Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 47

Tổng truy cập: 1360621

LỜI KINH GẦN GŨI CUỘC SỐNG

LỜI KINH GẦN GŨI CUỘC SỐNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Phụng vụ bước vào tháng Mân côi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng” qua từng lời kinh chuỗi hạt Mân côi. Tràng hạt Mân côi là một hành trang và là phương tiện “bỏ túi”, “đeo tay” “đeo cổ” gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mân côi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới sự sống thiêng liêng.

Chuỗi Mân Côi trong tiếng Latinh là “rosarium” nghĩa là “vườn hoa hồng”. Tháng 10, lần hạt Mân côi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Đức Mẹ. Bằng chuỗi Mân côi, Giáo hội trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.

  1. Kinh Mân côi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng

Chuỗi Mân côi thật cao quí, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.

Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.

Thế kỷ 16, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.

Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.

Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.

Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan… Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.

Tạp chí Reader’s Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêxa Calcutta và một thương gia người Mỹ như sau:

 Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi: – Anh có thường lần chuỗi không?

Anh trả lời:– Thưa không.

Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói: – Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.

Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một nữ tu đích thực của Chúa”.

Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết bà đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói: – Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị.Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ cho người khác. Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng: – Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu.Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy.

Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến”.

Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gõ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau: – Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác.

  1. Kinh Mân côi, một kho tàng quý giá của Giáo hội.

Chuỗi hạt Mân côi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính mừng là “…lời ca tụng Đức kitô không ngừng. Đức Kitô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ…” (ĐGH Phaolô VI, Rosamrum Virginis Mariae, số 18).

Chuỗi Mân côi lần lượt diễn tả:

–         Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.

–         Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.

–         Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu.

–         Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang phục sinh của Đức Kitô.

Vì thế, Chuỗi Mân côi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Giáo hội.

Thánh Gioan Phaolô II nói: “ Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…”.

Đức Thánh Cha Lêô XIII là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mân côi. Ngài đã thiết lập tháng Mân côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.

Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chỗi Mân côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”.

Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân côi”.

Cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”.

Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ: hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.

Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo: Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.

 

Đức Thánh Cha Piô XI viết:Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.

 

Đức Thánh Cha Piô XII khuyên nhủ các bạn trẻ : Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục :

– Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết : Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.

Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.

Thánh Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.

Thánh Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”.

Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.

Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua kinh Mân côi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả một trăm năm mươi lần, như một trăm năm mươi đóa hoa hồng dâng kính Mẹ, như lời Đức Giáo Hoàng Piô V đã nói: “Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các thánh vịnh của Đavít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.”.

  1. Kinh Mân côi, lời kinh gần gũi cuộc sống

Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân côi”, một lần nữa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.

Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mân côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.

Đức Giáo hoàng Phaolô VI khích lệ: “Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa.”.

Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào : khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh … thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.

Kinh Mân côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.

Kinh Mân côi là một kinh quý báu của Giáo hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.

.

22.                        Chuỗi Ngọc Vàng Kinh

Trầm Thiên Thu

Mai Côi, Chuỗi Ngọc Vàng Kinh

Thắm đượm thiên tình Mẫu Tử thiêng liêng

Kính mừng Vô Nhiễm Tội Nguyên

Xin thương nâng đỡ phận hèn chúng nhân

Về ngữ nghĩa, Mai Côi còn được đọc là Mân côi, Văn côi, Mai Khôi, Môi Khôi (*). Lễ Đức Mẹ Mai Côi có nguồn gốc là lễ Đức Maria Chiến Thắng, do Đức Piô V (1566-1572) thiết lập để kỷ niệm cuộc thắng trận của đội hải thuyền Công giáo đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại vịnh Lépante ngày 7-10-1571. Năm 1573, Đức Grêgôriô XIII (1572-1585) nâng lên hàng lễ buộc cho giáo phận Rôma và các Hiệp hội Mai Côi. Đức Clêmentê IX (1667-1669) đưa lễ này vào Lịch Phụng Vụ và cử hành vào Chúa Nhật đầu tháng Mười theo đề nghị của Dòng Đaminh.

Năm 1716, sau chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Temeswar và Corfu ở ven biển Hy Lạp, các giáo hữu gọi Đức Mẹ là Mẹ Chiến Thắng, và rồi Đức Clêmentê XI (1700-1721) truyền cho khắp Giáo hội đặc biệt mừng lễ Mẹ Mân Côi hàng năm. Ngày 11-9-1887, Đức Lêô XIII (1810-1903) nâng lễ Đức Mẹ Mai côi lên bậc nhì với Thánh Lễ và Kinh Phụng Vụ theo phụng vụ Dòng Đaminh. Ðức Lêô XIII (1878-1903) phổ cập việc đạo đức này khắp thế giới qua Thông điệp “Supremi Apostolatus Officio” (Sứ vụ Tông đồ Cao cả) đề cao việc lần chuỗi Mai Côi trong tháng Mười, và tháng Mười đã trở thành tháng Mai Côi kính Đức Mẹ. Và sau đó, Đức Piô X (1903-1914) lại ấn định mừng lễ Đức Mẹ Mai Côi vào ngày 7-10 như trước.

Ngày 16-10-1978, khi xuất hiện lần đầu tiên trước công chúng trên cương vị Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II (1978-2005) đã phó thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ và gọi Kinh Mân Côi là “lời kinh kỳ diệu”. Ngài lần chuỗi Mai Côi hàng ngày, và ngài đã đề cao giá trị của Kinh Mai Côi qua Tông thư “Rosarium Virginis Mariae”.

Đặc biệt hơn cả là chính Ðức Trinh Nữ Maria đã tự xưng là “Đức Mẹ Mai Côi” tại Fatima vào ngày 13-10-1917 khi Đức Mẹ nhắn nhủ: “Hãy lần Chuỗi Mai Côi hàng ngày. Hãy cầu nguyện nhiều và dâng các hy sinh để cầu nguyện cho các tội nhân. Ta là Mẹ Mai Côi. Chỉ có Ta mới có thể cứu các con. Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ chiến thắng”.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng Đức Mẹ muốn con cái tôn kính Người trong tháng Mười, tháng biệt kính Kinh Mai Côi. Theo truyền thống Công giáo, trước đây Kinh Mai Côi gồm 3 Mầu nhiệm (gọi là “mùa” hoặc “năm sự”): Vui, Thương và Mừng. Từ năm 2002, Đức Gioan Phaolô II thêm Mầu nhiệm Sáng. Ngài nói: “Kinh Mai Côi là mầu nhiệm của các mầu nhiệm. Lần chuỗi Mai Côi là giao phó những gánh nặng cho Thánh Tâm Thương Xót của Chúa Kitô và Đức Mẹ”.

