CHÚA GIÊSU THĂNG THIÊN

Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:

"Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: "Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất".

Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa "Hãy ra khơi", mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. "Hãy ra khơi" ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm.

Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: "Tại sao các ông còn nhìn trời?"

Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. "Trời", nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: "Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa."

Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: "Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em."

Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.

Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này".

Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.

 

8.Chúa Thăng Thiên--GM Giuse Nguyễn Năng

(Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc ghi)

Anh chị em thân mến,

Việc Chúa Giêsu lên trời thì chắc chắn là chúng ta phải suy nghĩ “lên trời tức là đi đâu?” và trí tưởng tượng của chúng ta bắt đầu làm việc, làm việc mạnh mẽ. Chúng ta tưởng tượng Chúa Giêsu đang đứng giữa chúng ta và Ngài bay lên, đi lên, lên mãi. Chúng ta tưởng tượng một khung trời nào đó, Chúa Giêsu đang núp ở đây. Tuy nhiên, không phải như vậy. Chúng ta có đi phi thuyền bay thật xa trong vũ trụ bao la này thì chúng ta cũng không bao giờ thấy Chúa Giêsu ở trên đó.

Vậy Chúa Giêsu lên trời tức là đi đâu? Chúa Giêsu lên trời nghĩa là Chúa đi vào trong vinh quang của Chúa Cha, Chúa trở về với Chúa Cha từ nơi Chúa Cha mà đến. Chúa Giêsu vào trong trần gian này cứu chuộc chúng ta. Hôm nay công trình đã hoàn tất, Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha, sống trong vinh quang của Chúa Cha. Thật sự, Chúa Giê su đã về với Chúa Cha ngay từ khi Chúa sống lại. Nhưng trong thời gian bốn mươi ngày qua, Chúa Giê su vẫn còn tỏ mình ra cho các tông đồ. Chúa tỏ ra cho các tông đồ thấy là Chúa đang sống. Bài đọc thứ nhất trích trong sách Tông đồ Công vụ kể cho chúng ta như vậy (Cv 1, 1-11). Chúa hiện ra, Chúa chứng tỏ cho các môn đệ thấy Chúa vẫn đang sống. Đành rằng Chúa đã đi vào cuộc sống khác nhưng Chúa vẫn tỏ ra một cách cụ thể, một cách hữu hình khi mà mắt các tông đồ vẫn còn thấy được Chúa đang sống. Nhưng hôm nay, Chúa lên trời, có nghĩa là bốn mươi ngày sau khi Chúa sống lại, Chúa chấm dứt việc không tỏ ra cho các tông đồ thấy một cách cụ thể, hữu hình như trước đây nữa.

Chúa Giêsu lên trời là Chúa đi vào trong vinh quang của Chúa Cha, có nghĩa là Chúa chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự chết và Chúa bước vào cuộc sống mới. Cuộc sống mới này, chúng ta không thể thấy bằng mắt phàm được, chúng ta cũng không thể chạm lấy bằng đôi tay được mà chúng ta chỉ có thể nhận ra Chúa bằng đức tin. Chúa lên trời không có nghĩa là Chúa đi xa chúng ta, mà trái lại, Chúa ở gần chúng ta hơn bao giờ hết. Chúa ở giữa chúng ta. Đức Kitô Phục Sinh đã sống lại, có nghĩa là Ngài đang sống, sống giữa Hội Thánh và sống trong thế giới này. Chúa lên trời có nghĩa là Chúa không tỏ ra một cách hữu hình. Vì thế chúng ta chỉ có thể nhận ra Chúa bằng đôi mắt đức tin. Chúa lên trời nhưng Ngài không rời xa chúng ta, mà ngược lại, Chúa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế theo như lời kết trong Tin Mừng theo thánh Matthêu: “Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).

Chúa Giê su lên trời là Chúa kết thúc công cuộc cứu chuộc của Chúa. Chúa đã làm phần việc của Chúa xong rồi, và bây giờ Chúa cho Giáo Hội tiếp tục làm công trình cứu độ ấy. Chúa đã hẹn gặp các tông đồ ở núi cao miền Galilê và Chúa đã căn dặn các tông đồ: “Anh em hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20). Đó là sứ mạng Chúa trao cho các tông đồ, Chúa trao cho Hội Thánh. Hôm nay Chúa về trời thì Hội Thánh tiếp nối sứ mạng ấy. Trong ba mươi ba năm sống tại trần gian này thì ba năm Chúa đã rao giảng Tin Mừng, Chúa đã làm phép lạ để chứng tỏ tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Chúa đã chữa lành bệnh tật, cho người đói ăn, cho người đau yếu được mạnh khỏe, rồi Chúa đã tha tội cho người ta. Chúa đã cử hành thánh thể để nuôi dưỡng con người. Tin Mừng cứu độ ấy, hôm nay Chúa đã hoàn tất và hôm nay Chúa trao cho chúng ta, Chúa trao cho Hội Thánh. Mỗi người trong cương vị của mình phải chu toàn trách nhiệm, sứ mạng rao giảng Tin Mừng mà Chúa đã trao cho chúng ta. “Anh em hãy giảng dạy cho muôn dân”, lời Chúa nói không phải chỉ dành cho các tông đồ, dành cho các giám mục, linh mục, tu sĩ nhưng là lời gửi đến toàn thể cộng đồng dân Chúa. Anh chị em, mọi người trong Hội Thánh đều có sứ mạng loan báo Tin Mừng để làm chứng về Chúa Giê su cho anh chị em chúng ta.

Trong những năm vừa qua, anh chị em được nghe nói đến việc tân Phúc Âm hóa hay là nói cách khác, là việc loan báo Tin Mừng mới. Loan báo Tin Mừng mới có nghĩa là gì? Không phải là rao giảng một Phúc Âm mới. Chỉ có một Phúc Âm mà thôi. Chỉ có một Đức Giê su, Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ làm người mà thôi. Phúc Âm ấy, Chúa Giê su ấy: hôm qua, hôm nay và mãi mãi cho đến mãi muôn đời vẫn là một. Không ai được quyền thay đổi Phúc Âm ấy, không ai được quyền thay đổi đức tin. Nhưng tân Phúc Âm hóa, công cuộc Phúc Âm hóa mới ở chỗ nào? Thưa, đó là mới ở chỗ đổi phương pháp loan báo Tin Mừng, đổi cách trình bày nội dung Tin Mừng. Nội dung vẫn là một, nhưng ngôn ngữ và phương cách phải được đổi mới. Phúc Âm hóa mới còn ở chỗ phải có nhiệt tình mới, một lòng hăng say mới để đi rao giảng Tin Mừng. Những điều ấy hết sức cần thiết cho thời đại của chúng ta hôm nay.

Quả vậy, thưa anh chị em. Chúng ta phải đổi mới cách loan báo Tin Mừng, đổi mới cách dạy giáo lý của chúng ta. Có lẽ trong bao nhiêu năm chúng ta đã quen với việc dạy giáo lý bằng cách “hỏi – thưa”. Một ông quản, một bà quản hay một anh chị giáo lý viên cầm cái roi ở trong tay, rồi dạy giáo lý. Chúng ta cố gắng nhồi nhét những câu hỏi thưa cho các thế hệ trẻ. Việc học thuộc lòng rất cần thiết, chúng ta không thể bỏ được. Nhưng phải thay đổi, dùng các phương pháp sư phạm mới, dùng cách trình bày mới, dùng phương tiện mới. Ngày xưa không có ti vi, ngày nay có ti vi, người ta dùng ti vi để giảng đạo; ngày xưa không có Internet, bây giờ người ta dùng Internet để rao giảng Phúc Âm; ngày xưa không có video, bây giờ có video để giảng dạy Phúc Âm; ngày xưa người ta dùng ngôn ngữ trừu tượng để giảng dạy về Chúa Giê su, ngày nay dùng phương pháp kể chuyện để nói về Chúa Giê su... Chúng ta thấy đó là những điều hết sức quan trọng để loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật. Có những điều chúng ta giảng dạy trừu tượng không ai muốn nghe, nhưng nếu chúng ta dùng phim ảnh, dùng câu chuyện để nói về Chúa Giê su thì những câu chuyện ấy, những bài giảng ấy hết sức là hấp dẫn, lôi kéo người khác. Đó chính là rao giảng Tin Mừng một cách mới mẻ: Tân Phúc Âm hóa.

