Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 38

Tổng truy cập: 1361156

Lễ Kính Các Thánh Nam Nữ

Cập nhật : 01-11-2011
 

Lễ kính các thánh nam nữ

 

          Khi nói “Nên thánh” chúng ta thấy ngay ý nghĩa năng động của nó : con người ta không phải thánh, nên phải làm cho nó trở nên thánh. Điều đó chứng tỏ ra nên thánh là điều cần thiết và là điều có thể.  Mọi người phải nên thánh theo lờiThiên Chúa phán với dân riêng của Ngài :”Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Ta là Đấng thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta” (Lv 20,26). Sách Khải huyền cũng thêm :”Ai đã nên thánh, hãy gắng nên thánh hơn” (Kh 22,11).

 

I. MỌI NGƯỜI ĐƯỢC MỜI GỌI NÊN THÁNH .

 

          1. Ơn gọi chung.

 

          Trong Giáo hội, mỗi người được Chúa gọi hoặc ở một bậc hoặc ở một địa vị nào đó... nhưng có một ơn kêu gọi chung, cho tất cả mọi người, từ trên xuống dưới, từ Đức Giáo hoàng cho đến người rốt cùng trong hàng giáo hữu, đó là ƠN GỌI NÊN THÁNH.  Chúa gọi tất cả mọi người chúng ta nên thánh. Ngay từ đạo cũ, quen gọi là đạo ông Moisen Chúa đã truyền cho họ phải nên thánh :”Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng thánh” (Lv 20,26). Thế rồi trong đạo mới, chúng ta thấy Chúa Giêsu căn dặn chúng ta bằng những lời lẽ còn thống thiết hơn :”Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).  Thánh Phaolô thu tóm lại tất cả trong câu vắn tắt này :”Thánh ý Chúa là  muốn cho anh em nên thánh” (Ep 1,4). Ngài còn khuyên bảo thêm :”Anh em phải sống xứng đáng là các vị thánh” (Ep 5,3).

 

          2. Giáo huấn của Giáo hội.

 

          Trong Hiến chế tín lý về Giáo hội, công đồng Vatican II dạy :

“Chúa Giêsu, thầy dạy và mẫu mực thần linh của mọi sự trọn lành, đã giảng dạy

cho tất cả và cho mỗi một môn đệ, bất luận thuộc cảnh vực nào, một đời sống thánh

mà chính Người vừa là Đấng ban phát, vừa là Đấng hoàn tất :”Vậy các con hãy trở

nên trọn lành như Cha các con ở trên trời”(Mt 5,48)... Cho nên, với ơn Chúa, họ

phải luôn gìn giữ và hoàn thành trong đời sống sự thánh thiện mà họ đã lãnh nhận.

Họ được thánh Tông đồ khuyên  “sống xứng đáng” như những vị thánh...(LG , 40).

 

          3. Ý nghĩa từ ngữ nên thánh.

 

          Theo ngôn ngữ semita danh từ qodès có nghĩa là vật thánh, sự thánh thiện. Danh từ này xuất phát từ một ngữ căn có nghĩa là “cắt, tách rời” và muốn  nói lên ý tưởng tách rời khỏi cái phàm tục. Vật thánh là vật người ta không dám chạm đến hoặc chỉ đến gần sau khi hoàn tất  một vài điều kiện vềø sự trong sạch theo nghi thức.  Dân tộc Israel được tuyển chọn, nên được tách riêng khỏi chư dân để trở thành vật sở hữu riêng của Thiên Chúa, dân tư tế, “dân thánh” .Với một tình yêu bao la, Thiên Chúa đến sống và đi giữa dân Ngài (Xac 33,12-17)

 

          Trong Cựu ước, tiếng “thánh” khi dùng một mình, có một nghĩa đặc biệt; nó được dành để chỉ những kẻ được tuyển chọn thời cánh chung . Còn trong Tân ước, nó chỉ người Kitô hữu. Khởi thủy, nó được dùng để gọi những thành phần của cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem, và đặc biệt, nhóm người của ngày Lễ Ngũ tuần (Cvsd 9,13; 1Cr 16,1; Ep 3,5), sau được nới rộng để chỉ các anh em ở Giuđêa (Cvsđ 9,31-41), rồi chỉ tất cả mọi Kitô hữu

 

          Sự thánh thiện của người Kitô hữu, bắt nguồn từ việc được tuyển chọn (Rm 1,7; 1Cr 1,2), đòi buộc họ phải đoạn tuyệt với tội lỗi, họ phải hành động theo sự thánh thiện đến từ Thiên Chúa, chứ không theo sự khôn ngoan xác thịt (2Cr 1,12; x. 1Cr 6,9tt; Ẽp 4,3)

 

II. NÊN THÁNH LÀ CẦN THIẾT VÀ CÓ THỂ.

 

          1. Nên thánh cần thiết.

 

a)    Theo Cựu ước.