Trình thuật Cv 1:12-14 cho biết: “Các Tông đồ từ núi Ô-liu trở về Giêrusalem. Núi này ở gần Giêrusalem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày sa-bát. Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phêrô, Gioan, Giacôbê, Anrê, Philípphê, Tôma, Batôlômêô, Mátthêu, Giacôbê – con ông Anphê, Simôn – thuộc nhóm Quá Khích, và Giuđa – con ông Giacôbê. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria – thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu”.

Thời đó chưa có Kinh Mân Côi, vì thế không có gì liên quan. Nhưng sách Công vụ Tông đồ cho thấy sự “đồng tâm nhất trí” và “sự cầu nguyện chuyên cần” của các Tông đồ cùng với một số phụ nữ nhiệt thành lo việc đạo đức, trong đó có Đức Mẹ và thân nhân của Chúa Giêsu. Thời gian đó, Chúa Giêsu mới chịu chết và phục sinh, ai cũng sợ người ta bách hại – nhất là những người có liên hệ với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, sự cùng nhau cầu nguyện đã giúp mọi người an tâm và tin tưởng vào Thiên Chúa.

Khi đọc Kinh Mai Côi chung với nhau – chí ít cũng là hai người, rất cần sự đồng tâm cầu nguyện. Đọc Kinh Mai Côi không chỉ là suy niệm các mầu nhiệm, tôn vinh Thiên Chúa và chúc tụng Đức Mẹ, mà còn liên quan “thực tế” về sự liên hệ với nhau. Khi đó, người này phải biết lắng nghe và chờ đợi người kia. Hai động thái đơn giản nhưng cần thiết, điều đó nhắc nhở chúng ta cũng phải biết lắng nghe và chờ đợi nhau trong cuộc sống thường nhật. Đó chính là động thái của tình yêu thương. Không yêu thương thì không thể đồng tâm nhất trí. Quả thật, Kinh Mai Côi kéo chúng ta đến gần với nhau hơn – cả tinh thần lẫn thể lý.

Thánh Phaolô cho biết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4:4-5). Người phụ nữ được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa đó chính là Đức Trinh Nữ Maria, một “Nữ tỳ Vĩ đại”. Và nhờ đó, chúng ta được trở thành con cái của Thiên Chúa và của Đức Mẹ.

Thật vậy, Thánh Phaolô giải thích: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Áp-ba, Cha ơi!’. Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa” (Gl 4:6-7). Trên cả tuyệt vời, chúng ta chẳng biết diễn tả niềm hạnh phúc đó như thế nào, vì niềm hạnh phúc đó quá lớn lao, vượt ngoài trí tuệ của những người thông minh nhất thế gian này!

Tin Mừng hôm nay là trình thuật Lc 1:26-38, nói về cuộc Truyền Tin. Đây là Đại Hỉ Tín của nhân loại.

Sứ thần Gáprien vào nhà chào Trinh Nữ Maria bằng một câu chúc: “Mừng vui lên, hỡi Người đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Cô”. Nghe lời ấy, Thôn Nữ Maria “hết hồn”. Cô bối rối vì chả hiểu ất giáp gì: “Sao kỳ vậy ta?”. Sứ thần biết Cô Maria “ngại” lắm nên trấn an ngay: “Cô Maria ơi, xin đừng sợ, vì bà Cô đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Cô sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.

Lại càng kỳ dữ nghen! Cô Maria nghiêm túc thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Sứ thần vừa cười hiền vừa trầm giọng: “Này, cứ an tâm. Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Cô, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Cô, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Rồi Sứ thần dẫn chứng cụ thể: “Cô biết không, Chị Êlisabét, người họ hàng với Cô đó, tuy lớn tuổi rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai đấy. Chị ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.

Nghe vậy, Cô Maria thở “phào”, nhẹ cả người, và rồi nhỏ nhẹ nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Lời “xin vâng” khiêm nhường và mau mắn của Đức Mẹ vô cùng quý báu. Để rồi “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta” (Kinh Truyền Tin).

Lễ Đức Mẹ Mai Côi là dịp để chúng ta tự xét mình với ba mệnh lệnh Fatima: (1) Sám hối, cải thiện đời sống; (2) Tôn sùng Trái Tim Mẹ; (3) Năng lần chuỗi Mai Côi. Gần 100 năm qua, nhân loại đã thay đổi được gì? Mỗi chúng ta có cố gắng thay đổi hàng ngày?

Thánh Phêrô nhắc nhở: “Hãy sống thánh thiện vì Thiên Chúa là Đấng Thánh” (1 Pr 1:16). Trước đó, khi còn tại thế, chính Chúa Giêsu đã giáo huấn: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Có nhiều con đường dẫn đến với Chúa Giêsu, nhưng Con Đường ngắn nhất và chắc chắn nhất chính là Đức Maria.

Lạy Thiên Chúa Cha toàn năng, hằng hữu và hằng sinh, xin cảm tạ Ngài luôn quan phòng và tiền định mọi điều, đặc biệt là ban cho chúng con Thánh Mẫu Maria, vì chính Con Yêu Dấu Ngài đã xác định: “Đây là Mẹ của con” (Ga 19:27). Lạy Mẹ Maria, xin dẫn chúng con tới Chúa Giêsu, Con Yêu Dấu của Mẹ. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.

(*) Dictionarium Anamitico Latinum của ĐGM AJ. L. Taberd (năm 1838) không có từ Mân Côi, Văn Côi, Mai Khôi. Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của, ấn bản 1895-1896 có từ Môi Khôi, được định nghiã là (1) hoa hồng; (2) loài ngọc qúy. Ông ghi chú thêm: phải đọc là Mai, không nên đọc là Môi. Thuật Ngữ Thần Học Anh Việt của Học Viện Đa-minh (năm 2002) định nghĩa Rosary là Chuỗi Mân Côi do tiếng Latin Rosarium: Tràng Hoa Hồng. Từ Điển Văn Học Việt Nam của Lm Trần Văn Kiệm (năm 2007) định nghiã các từ Môi Khôi, Mân Côi, Môi Côi, Mai Khôi: Hoa Hồng.