Tân Phúc Âm hóa còn hiện đại ở chỗ là chúng ta phải có sự nhiệt tình mới. Phải có lòng nhiệt tình, phải có sự hăng say đi rao giảng Tin Mừng. Chúa trao sứ mạng đi rao giảng và làm chứng về Chúa cho anh chị em. Nhưng thử hỏi, suốt 2000 năm qua. Công việc rao giảng Tin Mừng được tiến triển bao nhiêu? Thưa, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, là vị mới được phong Á Thánh ngày 01.05.2011 vừa qua. Ngài đã nói: “Sau 2000 năm, công cuộc rao giảng Tin Mừng vẫn còn dừng lại, dường như ở bước khởi đầu”. Nghĩa là chưa tiến được gì hết, 2000 năm không cứu vớt được là bao nhiêu. Bởi vì sao? Bởi vì thiếu nhiệt tình, thiết sự hăng say. Thiếu nhiệt tình, thiếu sự hăng say, bởi chính chúng ta đây, những người Ki tô hữu, chúng ta chưa cảm nhận được tin vào Chúa Giê su đó là một tin vui cho chúng ta. Nhiều người Ki tô hữu tin vào Chúa Giê su nhưng mà không cảm thấy vui, không cảm thấy là Tin Mừng, không cảm thấy là hạnh phúc. Và một khi chúng ta không thấy vui, không thấy hạnh phúc thì lúc đi nấc thang đi theo Chúa, làm sao chúng ta có lửa, chúng ta có nhiệt tình để rao giảng Tin Mừng cho người khác. Chính mình không cảm thấy đó là tin vui thì mình chỉ rao giảng tin buồn, không thể rao giảng Tin Mừng về Chúa được.

Cách đây chừng hai mươi năm, anh chị em vùng Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình) của chúng ta đổ xô đi tìm vàng. Có những người nghe nói ở chỗ nọ, chỗ kia có vàng. Một người đi kháo tin là có vàng, và đúng là có vàng, thì người đó vui mừng báo tin cho gia đình mình, cho anh em mình, cho xứ sở, lối xóm của mình. Thế là người ta từng đoàn, từng đoàn đi đào vàng. Có những người tìm được vàng, nhưng có những người thất bại. Nhưng điều quan trọng là người đầu tiên đi phát hiện thấy vàng. Người đó vui mừng về loan báo cho mọi người. Khi người ta nhận thấy tin vui, người ta không giữ được niềm vui, người ta sung sướng và muốn lôi kéo tất cả cùng đi để có một cuộc sống mới. Chính Chúa Giê su đã ví “Nước Trời cũng giống như viên ngọc quí” (x. Mt 13, 44-46). Nước Trời giống như kho tàng, không phải chỉ là mỏ vàng có khi được khi không, mà là cả kho tàng ngọc quí. Những người Ki tô hữu chúng ta đây là những người đã biết được sự cao quí của Nước Trời. Chúng ta cảm nhận được tin vui, chúng ta cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc, bởi vì chúng ta đã gặp được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Đấng đổi mới cuộc đời chúng ta. Mình cảm nhận, mình công bố, mình mong muốn cho mọi người được biết Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu. Cho nên, tân Phúc Âm hóa là khơi dậy ngọn lửa nhiệt tình mới cho những người Ki tô hữu chúng ta.

Ngày hôm nay, ngày Chúa Giê su lên trời. Chúng ta dừng lại để suy ngẫm về sứ mạng của chúng ta. Chúng ta thử hỏi, chúng ta đã chu toàn sứ mạng đó được như thế nào? Ngọn lửa nhiệt tình của chúng ta, niềm vui của chúng ta khi chúng ta đi theo Chúa được bao nhiêu? Thưa, chắc còn thấp lắm. Hôm nay, khi Chúa trao phó sứ mạng cho Giáo Hội, cho các tông đồ thì Chúa cũng căn dặn: “Anh em hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần đến trong anh em” (Cv 1, 8).

Trong tuần lễ này, từ hôm nay cho đến Chúa nhật tới, chúng ta hãy khao khát, cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần đến với Hội Thánh, đến với từng người chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong lòng chúng ta ngọn lửa nhiệt tình, đốt lên trong lòng chúng ta lòng hăng say để chúng ta rao giảng Tin Mừng cho Chúa. Chúng ta cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần khơi dậy trong Hội Thánh một nguồn sống mới. Trong Chúa nhật tới, chúng ta sẽ mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống thì trong tuần này, mỗi ngày, tất cả mọi nơi, mọi lúc, chúng ta hợp ý với toàn thể Hội Thánh xin Chúa Thánh Thần đến với chúng ta. Chúa Giê su đã về trời, sự hiện diện của Chúa qua lời của Chúa, qua Thánh Thể của Chúa, chúng ta lắng nghe sứ điệp mà Chúa Giêsu trước khi lên trời đã trối lại cho chúng ta. Chúng ta xin Chúa nâng đỡ để mỗi người trong chúng ta chu toàn sứ mạng mà Chúa đã trao cho chúng ta giữa lòng Hội Thánh. Amen.

 

 

9.Lễ Thăng thiên Mt 28,16-20 --Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

A. Hạt giống...

Những lời cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ:

- Sai các ông đi loan Tin Mừng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”

- Hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

B.... nẩy mầm.

1. Việc loan Tin Mừng nhằm 2 mục đích: thứ nhất là nhằm Rửa tội cho người ta trở thành kitô hữu; thứ hai là phổ biến những giá trị của Tin Mừng. Có những người vì lý do gì đó mà không lãnh nhận bí tích Rửa tội được nên không trở thành kitô hữu. Nhưng nếu họ sống theo những giá trị Tin Mừng thì, nói theo từ ngữ của nhà thần học Karl Rahner, họ cũng là những “kitô hữu vô danh” (chrétien anonyme). Chúng ta phải cố gắng tạo thêm cả những “kitô hữu hữu danh” và những “kitô hữu vô danh”.

2. June là một cô bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha là một mục sư. Mẹ mỗi khi đi đâu, thường cho em theo.

Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền hỏi: “Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế?"

"Chúa cho cháu đó! ”Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi: “Thế ông có được Chúa cho gì không? có được Chúa cứu không?"

Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp: “Không, bé ạ!"

"Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ ! ”Nói xong, bé vội chạy theo mẹ.

Ít tuần sau, ông tìm đến nhà thờ và theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa. (Góp nhặt)

3. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”

Fritz Kreisler (1875-1962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một cơ nghiệp đồ sộ nhờ các buổi hoà nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết của cải. Do đó, trong một chuyến lưu diễn, ông tìm được một cây vĩ cầm thanh tú nhưng không đủ tiền mua.

Đến khi ông kiếm đủ tiền và trở lại, thì cây đờn đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Kreisler tìm đến chủ mới của cây vĩ cầm để xin mua lại. Nhà sưu tầm không muốn bán vì theo ông, nó là một bảo vật quí giá. Kreisler buồn bã và sắp sửa ra về, bỗng nảy ra một ý: “Xin đàn một lần trước khi nó bị ký thác cho sự câm lặng”.Chủ nhân chấp thuận. Vị nhạc sĩ tài ba đã làm cho nhà sưu tầm thực sự súc động vì tiếng đàn du dương của mình, đến nỗi ông ấy phải kêu lên “Kreisler ơi! Tôi, tôi không có quyền giữ chiếc đàn này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới để thiên hạ được thưởng thức âm thanh của nó”.