 

          Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Israel là dân riêng của Ngài nên Ngài buôc họ phải nên thánh :”Các ngươi phải nên thánh, vì Ta là Đấng thánh “ (Lv 20,26) .   Israel phải đáp lại sự tuyển chọn của Thiên Chúa. Đấng muốn họ phải nên thánh, bằng cách tự thánh hoá mình.

 

          Trước tiên họ phải thanh tẩy mình, nghĩa là phải rửa sạch mình mọi tỳ ố không phù hợp với sự thánh thiện của Thiên Chúa, trước khi dự những buổi thần hiến hay tham gia vào việc phụng tự (Xac 19,10-15). Nhưng rút cục chỉ một mình Thiên Chúa mới ban cho họ sự trong sạch, nhờ máu của hy lễ (Lv 17,11) hay bằng cách thanh tẩy tâm hồn họ (Tv 51).

 

          Các ngôn sứ và sách đệ nhị luật đã không ngớt lặp đi lặp lại rằng các hy lễ đền tội không đủ sức làm vừa lòng Thiên Chúa nhưng cần phải có sự công chính, vâng lời và tình yêu (Is 1,4-20,

Đnl 6,4-9).  Như vậy giới luật :”Hãy nên thánh vì Ta, Giavê là Đấng thánh” (Lv 19,2; 20,6) không những muốn nói đến một sự trong sạch phụng tự mà còn phải hiểu là một sự THÁNH THIỆN SỐNG chiếu theo nhiều huấn giới về gia đình, xã hội và kinh tế, cũng như về nghi thức, được ghi lại trong các bộ luật (td Lv 17-26).

 

                   b) Theo Tân ước.

 

          Đức  Giêsu là Đấng thánh. Sự thánh thiện của Đức Kitô liên kết mật thiết với tử hệ thần linh của Ngài và với sự hiện diện của Thần khí trong Ngài : được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, Người  là thánh và sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Lúc chịu phép rửa của Gioan “Con rất yêu dấu “ nhận sự xức dầu của Chúa Thánh Thần (Cvsđ 10,38; Lc 3,32). Người xua đuổi thần ô uế, và chúng đã xưng Người là “Đấng thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24; 3,11)... Sự thánh thiện của Đức Giêsu đồng nhất với sự thánh thiện của Thiên Chúa, Cha chí thánh Người (Ga 17,11).

 

          Ngày nay những người đã được chịu phép rửa tội tức là các Kitô hữu được gọi là các thánh (Rm 16,2; 2Cr 1,1; 13,12). Sự thánh thiện của người Kitô hữu bắt nguồn từ việc được tuyển chọn một cách nhưng không của Chúa đòi buộc họ phải đoạn  tuyệt với tội lỗi, sống trong sạch để đáp lại sự thánh thiện của Thiên Chúa.

 

c)     Theo đòi hỏi tự nhiên.

 

Người ta thường nói : “nhân vô thập toàn”, không ai là người không có lỗi hoặc nhiều hoặc

ít, hoặc lớn hoặc nhỏ.

          Thánh Gioan tông đồ nói :”Ai nói mình không có tội, đó là kẻ nói dối và sự thật không có ở trong họ” (x.1Ga 1,10)

          Thánh Phaolô tông đồ cũng tự thú :”Tôi ăn ở như một người ngu, còn sự lầm lạc của tôi thì vô kể” (Ep 4,11)

          Ông Elbert Hubbard nói :”Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong 5 phút mỗi ngày. Bậc thánh là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt quá thời hạn ấy”.

 

                             Truyện : học làm người.