Hán Việt đọc là Mai hay Mân, nhưng Mai là từ đúng nhất. Từ điển của Đào Duy Anh, của Ban Tu Thư Nghiã Thục, của Huỳnh Tịnh Paulus Của đều chỉ ghi từ Mai. Còn Mân hay Môi chỉ là cách phát âm khác của Mai. Từ điển của LM Trần Văn Kiệm đều viết Mai hay Mân là 玫. Bô Khang Hy Tự Điển ghi Mai và Môi đồng âm. Ngoài ra theo Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn thì thì Mân Côi hay Văn Côi được viết như nhau 玫 瑰. Có nghiã là hoa hồng và đá ngọc. Từ điển này cũng viết dùng Văn Côi để chỉ sợi vân của ngọc.

Tóm lại, theo các từ điển, từ Mai Côi là đúng nhất. Các từ Mân, Môi hoặc Văn chỉ là âm khác của từ Mai.

23.                        Mẹ Mân Côi

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha sở lấy làm ngạc nhiền hỏi thăm anh : Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng quá ? Anh trả lời : Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ : Không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.

Trong lịch sử Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.

Có một biến cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên. Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Đức Mẹ,

Ai đã đến các trung tâm hành hương Đức Mẹ, sẽ thấy rõ lòng yêu mến của người tín hữu dành cho Mẹ. Biết bao người đã được ơn của Đức Mẹ, trong đó có cả những người không phải là Kitô hữu. Điều đó cho thấy rằng, Đức Maria thực sự là người Mẹ thiêng liêng của tất cả mọi người. Nếu trong đời sống thường ngày, mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mẹ của mình, thì trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, chắc chắn Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta.

Mẹ là Đấng quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn dâng trọn cuộc đời cho chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ không tiếc gì với Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa cũng không tiếc gì với Mẹ. Vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và gìn giữ, Mẹ trở nên như bông hoa trinh trong trước toà Thiên Chúa. Trong ngày sứ thần truyền tin, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Mẹ, đã mời Mẹ cộng tác vào chương cứu chuộc của Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu hết ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Mẹ vẫn sẵn sàng xin vâng để cho Thiên Chúa thực hiện.

Câu chuyện truyền tin cho thấy, Sứ thần Gabriel hết sức cung kính khi gặp Mẹ. Sứ Thần đã chào Mẹ : Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Điều đó nói lên rằng, Mẹ là người luôn được sống trong ân phúc của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nhìn đến Mẹ ngay từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ trong trắng tuyệt vời và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa là Đấng Thánh, Ngài cư ngụ ở nơi thánh và nơi nào Ngài cư ngụ, Ngài sẽ làm cho nó nên thánh. Điều đó thật đúng nơi Đức Maria. Vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ, nên Ngài đã biến tâm hồn và con người của Mẹ nên đền thánh của Ngài. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa đã hết sức tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài đã sai Sứ Thần hỏi ý kiến Mẹ, để chọn cung lòng Mẹ làm nơi cho Con Thiên Chúa làm người.

Dù không hiểu hết những gì sẽ xảy ra, không hiểu việc mang thai và sinh con sẽ như thế nào, tương lai sẽ ra sao, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng thưa xin vâng : Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa sử dụng trọn cuộc đời của mình, Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng mình làm nơi cho Con Thiên Chúa cư ngụ.

Kể từ khi thưa tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ bước qua giai đoạn mới, đó là giai đoạn phục vụ Chúa Cứu Thế, cũng là người con bé nhỏ trong bụng Mẹ. Với một người mẹ bình thường thì công sinh dưỡng là trời bể. Mẹ thì không dám kể công sinh dưỡng Đấng Cứu Thế, nhưng chắc chắn, Chúa Cứu Thế sẽ không thể quên công ơn trời biển này được. Vì thế, lời chuyển cầu của Mẹ quả là có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể từ chối lời Mẹ khẩn xin.

Lời kinh Kính Mừng Maria là lời Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng Mẹ, cũng đồng thời là lời tán dương Thiên Chúa về sự kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời Mẹ. Do đó, Kinh Kính Mừng là lời kinh phù hợp nhất, tốt đẹp nhất mà cả Giáo hội tạ ơn Thiên Chúa và chiêm ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ.

Tràng chuỗi Mân Côi là sự tóm kết tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua từng biến cố, trong đó, Mẹ Maria là cộng tác viên đắc lực của Chúa. Khởi đầu từ màu Nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Đức Maria được chia sẻ vào niềm vui vì ơn cứu độ đã được thực hiện. Niềm vui ấy được đầy tràn trong tâm hồn Mẹ, vì Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế, đã sinh hạ Con Thiên Chúa, được bồng ẵm Ngài trên tay và nuôi dưỡng Ngài bằng dòng sữa của Mẹ. Mẹ Maria âm thầm theo Chúa suốt hành trình truyền giáo như một người môn đệ. Những lúc Chúa thành công, được nhiều người ca tụng, Mẹ chỉ đứng lẫn vào đám đông như mọi người. Nhưng khi Chúa Giêsu gặp thất bại, bị người đời chống đối, Mẹ Maria đã đứng ra như một người Mẹ, hết sức can đảm để hiện diện và an ủi Chúa Giêsu. Đặc biệt trong hành trình thập giá, khi mọi người gào thét tìm cách giết Chúa, các môn đệ bỏ trốn, thì một mình Mẹ đã theo Chúa đến chân thập giá để cùng chia sẻ và đón nhận đau khổ của Chúa vào tâm hồn Mẹ.

Vì theo sát Chúa trên hành trình thập giá, nên trong ngày vinh quang phục sinh, Mẹ cũng chính là người được hưởng niềm vui và ơn phúc Phục sinh đầu tiên từ Chúa Giêsu, con của Mẹ. Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc ly với các tông đồ như người Mẹ của Giáo hội và cũng là người tín hữu, để cùng cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cả một cuộc đời trung thành trọn vẹn với Chúa trong lời thưa Xin vâng, Thiên Chúa đã trọng thưởng cho Mẹ đặc ân được đưa về trời cả hồn và xác trước thời hạn, và còn tặng ban cho Mẹ vinh dự làm Nữ Hoàng Thiên Quốc, để Mẹ tiếp tục cầu bầu cho Giáo hội và cho mỗi chúng ta.