Lạy Chúa, con cũng không có quyền giữ cho mình tất cả hồng ân Người đã ban tặng cho con. Tất cả đã được đón nhận thì tất cả cũng phải được sẻ chia. (Epphata)

4. Một bà kia nhìn thấy một bé gái gầy nhom và ăn mặc rách rưới. Bà cảm thấy bất nhẫn và kêu trách Chúa:

- Sao Chúa chẳng làm gì cả để giúp cho đứa bé khốn khổ ấy?

- Ta đã làm rồi đấy thôi. Chúa đáp.

- Nhưng Chúa làm gì đâu nào?

- Ta đã tạo dựng nên con ở bên cạnh đứa bé ấy. (Mark Link, Vision 2000).

 

 

10.Giáo Hội thi hành sứ vụ mới--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người chịu chết trên thập tự để chuộc tội cho lòai người, để con người được quyền  làm con Chúa và được thừa hưởng Nước Trời. Ngài đã đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, chiêu tập môn đệ, thành lập Giáo hội để tiếp nối công việc của Ngài ở trần gian. Sau khi đã hòan tất sứ mạng một cách hòan hảo, Đức Giêsu trở về cùng Chúa Cha để được hưởng vinh quang  mà Cha đã dành cho Ngài. Hôm nay là lễ Thăng Thiên và cũøng là ngày bàn giao quyền năng và sứ mạng của Ngài cho các môn đệ và Giáo hội.

Trước khi từ giã các Tông đồ đi về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu trao lại sứ vụ của Ngài cho các ông là loan báo Tin mừng cho muôn dân. Tuy Đức Giêsu hứa sẽ ở cùng các ông cho đến ngày tận thế nhưng Ngài không trực tiếp giảng dạy được mà phải nhờ đến các ông và Giáo hội. Từ đó,Giáo hội phải nhận lấy trách nhiệm tiếp nối công trình của Ngài như Ngài đã dạy: “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Hiệp thông với các môn đệ được chứng kiến việc Chúa lên trời, ta cùng mang lấy tâm tình và bắt chước công việc các ông sau khi Chúa về trời, đó là “Chúa về trời, ta vào đời”. Ta phải vào đời để làm tròn sứ mạng Chúa đã trao phó cho chúng ta, đó là “Làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Chúa”(Mt 28,20) bằng đời sống chứng nhân của mình. Đồng thời hãy vui mừng phấn khởi với lời hứa của Chúa: “Thầy ra đi để dọn chỗ cho các con… để Thầy ở đâu, các con sẽ ở đó với Thầy”. Thiên đàng là quê hương của chúng ta, nơi Chúa đang chờ đợi. Nhưng dầu sao chúng ta phải nỗ lực không ngừng để tiến tới nơi đó vì “Nuớc Trời chỉ có thể chiếm được bằng sức mạnh”(Mt 11,12; Lc 16,16).

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Cv 1,1-11.

Bài đọc 1 được rút ra từ sách Công vụ Tông đồ của thánh Luca và cũng là tác giả của sách Tin mừng thứ ba. Thánh Luca cho biết Chúa Giêsu kết thúc công việc  mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài, nay Ngài về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trước khi về trời Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ hai điều:

* Thứ nhất Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Hãy tin tưởng chờ đợi.

* Thứ hai Ngài trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp cùng trái đất.

+  Bài đọc 2: Ep 1,17-23.

Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô cầu xin Chúa Cha ban cho các tín hữu thần khí khôn ngoan để nhận biết mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, và mở trí lòng ra  mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã lãnh nhận. Đức Kitô đã được trỗi dậy từ cõi chết, lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được làm chúa muôn vật: “Thiên Chúa đã đặt tất cả  dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội thánh, mà Hội thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,23).

+  Bài Tin mừng: Ga 28,16-20.

Thánh Matthêu kết thúc sách Tin mừng của Ngài bằng một bài ngắn gọn tường thuật việc Chúa Giêsu từ giã các môn đệ mà về trời. Ý chính của bài Tin mừng này cũng giống như bài trích sách Công vụ tông đồ hôm nay: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ hãy tiếp nối công trình của Ngài. Tuy Ngài không hiện diện để các ông trông thấy hay nghe thấy nhưng Ngài sẽ hiện diện bằng một cách thế mới để hoạt động trong Hội thánh. Ngài sẽ còn ở lại với Hội thánh cho đến ngày tận thế. Phần các ông ở lại, hãy thực hiện lời Chúa: “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Chúa về trời, ta vào đời.

I. ĐỨC GIÊSU VỀ TRỜI.

Sau khi sống lại, Đức Giêsu liên tiếp hiện ra với các môn đệ để vừa xác nhận việc Ngài sống lại vừa để bổ túc việc dạy dỗ các ông.

Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ trong thời gian bao lâu? Thánh Luca cho biết là 40 ngày (các sách ngụy thư nói đến 50 ngày hay 18 tháng), một thời gian khả dĩ cần thiết để kiện tòan việc dạy dỗ các tông đồ.

Hôm nay Đức Giêsu quyết định ra đi vĩnh viễn trong một cuộc hiển linh đầy quyền năng, một cuộc Thăng thiên về nhà Cha trên trời. Có người cho rằng đây là lần hiện ra lần sau hết với 500 môn đệ để mọi người chứng kiến việc Chúa lên trời. Nhưng trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca cho biết chỉ có 11 tông đồ qui tụ về Galilê để được dạy dỗ và chứng kiến việc Chúa lên trời. Sở dĩ chỉ có 11 tông đồ vì Giuđa đã phản bội Chúa, đáng lẽ phải hối hận và đi tìm gặp Chúa đệ tạ lỗi thì lại đi thắt cổ tự tử (Mt 27,5).

Thánh Matthêu cho biết tiếp: “Mười một môn đệ đi tới Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã hẹn với các ông (Mt 28,16). Trong Thánh Kinh, núi là nơi mang một tính chất thiêng liêng. Theo thánh Matthêu, các bản văn, lề luật quan trọng đều được ban ra từ trên núi như Thập giới, Tám mối phúc thật (Mt 5,1), Biến hình (Mt 17,1). Núi là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, để tôn vinh và thờ lạy.

Khi thấy Đức Giêsu “Các ông phục lạy Ngài”(Mt 28,17). Thánh Matthêu có ý dùng chữ “Phục lạy”. Động từ này có ý nghĩa thần học chính xác. “Phục lạy” chỉ được dùng cho những ai đã nhận biết phẩm vị của Đức Giêsu và nhìn nhận phẩm vị này qua cử chỉ đó như ba nhà Đạo sĩ đến triều bái Chúa Hài nhi (Mt 2,11), người phung cùi được sạch (Mt 8,2), các môn đệ trên thuyền (Mt 14,33), người đàn bà xứ Cana (Mt 15,25). Hôm nay các ông thờ lạy cách kính cẩn hơn nữa vì Ngài huy hòang trong ánh sáng Phục sinh, vì nơi Ngài “Mọi quyền năng trên trời dưới đất được trao phó”. Tuy nhiên, cũng có mấy ông còn hòai nghi, nhưng không nói rõ tên ai.