          Một gãcôn đồ đến chất vấn một nhà tu hành :

          - Tôi xin ông giải thích điều này : tại sao trong cuộc sống, không ai dạy thú vật làm thú vật, chẳng hạn như chẳng ai dạy chó làm chó, ngựa làm ngựa, heo làm heo... mà ông lại cực nhọc đứng ra để dạy người ta làm người ?  Tại sao thú vật không ai dạy mà chúng biết làm thú vật, còn người tại sao nếu không dạy thì không biết làm người ?

          Nhà tu hành trả lời :

          - Con người có hai phần hợp lại : một là thú vật, hai là thiên thần. Nếu không ai nhắc nhở thì nhiều kẻ quên bản tính của mình, có kẻ thích làm thú vật, mà cũng có người ưa thích làm thánh.

 

          Câu trả lời của nhà tu hành phù hợp với lời nói của nhà đại tư tưởng Blaise Pascal:”Con người không phải là một vị thiên thần, cũng không phải là một con vật, và kẻ nào muốn làm thiên thần, lại làm con vật” (L’homme n’est ni ange, ni bête, et qui veut faire l’ange fait la bête). Câu này có ý nói : con người đâu phải hoàn toàn là bậc thánh, cũng đâu phải hoàn toàn là con vật. mà vừa là thánh, vừa là vật. Cho nên đề cao cái ông thánh của mình mà không nghĩ đến hoặc phủ nhận sự hiện diện của con thú trong lòng mình, không khéo kẻ ấy lại bị sa vào cảnh chỉ trở thành một con thú đáng thương hại. Phải thật biết mình, biết cái sở trường sở đoản của lòng mình thì mới khỏi sa vào chỗ lầm lạc vì đã quá khinh thường con thú trong lòng mình...

                   (Báo Trách Nhiệm, số 14, năm I, tr 14)

 

          2. Nên thánh là điều có thể.

 

          Việc Chúa đã mời gọi ta nên thánh chứng tỏ việc nên thánh là điều có thể.  Trong phạm vi triết học, chúng ta đã học nguyên tắc bất hủ này : Nemo ad impossibile tenetur : không ai buộc làm điều không có thể.  Khấn với Chúa một điều không có thể, lời khấn không thành.  Một cuộc ưng thuận hôn nhân đòi hỏi một điều kiện không thể thực hiện được, không thành hôn nhân.

 

          Theo nguyên tắc này, nếu ta không nên thánh được, thời hoặc là Chúa không buộc (điều đó không đúng), hoặc là Chúa buộc vào cổ ta một ách không thể vác đuợc, điều đó trái với lòng lân mẫn và nhân hậu của Chúa, của Đấng đã phán :”Ách của Ta thì êm ái, gánh của Ta thì nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Điều đó còn trái luân lý, và phá hủy trách nhiệm, vì chỉ có trách nhiệm, khi nào điều tôi có thể làm tôi lại không làm.

                   (Trần văn Hiến Minh, Sứ mệnh Linh mục, 1958, tr 49-50)

 

                             Truyện : rất dễ nên thánh

          Ngày kia, cha Dan nói truyện với một thợ nhà in, Ngài nói :

-          Con có bao giờ nghĩ rằng mình phải nên thánh không ?

-   Thưa cha, con không bao giờ dám nghĩ như vậy vì nên thánh khó lắm. Cha xem : từ sáng

đến tối, con phải sắp chữ in, con không có thời giờ để nghĩ đến việc nên thánh.

-          Con đừng lầm, nên thánh có gì khó đâu. Không cần phải làm gì lạ để nên thánh. Khi

con sắp chữ, con sắp chữ vì Chúa, vì lòng kính mến Chúa là đủ.

-          Dạ, để con thử xem.

Vài ngày sau, người thợ đến tìm cha Dan :

-          Lạy cha, bây giờ con mới biết : nên thánh không khó như con đã tưởng.

(Nguyễn hài Đồng, Từ điển câu  truyện, 1969, tr 82-83)

 

          Nếu bạn sống ở Galilée, đời Hêrođê hay Augustô, chắc một buổi chiều nào đó, bạn đã gặp người thợ mộc khoác tấm áo mầu cam, đang trở về nhà. Đó là thánh Giuse Nagiaret.

          Nếu bạn sống gần biển hồ Tibériade, bạn đã thấy những bác ngư phủ vá lưới, bàn tán về mẻ lưới hôm truớc, giữa mùa cá : đó là Phêrô và Anrê.

          Nếu bạn sống ở Corinthe dưới đời trấn thủ Gallion, hẳn bạn đã gặp một người Do thái, mảnh khảnh làm nghề đan bạt : đó là Phaolô thành Tarse.