Mừng lễ Đức Maria Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng với Mẹ tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm cộng tác viên của Ngài và còn trao ban cho Mẹ vinh quang và danh dự, để từ nơi toà thiên Chúa, Mẹ vẫn tiếp tục che chở chúng ta. Tin tưởng như thế, để mỗi người hãy cầm lấy tràng chuỗi Mân Côi để ca tụng Chúa và khấn xin Đức Mẹ che chở chúng ta trên hành trình dương thế này. Đừng bao giờ nghĩ kinh Mân Côi là nhàm chán, cũng đừng cho đó là lời kinh của người già, nhưng Kinh Kính Mừng là lời kinh thích hợp cho tất cả mọi người và là lời kinh hiệu quả nhất cho mọi lời cầu xin.

Khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa qua Mẹ Maria, chúng ta nại đến lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa và công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Do đó, Thiên Chúa không thể không đón nhận lời Mẹ chuyển cầu cho chúng ta. Hãy chuyên chăm đọc Kinh Kính Mừng mỗi ngày, Mẹ sẽ chỉ cho chúng ta biết noi gương Mẹ sống đẹp lòng Chúa. Kinh Kính Mừng sẽ đem lại cho các gia đình sự bình an, êm ấm, sẽ xua tan sự dữ và ma quỷ trong gia đình, vì có Chúa và Đức Mẹ hiện diện, thì không có ma quỷ hay sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được. Amen.

.

24.                        Hoa Quả Lòng Lời Kinh Mân Côi

Huệ Minh

Ta dừng lại một chút để nhìn lại lịch sử, ý nghĩa của Kinh Mân Côi

             Ngày 7-10-1571, sau kỷ niệm ghi dấu cuộc chiến thắng quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ tại vịnh Lépante nhờ ơn lạ đặc biệt của Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Chính vì vậy, Đức Thánh Piô V dạy cộng đoàn dân Chúa rước kiệu Mẹ trọng thể. Không chỉ thế, Đức Thánh  Piô V thành lập lễ Mẹ Thắng Trận vào ngày mồng 7 tháng 10 để ghi ơn Đức Mẹ.

            Và rồi đến đời Đức Grêgôriô XIII, theo lời dòng Đaminh đệ trình xin đổi lại ngày lễ. Ngài ra sắc lệnh ngày 1-4-1573 đổi là lễ Mẹ Mân Côi được mừng vào Chúa nhật 1 tháng 10 tại các nhà thờ tôn kính Mẹ Mân Côi. 

          Năm 1671, lễ này cũng được Đức Clementê X ban phép mừng khắp Giáo hội Tây ban nha. Năm 1716, sau những chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Temeswar và Corfu ở ven biển Hylạp, các giáo hữu gọi Mẹ là Mẹ chiến thắng và Đức Clêmentê XI truyền cho khắp Giáo hội đặc biệt mừng lễ Mẹ Mân Côi hàng năm. Ngày 11-9-1887, Đức Lêô XIII nâng lễ Mẹ Mân Côi lên bậc nhì với kinh lễ và kinh Phụng vụ theo phụng vụ dòng Đaminh.

            Sau cùng, Đức Thánh Piô X ấn định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mồng 7 tháng 10.

            Kinh Mân Côi nguyên tiếng Latinh là Rosarium, tiếng Anh, tiếng Pháp là Rose là hoa hồng tượng trương kinh Kính Mừng kết thành vòng hoa thiêng dâng kính Đức Mẹ như cổ thời Hylạp, và một số nước hiện nay, người ta làm vòng hoa tươi treo vào cổ trao tặng nhau. Trước kia người ta đếm kinh bằng hạt sỏi, dần dần người ta kết những hạt khác thành chuỗi Mân côi gọi là Rosary.

          Thế kỷ XII, 150 Thánh vịnh David dài quá đối với nhiều người không thể đọc được, nên người ta đọc 150 kinh Lạy Cha thay thế. Dần dần người ta đọc 150 kinh Kính Mừng thay 150 kinh Lạy Cha. Do đó thánh Đaminh gọi là “Thánh vịnh Đức Mẹ.” Sau này Đức Sixtô IV gọi tắt là “Thánh vịnh.” Bắt đầu kinh Kính Mừng chỉ gồm có lời chào của thiên sứ Gabriel: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28), rồi được thêm lời chào của bà Thánh Elizabeth: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Và Con lòng Bà gồm phúc lạ” (Lc 1, 42). 

           Cũng trong thế kỷ XII, Đức Mẹ hiện ra trao truyền tràng hạt Mân côi cho Thánh Đaminh để cải hoá bè rối Albigensê đang tung hoành ở phía nam nước Pháp. Sang thế kỷ XIII, đời Đức Urbanô IV, Thánh Danh “Giêsu” được thêm vào.

            Lúc đó, người ta đọc 150 kinh Kính Mừng cùng với 150 kinh Lạy Cha, nghĩa là mỗi kinh Kính Mừng một kinh Lạy Cha. Đến thế kỷ XIV, thầy Henry Kalkar (1328-1408), dòng Carthusian do thánh Brunô sáng lập, chia 150 kinh Kính Mừng thành từng chục (10) mỗi chục một kinh Lạy Cha.

            Mãi đến thế kỷ XV, Cha Đaminh Prussia (1384-1460) cũng dòng Carthusian chia 150 Kinh Kính Mừng thành 3 chỗi 50.

            Cũng trong thế kỷ này, Chân phúc Alanô de la Roche hay là De Rupe thêm phần suy niệm các mầu nhiệm trong khi lần chuỗi. Từ nay tràng kinh Mân Côi gọi là “Vòng hoa hồng”. Chân phúc Alanô nhiệt thành phổ biến kinh Mân Côi mà Đức Mẹ đã trao truyền cho Thánh Đaminh. Chân phúc Alanô thành lập Hội Mân Côi năm 1480 và được Đức Mẹ hứa ban 15 ơn cho những ai trung thành đọc kinh Mân Côi.

            Năm 1521, Cha Albertô da Castello, O.P., sửa lại mỗi kinh Lạy Cha với một mầu nhiệm. Năm 1569, Đức Thánh Piô V với bửu sắc “Consueverent Romani Pontifices” thêm phần thứ hai kinh Kính Mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời…” với kinh Sáng Danh, và ấn định kinh Mân Côi như chúng ta đọc ngày nay.

            Dừng một chút để nhìn lại ý nghĩa, gốc tích của việc sùng kính Đức Mẹ, đặc biệt qua tràng chuỗi Mân Côi.