Đức Giêsu tiến lại gần họ và phán: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Các con hãy đi giảng dạy muôn dân”(Mt 28,18). Đức Giêsu đã chính thức trao quyền hành  và sứ mạng của Ngài cho các ông để tiếp tục hòan thành. Hôm nay Đức Giêsu ra đi nhưng là ngày các môn đệ lên đường, họ có nhiệm vụ đi chinh phục thế giới. Chinh phục bằng lời giảng dạy, chinh phục bằng phép rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.

Hôm nay, sau cuộc bàn giao, Đức Giêsu lên trời, các môn đệ phấn khởi nhìn theo, nhưng các ông còn nghe văng vẳng bên tai lời Chúa kết thúc Tin mừng: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20). Rồi họ xuống núi trở về xây dựng Giáo hội, làm cho Giáo hội thêm vững mạnh và phát triển chờ đợi Ngày Chúa lại đến. Giáo hội của Chúa sẽ đứng vững kiên cường không một thế lực nào có thểâ làm sụp đổ như lời sử gia Ba lan, ông Henryk Sienkievick, nói: “Các bạo Chúa cùng với triều đại của họ đều lần lượt tiêu tan – Nhưng con thuyền của người dân chài Galilê cầm lái vẫn hiên ngang lướt sống”. Đấng là chủ con tầu đã chẳng từng nói đó sao (Mt 16,18)?

II. CHÚNG TA VÀO ĐỜI.

1. Chúa về trời.

a) Chúa Giêsu về với Cha.

Nhiều lần Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ là Ngài sẽ về cùng Cha, Ngài hay nhắc đến Cha Ngài, đến nỗi ông Philipphê đã thưa với Ngài: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8).

Sau khi hoàn thành sứ mạng của Cha giao phó là chịu chết chuộc tội cho nhân loại và sống lại để phục hồi cho con người sự sống mới, thì Chúa Giêsu đã lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và được đặt làm chủ tể muôn loài: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” (Cv 1,11)

Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa lên trời hay mừng lễ Thăng thiên. Theo chữ Nho thì “Thăng” là lên và “Thiên” là trời. Xét theo nghĩa chữ thì “thăng thiên” chính là “lên trời”. Thế nhưng tại sao Ngài lại nói rằng “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”? Nói như vậy là  Chúa vẫn còn ở với chúng ta chứ đâu có “lên trời”!

Chúng ta phải lưu ý đến cách viết của tác giả Matthêu. Ngài đã dùng từ không theo sát nghĩa đen, nhưng theo nghĩa mà người dân quen hiểu. Theo đó, cái gì cao thì gọi là “trời”, cái gì thấp thì gọi là “đất”, tình trạng tiến khá hơn thì gọi là “lên”, lùi tệ hơn thì nói là “xuống”. Như thế, “thăng thiên” hay ‘lên trời” không chỉ một chuyển động trong không gian, mà chỉ một tình trạng tốt hơn trước. Ngày xưa, Đức Giêsu nhập thế thì được diễn tả là “giáng trần” hay “xuống đất”. Hôm nay Ngài trở về tình trạng vinh quang với Chúa Cha thì được diễn tả là “lên trời”. Bởi vì, Đức Giêsu chỉ thay đổi tình trạng thôi cho nên dù bây giờ Ngài vinh quang, Ngài vẫn ở cùng chúng ta  mọi ngày cho đến tận thế, chứ không phải Ngài lên “ở trên trời” và để chúng ta phải mồ côi “ở dưới đất”.

Lễ Thăng thiên đánh dấu sự thay đổi tình trạng của Đức Giêsu. Hình dung Đức Giêsu đang bay lên giữa các tầng mây, hay đang ngồi bên phải Chúa Cha chỉ là những cách tưởng tượng. Những hình ảnh tưởng tượng này có cụ thể với đầu óc bình dân đấy, nhưng gây tai hại là khiến người ta nghĩ rằng Đức Giêsu đã xa cách loài người.

Chúng ta phải đi xa hơn những hình ảnh tưởng tượng kia để đạt đến ý nghĩa đích thực  của việc thăng thiên: đó là Đức Giêsu đã lấy lại vinh quang, Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta luôn mãi, và nhờ vinh quang, Ngài sẽ hỗ trợ đặc biệt cho chúng ta (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 215).

b) Có thiên đàng không?

Chúa Giêsu về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha, đó là phần thưởng Cha dành cho Ngài sau khi đã hoàn thành sứ mạng được giao phó. “Lên trời” hay “lên thiên đàng” cũng là một, chỉ khác từ ngữ, còn ý nghĩa vẫn như nhau. Vậy Chúa Giêsu lên trời cũng có nghĩa là lên thiên đàng.

Trước đây Chúa Giêsu đã báo trước cho các môn đệ việc Ngài ra đi và đi để làm gì trong bài Tin mừng Chúa nhật 5 vừa qua: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thày, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,1-3). Chúa Giêsu đi dọn chỗ cho chúng ta ở đâu, nếu không phải là ở thiên đàng? Đúng vậy, Chúa Giêsu lên trời tức là lên thiên đàng như ở trên chúng ta đã nói. Do đó, chúng ta đặt ra hai vấn đề:

* Thiên đàng thế nào?

Ta không biết rõ Thiên đàng như thế nào, nhưng ta chỉ biết đó là nơi ta sẽ được thấy Thiên Chúa nhãn tiền và được hạnh phúc vô cùng. Những người đã được nếm thử cảnh hạnh phúc thiên đàng nói lại cho ta điều họ thử nghiệm như sau:

Các Tông đồ ngây ngất nhìn về trời khi Chúa Giêsu được cất lên khỏi mặt đất, đến nỗi phải có hai thiên thần đến thức tỉnh các ông (Cv 1, 9-10).

Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan ngây ngất nhìn Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê (Mt 17,1tt).

Còn thánh Phaolô thì thốt lên như sau: “Người ấy đã được nhắc lên đến tận tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng người ấy – hoặc trong thân xác hoặc ở ngoài thân xác, tôi không biết, có Thiên Chúa biết – đã được nhắc vào Thiên đàng và được nghe những lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại”(2Cr 12,2-4).

Thiên đàng như thế nào không ai biết và nếu có biết thì không thể nào diễn tả được.

* Thiên đàng ở đâu?

Ta dùng hai từ “lên thiên đàng” và “xuống hỏa ngục”, hai từ ấy gợi cho chúng ta cái ý nghĩ về một không gian vật chất có thể trông thấy được, sờ mó được. Nhưng đúng ra, thiên đàng hay hỏa ngục chỉ là một trạng thái của tâm hồn. Tâm hồn ta có thể là thiên đàng, cũng có thể là hỏa ngục. Nếu thi sĩ Nguyễn Du nói “Thiện tâm ở tại lòng ta” thì ta cũng có thể nói: “Thiên đàng hỏa ngục ở ngay trong lòng ta”.

Truyện: không có thiên đàng

Chính vì hiểu Thiên đàng là không gian vật chất nên ông Kroutchev, thủ tướng của Liên xô cũ, đã nói với ký giả C. Sulberger ngày 5.9.1961 rằng: “Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung, anh YOURI GAGARINE. Anh đã đi vòng quanh quả địa cầu, mà chỉ trông thấy những bóng đen dầy đặc. Không có chi giống như thiên đàng cả. (Sau đó) chúng tôi đã suy nghĩ và chúng tôi đã gửi một thám tử khác lên: GERMAN TITOV. Chúng tôi đã bảo anh rằng: “Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa trông thấy thiên đàng, vì chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy trông cho kỹ”. Titov đã trẩy đi, rồi trở về, và anh đã xác nhận lời tuyên bố của Gagarine: “Hư vô! Chỉ có hư vô”. Rồi Kroutchev xoa tay kết luận: “Cho nên người Cộng sản chúng tôi không tin có đời sau”. (Information catholique, ngày 1.10.1961, tr 14)

2. Ta vào đời.

Khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ ngây ngất nhìn lên trời để chiêm ngắm vẻ đẹp của Chúa Giêsu. Các ông đã quên trần gian, đến nỗi hai thiên thần phải hiện đến nhắc nhở cho các ông hãy quay về với thực tại, nghĩa là hãy quay về với đời sống hằng ngày, nhưng lòng vẫn hướng về trời. Vậy, Chúa đã về trời, còn chúng ta vào đời để làm gì?

a) Để loan báo Tin mừng.