          Hẳn bạn đã thấy ở Roma, đời Dioclétien hai y sĩ mới ở Ả rập tới, đang đi tìm khách hàng : đó là Cosme và Damien.

          Nếu bạn đã sống ở miền bắc của nước Ý vào hồi thế kỷ 16, hẳn bạn đã gặp thấy một thanh niên con nhà quyền qúi rất đơn giản và chăm chỉ, đó là Louis Gonzague.

          Nếu những lúc đó người ta bảo bạn : Họ sẽ là Thánh đấy... liệu mà thờ... bạn có tin không ?

          Như thế mà là thánh được : một người đàn ông, một người nhà quê, một thư sinh, nhưng đã được thánh sủng cải hoá. Chúng ta đều có thể nên thánh cả,  và đừng nên quên rằng chúng ta PHẢI nên thánh nữa đó ! (J.E.C).

                             (Lm Ducasse, cuộc đời chiến đấu, 1959, tr 290-291)

 

          Vườn hoa của Giáo hội phô muôn sắc mầu. Mỗi vị thánh là một bông hoa với một mầu sắc đặc biệt, không thiếu một hương vị hay một mầu sắc nào. Điều đó chứng tỏ rằng : Chúa đã kêu gọi mọi người nên thánh và đã có rất nhiều người nghe theo tiếng Chúa.

 

          Thánh nữ Têrêsa Hài đồng cũng có cái nhìn như thế khithánh nữ viết :”Chúa mở ra trước mắt con quyển sách thiên nhiên là phong cảnh trời đất. Ngắm cảnh thiên nhiên, con nhận thấy rằng tất cả những hoa Chúa dựng nên đều xinh đẹp hết, mầu hồng hoa Mân côi và sắc trắng phau phau hoa huệ không át được mùi thơm hoa má tím, cũng không làm mất vẻ đơn sơ xinh tươi hoa cúc tây. Phải rồi, nếu tất cả những hoa ti tí ấy lại muốn làm hoa hồng cả, thì cảnh thiên nhiên sẽ mất vẻ đẹp lý thú mùa xuân, các cánh đồng sẽ chẳng còn muôn hoa rực rỡ nở.

          Ấy cảnh trời thiêng liêng của giới linh hồn cũng thế.

          Trong vườn sống này, Chúa dựng nên những vị đại thánh để sánh với hoa huệ, hoa hồng. Chúa lại dựng nên những thánh nhỏ, giống như hoa cúc đơn, hoa má tía để Chúa vui lòng lúc nhìn xuống chân thấy cảnh trời đất tưng bừng đẹp đẽ...

          Hoa nào càng vui theo thánh ý Chúa, càng nên trọn lành tốt đẹp.

                    (Thánh nữ Têrêsa – Kim Thiếu, Một tâm hồn, 1960, tr 12)

 

          Chúng ta thấy trong vườn hoa của Giáo hội có đủ mọi loại thánh nhân. Tuy mỗi người nên thánh một cách, nhưng điều chắc chắn là tất cả đã được Chúa mời gọi nên thánh ngay từ lúc mới mở mắt chào đời. Chúa đã soi sáng cho Giáo hội đưa lên bàn thờ đủ mọi hạng thánh. Thánh Talbot là một phu khuân vác, thánh Isodore là một nhà nông, thánh Phaolô ở Verdum làm bánh mì, thánh Crépin thợ đóng giầy, thánh Alexandre ở Comane làm than, thánh Euphrosynos làm bếp, thánh Antonin làm thợ nề... Và còn biết bao nhiêu thánh khác trong hàng giáo phẩm,giáo sĩ, tu sĩ và trong các bậc khác.        

                   (Nguyễn hài Đồng, Tự điển câu truyện, 1969, tr 83)

 

IV. ĐIỀU KIỆN NÊN THÁNH.

 

1.     Phải biết ước muốn.

 

Nên thánh tuy là một việc rất dễ nhưng cũng rất khó, vì nó đòi chúng ta phải cố gắng luôn

luôn, giống như con thuyền lội ngược dòng nước, ngơi tay chèo thì con thuyền sẽ lui.  Nên thánh là một cuộc chiến đấu trường kỳ với chính con người của mình, một sự ước muốn mãnh liệt, một ý chí cao .  Tục ngữ Tây phương có câu :”vouloir c’est pouvoir” (muốn là được) , nên chúng ta cũng có thể nói : muốn nên thánh thì có thể nên thánh được.