            Với tràng chuỗi Mân Côi, ta bắt gặp lời của sứ thần gửi đến Đức Mẹ trong ngày sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ như trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Và, hành động của Mẹ Maria như chúng ta thấy đó là tin. Mẹ diễn tả niềm tin đó hết sức giản đơn : xin vâng !

            Quả thật lời xin vâng của Mẹ quá tuyệt vời. Lời xin vâng của Mẹ như là đỉnh điểm cuộc đời, đỉnh điểm niềm tin vào Thiên Chúa.

            Và, ta cũng được thấy niềm tin đó nơi cuộc đời của Abraham qua bài đọc sách Sáng Thế. Sách Sáng Thế kể như thế này : Khi ấy, Chúa phán cùng Abram rằng: “Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ cho. Hôm nay ngươi đã chọn Chúa làm Thiên Chúa, thì hãy bước đi trong đường lối Người, tuân giữ các lề luật, giới răn và huấn lệnh của Người; hãy vâng lệnh Người. Hôm nay Chúa đã chọn ngươi làm dân riêng Chúa, như Người đã phán với ngươi, thì ngươi hãy tuân giữ mọi giới răn của Người. Người sẽ làm cho ngươi được vinh quang, thanh danh và huy hoàng hơn mọi dân tộc Người đã tạo dựng, để ngươi trở thành dân thánh của Chúa là Thiên Chúa ngươi, như Người đã phán”.

            Nghe lời của Thiên Chúa, Abram đã ra đi như những gì Chúa đã truyền dạy. Trong chuyến đi đó, có cả ông Lót đi theo.

            Khi bỏ đất Haran, Abram được bảy mươi lăm tuổi. Ông đem Sarai vợ ông và Lót là cháu cùng với tất cả tài sản và gia nhân mà họ có ở Haran. Họ ra đi đến đất Canaan. Khi họ tới nơi, Abram rảo qua các xứ, cho đến Sikem, thung lũng thời danh. Bấy giờ người Canaan đang ở xứ này.

            Chúa đã hiện ra với Abram và phán rằng: “Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi”. Ông đã dựng ở đó một bàn thờ kính Thiên Chúa, Đấng đã hiện ra với ông.

            Quá tuyệt vời, chính vì tin nên Abaraham được Chúa công bố rằng ông là cha của những kẻ tin.

            Tin là như vậy, tin là như thế đó, tin là để cuộc đời mình hoàn toàn trống rỗng để cho Thiên Chúa lấp đầy.

            Nói thì dễ nhưng khi đáp trả niềm tin vào Chúa không phải là chuyện dễ dàng. Nhìn vào thực tại của cuộc sống ta cảm thấy niềm tin đó vẫn cứ mãi được thử thách, không chỉ mỗi ngày mà mỗi giây mỗi phút trong cuộc đời.

            Nhìn vào ngay như trong Giáo Hội, nhất là thời gian gần đây, ta lại thấy, lại chứng kiến, lại đau lòng để tiễn đưa những linh mục tuổi còn quá trẻ đi về lòng đất mẹ. Những con người ấy, những linh mục ấy đang phơi phới trong mình sức sống của tuổi trẻ, của năng lực thế nhưng rồi Chúa đã dừng lại cuộc đời của những vị đó lại. Qua những biến cố đó, niềm tin của chúng ta lại được mời gọi, được thử thách. Ta lại được mời gọi nếu đó là ta, ta sẽ phản ứng gì, ta phản ứng như thế nào ?

            Dĩ nhiên ta cũng sẽ cảm thấy sốc, cảm thấy khó chịu và có khi là cứng tin và mất lòng tin nữa. Nhưng, trong sâu thẳm những biến cố của cuộc đời, ta lại được mời gọi sống, diễn tả niềm tin như cụ già Abraham, Mẹ Maria.

            Lời Kinh Mân Côi mà ta được mời gọi siêng năng đọc, ít là những lần hiện ra mà Mẹ nhắc nhở củng chính là lời mời gọi của Mẹ xin thưa với Mẹ hai tiếng xin vâng với Chúa cuộc đời của ta.

            Kinh nghiệm về Kinh Mân Côi, ta bắt gặp nơi cảm nghiệm cũng như các Thánh :

            Thánh Gioan Kim Khẩu: Thiên Chúa cai trị thế gian, nhưng kinh nguyện điều khiển Thiên Chúa.

            Thánh Augustinô: Bất cứ lúc nào chúng ta sốt sắng đọc kinh Lạy Cha, tội mọn của chúng ta sẽ được thứ tha.

            Thánh Bênađô: Kinh Kính Mừng làm cho quỷ dữ trốn chạy, hỏa ngục run sợ.

       Thánh Đaminh: Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân Côi.

            Thánh Bônaventura: Ai lơ là với Mẹ sẽ chết trong tội lỗi. Mẹ Maria chào chúc chúng ta với ơn lành, nếu chúng ta kính chào Mẹ bằng kinh Kính Mừng.

            Đức Mẹ phán với thánh Mechtildê: Mẹ muốn con biết rằng không ai có thể làm đẹp lòng Mẹ bằng đọc lời thiên sứ chào Mẹ mà Chúa Ba Ngôi chí thánh gửi xuống cho Mẹ và nâng Mẹ lên chức phẩm Mẹ Thiên Chúa.

            Thánh Giêtrudê xem thấy Chúa Giêsu đếm tiền vàng. Chúa nói: Cha đếm kinh Kính Mừng mà con đọc. Đó là tiền mà con có thể mua đường lên thiên đàng.

            Thánh Tôma Kempi: Bạn hãy ân cần kính chào Mẹ bằng lời thiên sứ đã chào Mẹ, Mẹ rất hoan hỉ khi nghe lời chào ấy.

            Chân phúc Alanô: Kinh Kính Mừng là một cầu vồng trên trời, là một dấu chỉ lòng thương xót và ân sủng Thiên Chúa ban cho thế giới. Mẹ muốn dân chúng có lòng sùng kính kinh Mân Côi được ơn thánh và phúc lành của Con Mẹ trong cuộc sống và trong giờ họ chết. 

            Mẹ muốn họ thoát khỏi mọi ràng buộc, để họ nên giống các vua đội triều thiên, cầm phủ việt và hưởng phúc vinh quang vĩnh cửu.

            Thánh Bôrômêô: Kinh Mân Côi là kinh linh thánh nhất sau thánh lễ hy tế. Các bạn hãy đọc kinh Mân Côi siêng năng bao nhiêu có thể.