Quang cảnh Chúa Giêsu lên trời đẹp quá, khiến các môn đệ còn ngước mắt lên trời nhìn theo. Các ông ước ao được hưởng vinh quang và vẻ đẹp của Chúa Giêsu như khi Ngài biến hình trên núi Taborê. Còn đang say sưa nhìn trời thì hai thiên thần hiện ra nhắc nhở cho các môn đệ “Sao các ông còn đứng nhìn trời”? Điều này nhắc nhở cho các ông và mọi Kitô hữu hãy quay trở lại với thực tế trần gian để tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Giêsu.

Vậy vào đời để tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu là gì? Ta hãy nghe lời nhắc nhở sau cùng của Chúa Giêsu trước khi từ giã các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy sẽ ở cùng anh em cho đến tận thế”(Cv 1,11).

b) Để chuẩn bị về quê trời.

Ngày lễ Thăng thiên hôm nay nhắc nhở chúng ta sống tốt lành và hướng lòng ta về trời là quê hương, như thánh Phaolô nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”(Pl 3,20-21).

Quê trời là niềm hy vọng của chúng ta, là động lực khuyến khích chúng ta  chấp nhận một cuộc sống đầy gian nan ở trần gian này, nếu không thì những cố gắng của chúng ta  sẽ trở nên vô ích. Thánh Ambrôsiô nói: “Nếu Chúa chết đi mà không sống lại thì mọi tin tưởng của chúng ta  đều là ảo tưởng (1Cr 15,17). Nhưng nếu Chúa sống lại mà không lên trời thì bao gian lao đau khổ chúng ta phải chịu vì Chúa phải cho là vô ích. Bởi vì, chúng ta sẽ lấy đà nào để chịu khó, nếu chúng ta không có hy vọng lên trời”.

Ai muốn lên thiên đàng thì phải yêu mến Chúa và yêu mến Chúa thì phải thi hành lời Chúa như Ngài đã phán: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các đều răn của Thầy” (Ga 14,15). Thi hành lời Chúa là phải đem ra thực hành các điều Chúa dạy; điều này đòi hỏi mọi Kitô hữu phải cố  gắng, phải hy sinh, phải dấn thân, phải nép nình vào mà đi qua cửa hẹp, bởi vì Chúa đã nói: “Không phải cứ kêu Lạy Chúa, lạy Chúa, mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo thánh ý Cha Ta ở trên trời” (Mt 7,21).

Việc lên trời là việc của từng người, mỗi người phải quyết định lấy, không ai có thể làm thay được. Chúa thương yêu chúng ta thật, nhưng Ngài không áp đặt chúng ta, Ngài không cưỡng chế chúng ta phải về trời, Ngài luôn tôn trọng quyền tự do của mỗi người. Nhưng dù sao, muốn lên thiên đàng cũng phải có điều kiện như người ta nói:

Lênh đênh trên cửa Thần phù,

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm. (Ca dao)

Mỗi người phải khéo lèo lái con thuyền của mình trên biển trần gian này mới được yên ổn, giống như ở Thánh hóa, ngày xưa có cửa biển Thần phù (bây giờ không biết có còn không), ở đó có dòng nước xoáy, rất nguy hiểm, người chèo qua đó phải rất cứng tay và khéo léo, nếu không sẽ bị chìm. Người ta lấy câu ca dao này để khuyên mọi người phải sống tốt lành để khỏi hư đi. Người ta rất khéo léo dùng chữ “tu” ở đây. Theo chữ Nho, chữ “tu” thì có nghĩa là “sửa”. Tu thân là sửa mình. Vậy ai khéo tu thân tích đức là người khéo chèo chống thì sẽ nổi, sẽ được rỗi; còn ngược lại thì sẽ bị chìm, tức là phải trầm luân.

Truyện: Ai muốn lên thiên đàng?

Một hôm, trong nguyện đường D.S, một vị giảng thuyết hỏi giáo dân:

- Những ai muốn lên thiên đàng hãy đứng lên.

Tất cả cử tọa đều nhất loạt đứng dậy, chỉ trừ một người: anh ta cứ ngồi yên hàng ghế bên cạnh. Vị giảng thuyết liền hỏi anh ta:

- Thế còn bạn, bạn muốn đi đâu?

Chàng uể oải trả lời:

- Chả đi đâu cả! Tôi muốn được lên Thiên đang ngay ở đây.

Những người muốn một đời sống dễ dàng thường quên mất sự kiện này là: để sống dễ dàng, họ đã ỷ lại nhờ vả kẻ khác làm công việc mà đáng lẽ  chính họ phải thực hiện. Nói khác đi, họ muốn đi du lịch mà không mất tiền (J. Keller, báo Thẳng tiến, số 29, th 01/63).

 

11.Lên trời--Lm. Thái Nguyên

Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, nhưng “trời” ở đây không phải là một nơi chốn, mà là một trạng thái sống vinh hiển, biểu hiện sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là sự sống viên mãn, không còn bị hao hụt, giảm thiểu bởi đau khổ, bệnh tật, đói khát. Lên trời không phải là thay đổi nơi chốn, nhưng là thay đổi sự sống từ hữu hạn đến vô hạn, từ tạm thời đến vĩnh viễn, từ tương đối đến tuyệt đối.

Chúa Giêsu lên trời là vì Ngài đã làm người, đã hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha giao phó, đã dâng hiến chính mạng sống mình để cứu chuộc nhân loại, và đã trở nên mô mẫu yêu thương tuyệt hảo cho đời sống con người. Chúa về trời nhưng Ngài không bỏ mặc thế giới, Ngài không đi vào cõi vinh quang riêng mình, mà đi vào một hiện hữu mới, để hiện diện một cách mầu nhiệm trong lòng người, như lời Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa Giêsu lên trời mở ra một lối thoát tuyệt vời cho con người, vì họ không còn bị trói chặt vào số kiếp này, không còn bị giới hạn vào thân phận hư hèn hay số mệnh nghiệt ngã. Trên trời, khát vọng sâu thẳm của con người được lấp đầy, mơ ước siêu vượt của con người được mãn nguyện, sự sống và hạnh phúc của con người đạt tới vô biên, vì được tham dự trọn vẹn vào thần tính của Thiên Chúa.

Trời là mẫu mực của đất: Ý Cha phải được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Chỗ nào con người vâng theo ý Cha, chỗ đó là trời. Trái tim của chúng ta sẽ trở thành trời, nếu đầy ắp yêu thương, đầy ắp Thiên Chúa, nghĩa là để cho Chúa ngự trị và làm chủ cuộc đời mình. Chúa ở đâu thì trời ở đấy. Nếu có Chúa ở với ta, thì trời là vương quốc Thiên Chúa đã ở quanh ta và ở trong ta (x. Lc 17, 19).

Chúa về trời cho biết quê hương đích thực của chúng ta ở trên Trời. Đó không chỉ là niềm hy vọng nhưng còn là một bảo đảm chắc chắn cho tất cả những ai tin tưởng vào Chúa và sống theo đường lối Ngài. Ta sẽ được hạnh phúc sống đời sau bên Chúa, nếu ta đã thực sự bắt đầu sống sâu sát với Chúa từ đời này.