 

          Bạn nói bạn muốn, muốn chứ không phải ước, muốn nghĩa là tiến tới hành động, nhất định thành công mới thôi. Thánh Francois de Sales nghe tin phong thánh Francois Xavier liền nói :

-          Đó là thánh Francois thứ ba, tôi sẽ là Francois thứ bốn.

Qủa thực, bây giờ trong hạnh hiển thánh công giáo, ngài là thánh Francois thứ bốn.  Đấy bạn thấy hiệu lực phi thường của hai tiếng “TÔI MUỐN” chưa ?

 

Bạn quên sao cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ để tiêu diệt bầy ngoại xâm Tôn sĩ Nghị. Thấy núi Alpes đầy tuyết lạnh thấu xương, ai không bảo rằng qua không nổi. Nhưng Annibal đã nói :”Tôi sẽ qua núi Alpes” và ông  đã thành công.  Vậy từ đây, trong bất cứ việc gì khi suy nghĩ kỹ rồi bạn sẽ nói “Tôi muốn, tôi muốn thành công”.

                   (Hoàng xuân Việt, Rèn nhân cách, 1971, tr 116)  

 

2.     Phải biết mình.

 

Muốn nên thánh phải thắng chính con người mình, phải  làm chủ nó, bắt nó phải theo  một

kỷ luật và hướng nó vào một mục đích cao đẹp. Muốn thắng được mình, cần phải biết mình trước đã vì “vô tri bất mộ” mà.

 

          Trong binh pháp, Tôn Tử đã đưa ra một nguyên tắc căn bản :”Tri kỷ tri bỷ bách chiến bách thắng” : biết mình biết người thì trăm trận trăm thắng.  Biết mình để mình không kiêu, không khinh thường, biết người để đo sức mình.

 

          Socrate, một hiền triết Hy lạp, đã  mở đầu triết thuyết của mình bằng câu châm ngôn :”Connais-toi, toi même” : anh hãy tự biết mình. Câu châm ngôn này của Socrate đã đi ngược lại với chủ trương của phái Nguỵ biện, họ cho rằng họ biết tất cả mọi cái trong vũ trụ, họ có thể giải đáp được mọi câu hỏi, mọi thắc mắc. Nhưng thực sự, họ chẳng biết gì, họ chỉ dùng  ba thấc lưỡi để phỉnh gạt thiên hạ. Sau này chính Pascal, một nhà đại tư tưởng, cũng phải nói rằng :”Tôi chỉ biết một điều là tôi chẳng biết gì cả”(Je ne sais q’une chose, c’est que je ne sais rien).

 

3.    Phải thắng chính mình.

 

Muốn nên thánh, phải làm chủ được mình, nghĩa là phải thắng được chính mình. Thắng

được mình là một chuyện khó. Chính hoàng đế Napoléon đã có kinh nghiệm này khi ông nói :”Thắng được cả Âu châu còn dễ hơn thắng được chính  bản thân mình”.  Nên thánh thì phải biết những nết xấu để sửa, biết những cái hay để mà tập luyện hay dinh dưỡng.   T

 

          Thánh Phaolô đã thúc giục tín hữu Êphêsô hãy làm một cuộc cách mạng bản thân :

                             “Hãy lột bỏ con  người cũ

                             Mặc lấy con người mới.

                             Hãy để Thánh Thần Thiên Chúa

                             canh tân đến tận tâm linh của anh em”.

                                      (Eph 4,22,24)

          Theo ý thánh Phaolô, chúng ta cần gột bỏ con người cũ  tội lỗi để mặc lấy con người mới thánh thiện. Vậy phải lột bỏ con người cũ là lột bỏ cái gì ? Đây là lột bỏ các tính hư nết xấu đang chi phối con người ta, làm cản bước đường tiến của ta, bắt ta làm nô lệ cho chúng.

 

                             Truyện : thầy dòng dạy mãnh thú.

          Một buổi chiều, Bề trên nhà dòng kia hỏi một tu sĩ :

-          Hôm nay con đã làm gỉ ?

Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lởi :

- Thưa cha, con rất bận bịu mà

 
Nguồn : gxnl 

home Mục lục Lưu trữ