            Thánh Montfort: Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị kinh Kính Mừng và kinh Mân Côi, là những người có dấu bị trầm luân hỏa ngục. Không có gì có hiệu lực được lên nước Thiên Chúa bằng đọc kinh Mân Côi và suy ngắm 15 mầu nhiệm.

            Thánh Phanxicô Salêsiô: Đọc kinh Mân Côi là việc thích thú nhất và là niềm vui thứ nhất của lòng tôi.

            Thánh Anphongsô : Nhờ kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân Côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh.

            Thánh Vianney: Tôi biết điều có mãnh lực hơn Thiên Chúa là người cầu nguyện làm cho Thiên Chúa nói “được”, khi Người đã nói “không được”.

            Và rồi, với tâm tình của các Thánh, niềm tin của chúng ta được mời gọi và lời đáp trả do mỗi người chúng ta.

.

25.                        Sức Mạnh Hoán Cải Của Kinh Mân Côi

Lm. Đan Vinh

  1. HỌC LỜI CHÚA
  2. TIN MỪNG: Lc 1,26-38

 (26) Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai Sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, (27) gặp một Trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. (28) Sứ thần vào nhà Trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà”. (29) Nghe lời ấy, Bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. (30) Sứ thần liền nói: “Thưa Bà Ma-ri-a xin đừng sợ, vì Bà đẹp lòng Thiên Chúa. (31) Và này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su. (32) Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. (33) Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. (34) Bà Ma-ri-a thưa với Sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (35) Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà. Vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. (36) Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. (37) Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. (38) Bấy giờ Bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”. Rồi Sứ thần từ biệt ra đi.

  1. Ý CHÍNH:

 Câu chuyện Sứ thần Gáp-ri-en được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Trinh nữ Ma-ri-a giúp chúng ta nhận biết tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong việc thực hiện lời hứa cứu độ loài người. Thiên Chúa luôn đi bước trước bằng việc ban ơn cứu độ và muốn cho loài người đón nhận ơn ấy. Qua câu chuyện truyền tin hôm nay, thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn “Xin vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái độ mà các tín hữu phải làm khi đọc kinh lần hạt trong tháng Mân Côi này

  1. CHÚ THÍCH:

– C 26-27: + Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng: Cách đây sáu tháng, ông Da-ca-ri-a đã được Sứ thần Gáp-ri-en hiện đến truyền tin khi ông đang thi hành chức vụ tư tế trong Đền thờ. Sứ thần hứa với ông rằng bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai. Sứ mệnh của nó là dọn đường cho Đấng Thiên Sai.. Quả vậy, bà Ê-li-sa-bét đã có thai trong lúc tuổi già. Bà đã ở trong nhà không tiếp xúc với ai suốt 5 tháng trời (x. Lc 1,5-25). Đến tháng thứ sáu thì Sứ thần Gáp-ri-en tiếp tục được sai đến truyền tin cho Trinh nữ Ma-ri-a. + Gáp-ri-en: Là một trong bảy Tổng lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong Cựu ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn 10,13-21;12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (x. Đn 8,16). + Trinh nữ: hay thiếu nữ, là một cô gái chưa lấy chồng. Riêng về đức trinh khiết của Đức Ma-ri-a đã được gián tiếp đề cập đến qua câu ngài thưa với Sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Theo lời tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a thì: Việc một hài nhi do một bà mẹ đồng trinh thụ thai là dấu chỉ của Đấng Thiên Sai (x. Is 7,14). + đã đính hôn: khi đính hôn, Giu-se và Ma-ri-a đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này là con chính thức. Tuy nhiên, theo phong tục Do thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi bên họ đàng trai tổ chức lễ cưới để đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18). + thuộc nhà Đa-vít: chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế thuộc hoàng tộc Đa-vít, để ứng nghiệm lời các Ngôn sứ đã tiên báo như: Người phát xuất từ gốc tổ phụ Giêsê là cha của vua Đa-vít (x.1 Sm 16,3.12) ; Người sẽ sinh ra tại Bê-lem là quê hương của vua Đa-vít (x. mk 5,1). + Ma-ri-a: hay my-ri-am là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để phân biệt khi trùng tên, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Ma-ri-a Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Ma-ri-a mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Ma-ri-a mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và Trinh nữ Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su (x. Ga 19,25).

– C 28-29: + “mừng vui lên”: Đây không phải là kiểu chào thông thường của người Do thái, nhưng là lời chào trong những trường hợp đặc biệt, dành riêng cho những người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9). + “đầy ân sủng”: một tước hiệu dành riêng cho Ma-ri-a, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội và được Chúa luôn ở cùng. + “Bà bối rối và tự hỏi”: khác với thái độ “bối rối sợ hãi” của Dacaria (x. Lc 1,12), Ma-ri-a chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý nghĩa của Lời Chúa vừa được Sứ thần mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).

– C 30-33: + Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su: Sứ thần giải thích cho Ma-ri-a biết về sứ mệnh làm mẹ của Hài nhi Giê-su. Giê-su nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay là “Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11). + “Con Đấng Tối Cao”: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các vị vua dòng tộc Đa-vít. Sứ thần ám chỉ Đức Giê-su là Vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ lên ngôi cai trị dân Ít-ra-en, và triều đại của Người sẽ vững bền mãi mãi.

 – C 34: + so sánh thắc mắc của Ma-ri-a với thắc mắc của Dacaria (x. Lc 1,18): Tuy cả hai cùng đưa ra câu hỏi, nhưng phát xuất từ hai tâm trạng khác nhau: câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự hoài nghi về quyền năng Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt câm, không nói được. sự cấm khẩu này là dấu chỉ cho ông thấy việc bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh con là điều chắc chắn sẽ xảy ra (x. Lc 1,20). còn lời thắc mắc của Ma-ri-a thì biểu lộ lòng tin: Ma-ri-a muốn tìm biết rõ thánh ý Chúa thế nào để xin vâng. do đó, Ma-ri-a đã được Sứ thần ca tụng là đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và bà Ê-li-sa-bét cũng khen ngợi Ma-ri-a là người “diễm phúc” vì đã tin Lời Chúa phán sẽ được thực hiện (x. Lc 1,45).+ “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến người nam!”: “biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”. Thắc mắc của Ma-ri-a ở đây không chứng minh Ma-ri-a đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh, vì động từ “biết” ở đây thì hiện tại. Qua câu này, Ma-ri-a chỉ thắc mắc là: làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay bây giờ được, khi mà Ma-ri-a mới chỉ đính hôn với Giu-se để nên vợ chồng về luật đời, chứ chưa được Giu-se tổ chức lễ cưới đón rước về nhà chồng như phong tục Do thái?