Tuy nhiên, chúng ta còn có một sứ mạng mà Chúa mời gọi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy”. Vì thế, bổn phận Kitô hữu là xây dựng trời cao từ nơi đất thấp: là làm cho Tin Mừng thấm nhập vào đời sống con người, để mọi người dần dần nhận biết Thiên Chúa, và qui tụ dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. Điều đó phải được minh chứng qua đời sống Kitô hữu: là những người xả thân phục vụ cho sự sống và hạnh phúc của người khác, không ngừng cống hiến, cho đi, chia sẻ tất cả những gì mình có, không bị kéo ghì bởi những đam mê xác thịt, càng không chùn bước trước cái chết hay khổ đau.

Như vậy, trời hay thiên đàng là một thực tại, đã manh nha từ cuộc sống này, phát xuất từ vinh quang Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa, Đấng là cùng đích của con người và vạn vật, chứ không phải là sản phẩm của hoang tưởng như người ta tưởng.

Về trời hay về thiên đàng là khát mong sâu thẳm của mỗi người chúng ta sau khi hoàn tất cuộc đời mình cho Chúa và tha nhân. Riêng các bạn trẻ, những người đang xây dựng lý tưởng cho đời mình, chúng ta hãy bắt đầu xây những thiên đàng nho nhỏ ở quanh mình, nơi gia đình, bạn bè, khu xóm, giáo xứ, hội đoàn, để minh chứng sự hiện diện của Thiên Chúa đang nhẹ nhàng lan tỏa trên đời sống của con người hôm nay.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!

Chúa về trời,

nhưng vẫn còn lại đây Thánh Thể Ngài,

là nguồn sự sống ban cho nhân loại,

để dìu con bước đi trên đường trần,

từng lúc ân cần tình Chúa đỡ nâng.

Chúa về trời,

nhưng vẫn còn lại đây Lời của Ngài,

Lời đưa con tới quê hương trời cao,

bằng tình yêu mến hy sinh phục vụ,

dựng xây thế giới hòa bình hôm nay.

Chúa về trời,

là bắt đầu từ nay cuộc sống này,

bừng lên ánh sáng trong ơn Thánh Thần,

dìu con vững bước đi qua đêm trường,

qua những nguy nàn, vực sâu thế gian.

Chúa về trời,

nhưng vẫn hiện diện qua từng con người,

và từng biến cố trong Giáo hội Ngài,

để ban ơn thánh giúp con nhiệt tâm,

trở nên nhân chứng tình Ngài yêu thương.

Chúa về trời,

mơ ước của đời con là được theo Ngài,

đòi con hãy biết sống cho mọi người,

tình thương chan chứa con đi xây đời,

cuộc sống đẹp ngời từ nơi thế gian.

Chúa về trời,

sự sống của đời sau được khơi mầu,

gọi con vững bước qua bao đổi thay,

vượt qua gian khó dấn thân từng ngày,

để niềm vinh phúc tràn đầy mai sau.

Chúa về trời,

là niềm hy vọng sự sống đời sau,

cho con dự phần vinh quang ngàn đời,

bằng cuộc sống hôm nay dựng xây thế giới.

Chúa về trời,

là Thiên Đàng rộng mở,

từ nơi thế trần, từ nơi tâm hồn của mỗi người,

bằng đón nhận tin yêu và sống tin yêu.

(Lời bài hát: Chúa về Trời)

 

12.Làm chứng cho Chúa hôm nay--Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1. Ý CHÍNH:

Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần để chứng minh cho các môn đệ thấy Người đã thực sự từ cõi chết sống lại. Nhưng lần này trước khi về trời, Đức Giêsu hiện ra lần cuối với Nhóm Mười Một trên một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Người không chứng minh Người đã sống lại như các lần trước, nhưng trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng phổ quát cho Hội Thánh qua Nhóm Mười Một môn đệ như sau: “Hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Người cũng truyền cho các ông tiếp tục dạy cho các tín hữu phải tuân giữ các huấn luyện của Người và hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

2. CHÚ THÍCH:

- C 16-17: + Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai lúc này đã bị mất Giu-đa phản bội, nên chỉ còn mười một người (x. Mt 10,1-4; 27,5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Vâng lời dạy của thiên thần nhắn cho các môn đệ qua hai phụ nữ và sau đó Chúa Phục Sinh cũng nhắc lại lệnh truyền này khi hiện ra với hai bà này vào sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28,7.10). Ga-li-lê là trung tâm truyền giáo của Đức Giêsu trong thời gian Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời. + Đến ngọn núi: Tin Mừng không xác định là núi nào. Còn sách Công Vụ Tông Đồ cho biết là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng nơi Thiên Chúa mặc khải cho các ngôn sứ thời Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 19,20; 1 V 19,8-14). Trong Tin Mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giêsu cũng mặc khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1), biến hình trước mặt ba môn đệ trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). (17) + Khi thấy Người, các ông bái lạy: Các môn đệ thấy Chúa Giêsu Phục Sinh và biểu lộ niềm tin bằng việc sấp mình bái lạy Người. Hành động này tương tự như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11); Người phong cùi bái lạy xin Đức Giêsu chữa lành (x. Mt 14,33); Người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy xin Đức Giêsu chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại hoài nghi: Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy Chúa xem ra bất nhất và khó hiểu. Thực ra, lúc này khi từ giã Chúa Giêsu sắp về trời thì mọi môn đệ đều đã tin, và không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng các trình thuật Tin Mừng hiện ra khác đều nói đến sự nghi ngờ, và đều được Người đánh tan sự nghi ngờ ấy. Riêng Tin mừng Mátthêu ghi nhận sự kiện môn đệ hoài nghi vào thời điểm này và cũng đã được Chúa Giêsu đánh tan khi cho các ông biết Người đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Theo một số tác giả thì sự hoài nghi ở đây nhắm đến sự hoài nghi của cộng đoàn nói chung, vì từ đây các tín hữu sẽ không còn thấy Chúa Phục Sinh hiện ra nữa. Sự hoài nghi này sẽ được Lời Chúa đánh tan. Do đó, các tín hữu cần dựa vào Lời Chúa để củng cố đức tin hầu được chúc phúc như Chúa Phục Sinh đã nói với Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).

- C 18-19:+ Đức Giêsu đến gần: Đến gần là hành động ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa thiên quốc và trần gian mà chỉ Đức Giêsu Phục Sinh mới làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Lúc khởi đầu việc rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã từ chối nhận quyền do ma quỷ hứa ban cho Người trên mọi nước thế gian (x. Mt 4,8-10), thì giờ đây, sau khi đã vâng phục thánh ý Chúa Cha để đi con đường "Qua đau khổ vào vinh quang", Người đã được Chúa Cha ban mọi quyền năng trên trời dưới đất, để ứng nghiệm lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7,14), và quyền bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giêsu để đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội Thánh phải nhân danh Chúa Giêsu mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước tiên là những người Do thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Làm cho người ta trở thành môn đệ Chúa Ki-tô gồm cả việc rao giảng Tin Mừng. Để chu toàn việc này, các môn đệ phải cho họ lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, nghĩa là đặt người dự tòng trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

- C 20:+ Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền: Việc đào tạo người ta nên môn đệ Chúa phải được tiếp tục sau phép rửa qua lời giảng dạy, cho tới khi Hội thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). Vì thế các Tông đồ phải hướng dẫn muôn dân tuân giữ các giới răn của Chúa. Dân của Giao Ước Mới phải sống theo Luật Mới do Chúa Giêsu công bố mà các Tông đồ phải truyền đạt. + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục Sinh hứa sẽ hiện diện mãi trong Hội Thánh để hỗ trợ, giúp Hội Thánh chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận thế. Vì Người chính là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23).