 – C 35: + Sứ thần giải thích cho Ma-ri-a hiểu rằng: Vì được Chúa tuyển chọn để làm mẹ Đấng Thiên Sai, nên Ma-ri-a sẽ được thụ thai cách đặc biệt nhờ quyền năng Thánh Thần, đúng như I-sai-a đã tuyên sấm về việc Đấng Cứu Thế sẽ do một trinh nữ thụ thai và sinh hạ (x. Is 7,14). + “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”: Kiểu nói “rợp bóng” nhắc lại sự kiện xảy ra vào thời Xuất hành, khi dân Do thái đi trong hoang địa trên đường về Đất Hứa. Bấy giơ Đức Chúa luôn hiện diện ở giữa dân Người, qua hình ảnh của một cột mây rợp bóng che phủ nhà tạm và lều hội ngộ (x. Xh 40,34-38). Rợp bóng cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa. Như chim phượng hoàng giang rộng đôi cánh để bao phủ che chở đàn chim con, thì Thiên Chúa cũng giang rộng tay hùng mạnh để bang trợ Ít-ra-en là con dân của Người (x. Tv 17,8). + “Đấng thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Hài nhi sắp sinh sẽ được hiến “thánh”, được dâng cho Thiên Chúa để chu toàn sứ mệnh cứu thế.

 – C 36-37: + kìa Bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Để cho Ma-ri-a thấy quyền năng cao cả của Thiên Chúa, Sứ thần đã báo cho Ma-ri-a biết tin về bà chị họ Ê-li-sa-bét: tuy đã cao niên và hiếm hoi, thế mà cũng đã được Thiên Chúa cho thụ thai con trai, đến nay thai nhi đã được sáu tháng rồi.

– C 38: + “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Ma-ri-a đã biểu lộ một nhân đức khiêm nhường và một lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa. + “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”: Qua câu này, Ma-ri-a đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ do Thiên Chúa ban. Thực vậy, ngay sau lời thưa “xin vâng” này, Thánh Thần đã tác động làm cho Trinh nữ Ma-ri-a thụ thai mà không cần phải tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy để thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính là Thiên Chúa và người phàm.

  1. CÂU HỎI:

1) Gio-an Tẩy Giả hơn Đức Giê-su bao nhiêu tuổi?

2) Thánh kinh kể tên 3 vị Tổng lãnh thiên thần là những vị nào? Tên gọi của mỗi vị có nghĩa thế nào?

3) Câu nói nào của Đức Ma-ri-a cho thấy ngài là thiếu nữ đồng trinh? Tại sao phải nhấn mạnh đến sự kiện đồng trinh trong việc Đức Ma-ri-a thụ thai Hài Nhi Cứu Thế Giê-su?

4) Việc kết hôn giữa thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a làm cho hai người nên vợ chồng thật hay chỉ là vợ chồng giả để che mắt người đời?

5) Tin Mừng muốn ám chỉ gì khi viết Giu-se “thuộc nhà Đa-vít”?

6) Hãy kể ra một số tên gọi Ma-ri-a trong Tin Mừng kèm theo tên phụ. Thêm tên phụ sau tên gọi như vậy nhằm mục đích gì?

7) Khi chào kèm tước hiệu “đầy ân sủng” của Sứ thần nhằm ám chỉ đặc ân nào trong 4 đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Ma-ri-a?

8) Tên gọi Giê-su mà Sứ thần ra lệnh cho Ma-ri-a đặt cho con trẻ mang ý nghĩa thế nào?

9) Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” được gán cho Hài nhi Giê-su có ý nghĩa thế nào?

10) Thắc mắc của ông Da-ca-ri-a trong Đền thờ (x Lc 1,18) và thắc mắc của Ma-ri-a trong Tin Mừng hôm nay có giống nhau không? Ông Da-ca-ri-a và Đức Ma-ri-a đã gặp sự cố gì sau lời thắc mắc?

11) Khi nói “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”, Sứ thần muốn ám chỉ điều gì?

12) Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể xảy ra vào lúc nào trong biến cố Truyền tin?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: Bấy giờ Bà Ma-ri-a nói: ”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46.49).
  3. CÂU CHUYỆN:

1) Sức mạnh chữa lành của chuỗi kinh Mân Côi:

Cách đây ít lâu, tạp chí Reader’s Digest có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ TÊRÊXA CALCUTTA và một thương gia người Mỹ như sau:

 Trên chuyến máy bay từ CHRITIAMY về THANASITY, thương gia trẻ tên là JIM CAISO ngồi kề bên Mẹ TÊRÊSA và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi: 

– Anh có thường lần chuỗi không?

Anh trả lời:

– Thưa không.

Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói: 

– Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.

Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Tôi có cảm tưởng như mình đã được gặp một người nữ tu đích thực của Chúa”.

Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn và nói: 

– Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị.

Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và đã được khỏi bệnh. Giờ đây chị trả lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ được cho người nào khác. Trong thời gian đó, bà chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng tinh thần sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng: 

– Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu.

Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy và đều được ơn lành như ý.

Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, tràng chuỗi có sức mạnh giúp tất cả những ai mang tràng chuỗi ấy canh tân tâm hồn và đã nhận được ơn do việc canh tân mang lại. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh đều vui vẻ cho mượn, và luôn căn dặn họ: “Khi nào không cần dùng nữa thì vui lòng cho tôi xin lại, vì có thể sẽ có người khác cần đến tràng chuỗi ấy”.

Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa Calcutta, và Jim hay chia sẻ với bạn bè như sau: “Mẹ Têrêsa đã mang tất cả hành lý của Mẹ chỉ trong một cái xách tay nhỏ, Tôi cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của mình được đơn giản hơn. Tôi luôn nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác”.

2) Đức tin của Phun-tơn Ao-dơ-lơ (fulton oursler) nhờ Mẹ Maria: 

vào một buổi chiều đông lạnh giá, Phun-tơn, một người đã mất đức tin và bỏ không đến nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. khi đi qua đại lộ nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông vào trong nhà thờ và đến quỳ trước tượng Đức Mẹ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Phun-tơn cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Ma-ri-a, có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ lúc này để tiếp tục bài bác chế diễu việc đạo đức con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con đang gặp rất nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm đức tin”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều gì đó kỳ diệu vừa xảy ra nơi ông và biến ông trở thành một người mới: Ông đã có đức tin! Từ đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái.