3. CÂU HỎI:

1) Tại sao chỉ còn Mười Một môn đệ có mặt khi Chúa lên trời? 2) Tại sao các môn đệ lại họp mặt tại miền Ga-li-lê? 3) Chúa lên trời trên núi nào? 4) Tại sao các môn đệ bái lạy Đức Giêsu khi Người xuất hiện? 5) Tại sao Tin Mừng nhắc đến thái độ hoài nghi của các môn đệ vào lúc này? 6) Tại sao trước khi lên trời Chúa Giêsu tuyên bố mình được trao toàn quyền trên trời dưới đất?

HỎI 7) Mệnh lệnh thâu nạp môn đồ khắp muôn dân cũng như công thức rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi chính xác đến mức độ nào, đang khi sách Công Vụ Tông Đồ lại cho biết Hội Thánh sơ khai dùng công thức rửa tội “nhân danh Chúa Giêsu” (x. Cv 2,38; 10,48)?

ĐÁP 7):Thực ra, mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc và việc nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong đoạn Tin Mừng Mát-thêu nói trên bắt nguồn tư Chúa Giêsu. Tuy nhiên việc mở rộng sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc đã dần dần được sáng tỏ do tác động của Chúa Thánh Thần (x. Cv 11,15-18). Sau một thời gian sống và rao giảng Tin Mừng, Hội Thánh do kinh nghiệm thực tế đã dần dần hiểu biết trọn vẹn lệnh truyền của Chúa Giêsu và đưa công thức rửa tội nhân danh Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần vào phụng vụ phép rửa. Đến khi biên soạn Tin Mừng thứ nhất (khoảng thập niên 80-90), Mát-thêu được Thánh Thần linh hứng, đã đưa mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi vào lệnh truyền rửa tội của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi lên trời (x. Mt 28,19).

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18b-20).

2. CÂU CHUYỆN:

1) Dùng lời nói để làm chứng cho Chúa:

June là một bé gái 5 tuổi có khuôn mặt đẹp như thiên thần và rất lanh lợi. Cha mẹ em đều là nhà giáo có lòng đạo đức. Mẹ thường đem em đi theo mỗi khi bà có việc phải đi ra ngoài. Một hôm, hai mẹ con dắt nhau vào trong bưu điện thành phố. Đang lúc bà mẹ lo gửi thư bảo đảm cho một người thân, thì bé June chạy chơi loanh quanh gần đó quan sát người ta làm việc. Bấy giờ một ông lão ngồi gần đó thấy bé gái kháu khỉnh dễ thương, liền bắt chuyện làm quen như sau: “Này cháu bé. Cháu có mái tóc đẹp lắm! Mà tại sao mái tóc của cháu lại đẹp đến thế nhỉ?” Cô bé liền vui vẻ trả lời: “Thưa ông, mẹ cháu dạy rằng: Chính Thiên Chúa đã ban mọi sự tốt đẹp cho cháu và cháu phải biết tạ ơn Người nhiều lắm đó!” Nói xong em nhìn thẳng vào mặt ông lão, nhoẻn một nụ cười thật dễ thương và hỏi: “Thế ông đã được Chúa ban cho điều gì tốt đẹp chưa? Ông có đươc Chúa ban ơn cứu độ không?”. Ông lão kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ của cô bé. Ông ngẩn người suy nghĩ giây lát về tình trạng của mình rồi đáp: “Chưa đâu, cháu ạ”. Em bé liền nói: “Thế thì ông phải cầu xin Chúa ban ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông trở thành con của Chúa, và ông sẽ được Chúa biến đổi nên một người mới rất xinh đẹp đó!” Nói xong, bé vội chạy về phía mẹ đang vẫy gọi ở lối đi bên kia. Ít tuần sau, ông lão tìm đến một nhà thờ xin học giáo lý dự tòng. Về sau ông cho biết: chính câu nói đơn sơ của cô bé hôm ấy đã đánh động tâm hồn vốn chai lì của ông, và luôn ám ảnh khiến ông không thể quên được. Cuối cùng ông đã quyết định phải theo đạo để được trở nên con của Thiên Chúa và được biến đổi nên tốt đẹp như em đã nói.

Câu nói của một bé gái tuy đơn sơ nhưng đã có sức mạnh khiến một người già cứng lòng phải suy nghĩ và quay trở về với Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám biểu lộ đức tin trước mặt người khác không? Có dám nói về Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa để họ tin Chúa và đi theo làm môn đệ Người hay không?

2) Lúc cấp bách cần truyền đạt đức tin cách cụ thể:

Trong tác phẩm “Hương rượu mới”, tác giả thuật lại về giờ phút cuối cùng của cha mình như sau: Bấy giờ cha tôi đang hấp hối trên giường bệnh. Trong khi tôi chỉ biết ngồi nhìn cha với tâm trạng chán nản thất vọng, thì một nữ tu Công giáo với dáng người nhỏ nhắn đã bước vào phòng. Chị đi vòng qua bên kia giường cha tôi đang nằm, cầm lấy tay ông đưa lên vỗ nhè nhẹ. Sau đó chị hỏi: “Bác có nghe cháu nói không?” Ông cụ gật đầu. Đoạn chị nói với ông: “Trước đây bác đã tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế chưa?” Ông cụ lắc đầu. Chị nữ tu liền nói: “Bây giờ bác có muốn tin Chúa không?” Ông cụ đáp: “Dạ có”. Thế là chị yêu cầu ông lặp lại theo mình: “Lạy Chúa Giêsu, con tin nhận Chúa là Đấng Cứu Thế của con. Xin Chúa ban cho con được làm môn đệ Chúa và được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa trên trời. Lạy Chúa Giêsu, xin đón nhận linh hồn con”. Ông cụ lặp lại theo từng câu và sau đó từ từ nhắm mắt qua đời.

3. SUY NIỆM:

1) Thế nào là làm chứng cho Chúa?

Làm chứng cho Chúa là giới thiệu Đức Giêsu cho người khác. Muốn giới thiệu Đức Giêsu thì trước hết là phải làm cho đức tin nơi mình được lớn lên nhờ năng tham dự các buổi hiệp sống Tin Mừng với cộng đoàn hằng tuần, năng đến nhà thờ dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng để được kết hiệp với Chúa, năng cầu nguyện bằng lời nguyện tắt…

Mỗi tín hữu đã chịu phép Thêm Sức đều đón nhận được ơn Chúa Thánh Thần để nên trưởng thành về đức tin và chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa Giêsu theo lệnh Chúa truyền trước khi về trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Cụ thể chúng ta cần loan báo Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa, bắt đầu từ những người thân như: chồng vợ, con cái, cha mẹ, anh chị em… Rồi đến những người cùng xóm ngõ, bạn bè, đồng nghiệp … Sau cùng là mọi người nhất là những người bất hạnh, các bệnh nhân, đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa…

2) Phương cách truyền giảng Tin Mừng của Đức Giêsu:

Khi ra giảng đạo, Đức Giêsu đã nhận sứ mạng Thiên Sai từ nơi Chúa Cha khi được Chúa Cha giới thiệu là “Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha” (x. Mt 3,17) và truyền dạy các môn đệ “Hãy vâng nghe lời Người” (x. Mt 17,5).

Người đã thực thi sứ mạng Thiên Sai ấy nhờ kết hiệp với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần: Được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (x. Mt 4,1); Nêu gương cầu nguyện trước khi chọn mười hai Tông đồ (x. Lc 6,12-16). Hằng ngày đi cầu nguyện với Chúa Cha ngay từ sáng tinh sương (x. Mc 1,35).

Người nêu gương khó nghèo “Con Người không có chỗ dựa đầu” (Mt 8,20), ăn ở “hiền hậu và khiêm nhường” (x. Mt 11,29), nêu gương hầu hạ rửa chân môn đệ trước khi dạy bài học yêu thương phục vụ lẫn nhau (x. Ga 13,12-15), và chỉ thị cho các môn đệ cách ứng xử khiêm tôn yêu thương phục vụ khi sai các ông đi thực tập truyền giáo (x. Mt 10,5-42).

Người giảng dạy Tin Mừng trong các hội đường Do thái (x. Mt 13,54), giữa cánh rừng vắng (x. Mt 14,13), ở ven biển hồ (x. Mt 13,1), vừa đi đường vừa giảng như tại Giê-ri-cô (x. Lc 19,1-6), giảng trong bữa tiệc (x. Lc 5,29-32). Người giảng trong các thành thị làng mạc trên đường lên Giê-ru-sa-lem (x. Lc 13,22), và tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem (x. Ga 10,22-30)…

Người trình bày giáo lý bằng những ví dụ cụ thể thường ngày là các dụ ngôn để diễn tả các mầu nhiệm cao siêu về Nước Trời (x. Mt 13,3-52). Người giảng dạy như Đấng có thẩm quyền (x. Mt 7,29).

Người rao giảng Tin Mừng Nước Trời kèm theo việc làm phép lạ cứu nhân độ thế như: xua trừ ma quỷ và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyện trong dân (x. Mc 1,21-22.32-34), quan tâm đáp ứng nhu cầu tinh thần và thể xác của dân chúng và đòi môn đệ cộng tác vào phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,15-18).

Nhờ rao giảng theo phương cách bác ái cụ thể như vậy mà Đức Giêsu đã được dân chúng tin theo rất đông, thể hiện ra khi Người khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem (x. Mt 21,10-11).

3) Phương cách hữu hiệu làm chứng cho Chúa hôm nay:

Ngày nay để làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu, mỗi tín hữu cũng cần học tập phương cách truyền giáo của Đức Giêsu. Cụ thể làm những việc như sau:

- Cầu nguyện để xin ơn trợ giúp: Muốn làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu trước hết phải cầu nguyện như lời Đức Giêsu dạy: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2). Phải cầu nguyện xin ơn Chúa giúp vì đây là việc làm vượt khả năng tự nhiên giới hạn của chúng ta, như lời Chúa Giêsu đã nói trong diễn từ giã biệt: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

- Nêu gương sống tốt lành thánh thiện: chúng ta còn phải tỏa hương thơm nhân đức, có thái độ ứng xử hiền hòa nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân, biết quên mình để nghĩ đến người khác, khiêm tốn phục vụ người nghèo như phục vụ chính Chúa Giêsu. Nhất là các vị chủ chăn cần ý thức mình là hiện thân của Đức Giêsu trước mặt lương dân, nên cần noi gương hiền hậu bao dung và khiêm tôn phục vụ khi làm các thủ tục về hôn phối giữa tín hữu đạo gốc với tân tòng hay phép chuẩn khác đạo, hoặc trong thánh lễ có người lương tham dự… Chính thái độ bao dung nhân hậu và thánh thiện thanh thoát của các vị mục tử sẽ gây ấn tượng tốt và giúp người lương hiểu đúng về đạo công giáo và dễ tin theo Chúa sau này.

- Quảng bá văn hóa đức tin công giáo: Làm chứng cho Chúa bằng phương tiện truyền thông xã hội như lập nhiều website Công Giáo nội dung phong phú và có uy tín, xuất bản các sách truyện tranh Kinh thánh, truyện các thánh, sách hộ giáo nghắn gọn dễ hiểu để giải tỏa các thắc mắc về đức tin, luân lý công giáo… Trao tặng các cỗ tràng hạt kèm theo sách hướng dẫn lần hạt Mân côi kèm theo Lời Chúa và lời cầu trước mỗi mầu nhiệm Vui Sáng Thương Mừng khi lầm hạt mân côi…

- Chủ động đi bước trước đến với tha nhân: Mỗi người cần làm chứng cho Chúa bằng việc chủ động mỉm cười làm quen với người mới gặp, lắng nghe những người đau khố tâm sự hoàn cảnh để cảm thông và khôn ngoan đáp ứng theo khả năng giới hạn của mình… Chọn một người chưa biết Chúa, một gia đình lương mình quen biết để cầu nguyện cho họ …

- Lời rao giảng phải đi đôi với việc bác ái cụ thể: Ngoài việc làm chứng cho Chúa bằng việc trình bày về Chúa, Hội thánh ngày nay còn chú trọng làm việc bác ái cụ thể như: Cứu trợ thiên tai lũ lụt, mở cô nhi viện, nhà nuôi người già, giúp người khuyết tật, mở lớp học tình thương, mở các đợt khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho người nghèo vùng sâu vùng xa, mở bữa ăn miễn phí cho người hành khất hay quán cơm phục vụ giá rẻ cho người lao động v.v… Ngoài ra về mặt xã hội, Hội Thánh cũng khuyến khích các tín hữu tích cực tham gia làm công tác xã hội với các người thiện chí như: Dọn vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh, hiến máu nhân đạo để cứu người bị tai nạn, góp phần đẩy lùi và loại trừ các tệ nạn xã hội như cờ bạc, hút chích sì-ke, đĩ điếm, say xỉn ra khỏi khu vực…

TÓM LẠI: Nhờ các việc bác ái cụ thể được thực hiện trong sự khiêm tốn yêu thương vô vụ lợi, mà Tin Mừng Nước Trời sẽ tỏa sáng, giúp cho nhiều anh em lương dân nhận biết chúng ta thực là môn đẹ Chúa Giêsu và tôn vinh Thiên Chúa Cha chúng ta ở trên trời như lời Đức Giêsu: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

4. THẢO LUẬN: 1) Theo bạn, các công tác bác ái từ thiện noi gương Đức Giêsu như: chia sẻ cơm áo gạo tiền cho những người nghèo đói bệnh tật… có hữu hiệu trong xã hội hiện nay không? Tai sao? 2) Bạn có kinh nghiệm nào để giới thiêu Chúa cách hữu hiệu cho người bên cạnh trong một chuyến đi xa, hay một bệnh nhân nằm chung phòng tại bệnh viện …?

5. NGUYỆN CẦU:

- Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng con mừng lễ Chúa về trời. Trời đích thực là quê hương của chúng con, là nơi chúng con luôn hướng về. Tuy nhiên, trong bài Sách Thánh hôm nay, thiên thần lại nói với các môn đệ: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11). Qua đó, Chúa muốn dạy rằng: điều quan trọng nhất các ông phải làm bây giờ là tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Giêsu, bằng việc loan Tin Mừng “bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Làm chứng trước hết bằng sự rao giảng Tin Mừng Nước Trời với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng con cũng có thể làm chứng bằng những hành động bác ái yêu thương, bằng sự khiêm nhường phục vụ, bằng việc quảng đại cho đi, bằng việc hy sinh bản thân vì lòng mến Chúa và yêu tha nhân... Xin giúp chúng con chu tòan sứ mạng ấy trong cuộc sống đời thường của chúng con.

- Lạy Chúa. Chúng con thường hay cho tằng: “Tôi phải lo cái ăn cái mặc cho bản thân và gia đình tôi trước đã! Tôi không có khả năng trình bày về Chúa cho người khác! Tôi không có thì giờ …” Đang khi Chúa dạy chúng con: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Vậy xin Chúa giúp chúng con hôm nay đừng quá lo cơm áo vật chất cho bản thân hay gia đình, nhưng phải biết lo việc của Chúa và phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng. Xin Chúa giúp chúng con biết làm lợi gấp năm gấp mười nén vàng đức tin mà Chúa đã ban cho chúng con, để nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa thương xét xử khoan dung và nói với chúng con: “Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21).

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

home Mục lục Lưu trữ