  1. THẢO LUẬN:

1) Hai câu chuyện trên cho thấy chuỗi kinh mân côi có vai trò nào trong việc chữa lành bệnh tật và việc trở lại với Chúa của ông Phun-tơn?

2) Ngày nay, các tín hữu chúng ta sẽ làm gì để thánh hóa bản thân và xây dựng Hội Thánh, nhờ ơn Chúa giúp và sự phù trợ đắc lực của Mẹ Ma-ri-a?

  1. SUY NIỆM:

 1) Vai trò của Mẹ Maria trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa:

Thiên Chúa đã ban cho loài người chúng ta một Đấng Cứu Độ duy nhất là Chúa Giê-su. Nhưng bên cạnh Đức Giê-su, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta một bà mẹ hiền đầy tình thương và tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong công cuộc cứu độ loài người là Thánh Mẫu Ma-ri-a.

Thực vậy, Mẹ Ma-ri-a luôn yêu thương và cầu bầu cho những ai đang gặp khốn khó như Mẹ đã dạy các người giúp việc hãy làm theo lời Đức Giê-su tại tiệc cưới thành Ca-na (x Ga 2,1-11). Mẹ đã được chính Chúa Giê-su trăn trối làm Mẹ của Hội Thánh mà tông đồ Gio-an là đại diện, trước khi Chúa tắt thở trên thập giá (x Ga 19,26-27);

Mẹ cũng thi hành nhiệm vụ của một bà mẹ hiền khi hiệp cùng Hội Thánh sơ khai cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống sau khi Chúa Giê-su lên trời (x Cv 1,14).

2) Sức mạnh của Kinh Mân Côi trong các biến cố lịch sử của Hội Thánh:

Trong lịch sử Hội Thánh, mỗi khi con thuyền Hội Thánh gặp cơn phong ba có nguy cơ bị chìm đắm, chúng ta lại thấy có bàn tay trợ giúp của Mẹ Ma-ri-a.

Vào thế kỷ 12, thánh Đa-minh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo An-bi-doa ở Miền Nam nước Pháp đang đe dọa tiêu diệt Hội Thánh.

Rồi dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V, cũng nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh một lần nữa lại tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi Hồi tại vịnh Lê-păng vào đầu thế kỷ 16.

Ngày nay, Đức Ma-ri-a trở thành sứ giả được Thiên Chúa sai đến đã hiện ra tại nhiều nơi trên thế giới vào nhiều thời điểm khác nhau, để nhắc nhở Hội Thánh đi đúng đường lối của Chúa Giê-su và giúp các tín hữu cải thiện đời sống, đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giê-su đem đến. Ta có thể kể ra một số địa danh Mẹ đã hiện ra như: Lộ Đức (Pháp), Pha-ti-ma (Bồ Đào Nha), La Vang (Việt Nam), Mễ du (Nam Tư)…

3) Việc tông đồ truyền giáo hữu hiệu nhờ dựa vào kinh Mân Côi:

Thực ra, việc biến đổi lòng những kẻ tội lỗi và vô tín để họ quay về nhận biết tôn thờ Thiên Chúa, và việc xóa bỏ các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật…trong đời sống mỗi người sẽ khó lòng thực hiện thành công nếu chỉ dựa vào khả năng giới hạn của chúng ta. Tuy nhiên điều tưởng chừng không thể thực hiện ấy lại không khó chút nào đối với Thiên Chúa, vì: “Không có gì mà Chúa không làm được” (Lc 1,37).

Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt được kết quả, các tín hữu chúng ta cần noi gương Mẹ Ma-ri-a kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su (x Ga 15,5). Rồi cùng với Mẹ, chúng ta sống đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mến trong cuộc sống đời thường như Mẹ khi xưa. Kinh Mân Côi chính là phương cách hữu hiệu giúp các tín hữu chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và Đức Mẹ để chiến thắng ba thù là ma quỷ thế gian và tính xác thịt của mỗi người.

4) Canh tân kinh Mân Côi bằng Lời Chúa với lời cầu kèm theo việc lành:

Tuy nhiên, việc đọc kinh Mân Côi chỉ mang lại hiệu quả tích cực nếu chúng ta biết suy niệm 20 biến cố Vui Sáng Thương Mừng trong cuộc đời Chúa Giêsu kèm theo lời cầu nguyên quyết tâm sống theo gương Chúa làm và lời Người dạy, như Mẹ đã làm xưa: “Còn Maria thì ghi nhớ những sự kiện đó và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Mỗi ngày chúng ta hãy thực hành các việc tốt cụ thể kèm theo đọc một chục kinh Mân Côi theo một trong 20 mầu nhiệm. Nhờ đó chúng ta sẽ ngày một nên tốt hơn và có thể chu toàn được sứ vụ loan báo Tin Mừng đã được Chúa Phục Sinh trao cho Hội Thánh trước khi lên trời.

TÓM LAI: Nhờ quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy noi theo gương mẫu và lời dạy của Người như Mẹ Ma-ri-a, chắc chắn chúng ta sẽ làm được những việc lạ lùng kỳ diệu vượt quá khả năng giới hạn của mình. Vì bấy giờ chúng ta làm không bằng sức riêng, nhưng bằng sức mạnh của ơn Chúa giúp qua lời cầu bầu đắc lực của Mẹ, như lời thánh Phao-lô dã dạy: ”Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Chúng ta cũng sẽ noi gương Mẹ Maria ca tụng ngợi khen tình thương cứu độ của Thiên Chúa trong bài kinh Ma-nhi-phi-cát: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1,46).

  1. NGUYỆN CẦU:

 Lạy Chúa. Mỗi lần gặp phải những khó khăn hoạn nạn xảy tới, chúng con thường chỉ biết kêu trời trách đất, hoặc tệ hơn lại tìm đến với mê tín dị đoan như coi bói toán, cầu cơ, tin đồng cốt… để tìm sự giúp đỡ an ủi, đang khi lẽ ra chúng con phải cậy vào ơn Chúa trợ giúp và sự phù trợ của Mẹ Ma-ri-a, như Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa. Xin Chúa giúp chúng con biết nghe lời Mẹ dạy là hãy lắng nghe Lời Chúa Giê-su, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng như các người giúp việc trong tiệc cưới xưa đã làm.

  1. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

.

 

home Mục lục Lưu trữ