Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 62

Tổng truy cập: 1361909

LÒNG THƯƠNG XÓT XUA TAN SỰ SỢ HÃI

LÒNG THƯƠNG XÓT XUA TAN SỰ SỢ HÃI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Cho đến hôm nay, số người nhiễm Virus Vũ Hán tại Việt Nam vẫn cứ tăng dường như mỗi ngày. Các quốc gia đang chạy đua để bào chế vắc-xin và thuốc đặc trị. Việt Nam có phác đồ điều trị theo hoàn cảnh của Việt Nam và kết quả cho thấy đến nay chưa có người chết. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho Việt Nam. Tuy nhiên, con Virus Vũ Hán vẫn là mối đe doạ cho hết mọi người, mọi nhà, mọi quốc gia. Bên cạnh sự nguy hiểm của Virus Vũ Hán, còn có những thứ virus khác đang huỷ hoại tâm hồn con người. Đó là thứ “virus hoảng loạn, sợ hãi”, khiến cho nhiều người bị tê liệt trong tâm hồn, mất kiểm soát trong hành động và lâu dài nó làm suy nhược ý chí của con người.

Thưa quý OBACE, cái chết của Chúa Giêsu năm xưa cũng đã khiến các tông đồ của Chúa rơi vào tình trạng hoảng loạn, sơ hãi. Các ông sợ hãi đến độ đánh mất tất cả ý chí, suy nghĩ, chỉ còn sống co cụm lẩn trốn với nhau trong nhà vì sợ người Do Thái. Các ông sợ hãi đến độ tuy còn thở nhưng như những người đã chết. Trong tình cảnh đáng thương như thế, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Sự bình an là món quà đầu tiên và hết sức cần thiết cho các tông đồ, mà Chúa Giêsu đem đến cho các ông lúc này. Để củng cố cho sự yếu đuối của các tông đồ, Chúa Giêsu còn cho các ông xem tay và cạnh sườn Người, cho các ông được đụng chạm đến Người bằng xương bằng thịt sau khi Người đã từ cõi chết sống lại.

Thánh Gioan ghi lại: “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” Tâm hồn và cuộc đời các ông như hoang mạc khô cháy, chết chóc, nay đón nhận được nguồn nước và bắt đầu hồi sinh. Tuy nhiên, Chúa Giêsu Phục Sinh còn muốn biến đổi hoàn toàn các ông, xua tan tất cả những sợ hãi chết chóc trong tâm hồn và ban cho các ông một sức sống mới: “Ngài đã thổi hơi trên các ông và phán: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại.” Như vậy, sức mạnh mới mà Chúa Phục Sinh ban tặng cho các tông đồ chính là Chúa Thánh Thần, để từ đây các ông không còn sợ hãi nữa. Hình ảnh Chúa thổi hơi trên các ông còn nhắc cho chúng ta nhớ đến hình ảnh ngày xưa Thiên Chúa đã thổi hơi vào mũi con người, để cho nó có sự sống. Hôm nay, Chúa Phục Sinh cũng thổi hơi trên các tông đồ để biến các ông từ những xác chết trở thành những con người mang sự sống của Chúa Phục Sinh. Cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Chúa Phục Sinh còn trao cho các ông quyền cầm buộc và tha thứ. Từ đây, các tông đồ sẽ dùng quyền năng của Thiên Chúa, nhân danh Thiên Chúa tiếp tục ban ơn tha thứ cho nhân loại.

Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót của Chúa, bởi vì câu chuyện cho thấy, Chúa Giêsu Phục Sinh không chỉ quan tâm cách chung đến các tông đồ, nhưng Ngài thấu hiểu tâm hồn của từng người, cụ thể là Tôma. Trong lúc hoảng loạn do cái chết của Thầy và sợ hãi vì nghĩ rằng người Do Thái sẽ tìm cách tiêu diệt tất cả những ai liên quan đến Thầy Giêsu, Tôma đã bỏ anh em tông đồ để tìm kiếm một nơi trú ẩn đâu đó. Chiều Chúa Nhật tuần trước khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, đã không có mặt của Tôma. Vì vậy, anh đã không thể đón nhận được niềm tin Phục Sinh. Không những thế, anh quyết liệt đòi cho bằng được đụng chạm đến vết thương của Thầy, đòi có một kinh nghiệm cá nhân gặp được Thầy: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.”

Chúa Giêsu Phục Sinh đã thấu hiểu và cảm thông với một tâm hồn đã từng bị tổn thương vì cuộc khổ nạn thập giá của Ngài, Ngài không muốn để anh trở nên mặc cảm hay lạc lõng giữa anh em. Vì thế, Chúa đã gọi đích danh anh: “Tôma! Đặt ngón tay con vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Hãy đưa bàn tay ra mà xỏ vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin.”Lòng thương xót của Chúa Phục Sinh đã đổ vào trái tim và tâm hồn của Tôma, phá tan sự sợ hãi và nghi ngờ. Chúa cho Tôma được đụng chạm đến dấu đinh và vết thương của Chúa là được chạm vào lòng thương xót của Chúa. Tôma đã được biến đổi hoàn toàn, anh tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa của tôi.”

Tin mừng Gioan còn cho thấy một điểm giáo lý quan trọng qua câu chuyện: Sở dĩ Tôma không đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh bởi vì Tôma đã tách khỏi các tông đồ, có nghĩa là tách khỏi cộng đoàn Giáo Hội. Giáo Hội đón nhận mầu nhiệm phục sinh từ nơi Chúa Giêsu và trở thành nhân chứng đáng tin nhất của mầu nhiệm này. Vì thế, chỉ những ai hiệp thông, hiệp nhất hoàn toàn với Giáo Hội, mới có thể đón nhận được niềm tin phục sinh và có cùng một cảm nhận, một niềm vui với Giáo Hội. Lời Chúa nói với Tôma: “Vì con đã thấy Thầy, nên con tin, phúc cho những ai không thấy mà tin”, là lời Chúa chúc phúc cho chúng ta, là những người tin vào Chúa Phục Sinh không phải vì được thấy Chúa, nhưng nhờ lời rao giảng và làm chứng của Giáo Hội.

Các tông đồ đã hoàn toàn vượt qua sự sợ hãi trước đây, được đón nhận một tinh thần mới, sức sống mới của Chúa Thánh Thần, các ông đã hoàn toàn trở nên những con người mới. Sách Công Vụ Tông Đồ kể lại sự can đảm hiên ngang của các tông đồ sau sự kiện phục sinh. Các tông đồ lên đường đi khắp nơi rao truyền sức sống mới cho các dân tộc, làm cho họ trở nên một dân mới: “Mọi người đều kính sợ vì các tông đồ đã làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Còn các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng.”

Chúa Phục Sinh đã biến đổi các tông đồ từ những con người nhát đảm sợ hãi, nay trở nên mạnh mẽ hiên ngang; từ những con người bình dân kém cỏi, nay các ông trở nên uyên bác thông thái; từ những con người trước đây còn phân bì, tị nạnh nhau, nay các ông trở nên những con người nhiệt tâm, nhiệt thành với sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã quy tụ về cho Chúa một đoàn dân mới sống trong tình huynh đệ, yêu thương, trong cùng một đức tin, một việc phụng thờ và một tình bác ái: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung…Họ đồng tâm nhất trí ngày ngày lên Đền Thờ. Khi tham dự lễ bẻ bánh họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được mọi người thương mến.”

Thưa qúy OBACE, thánh Phêrô mời gọi chúng ta cùng tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã cho chúng ta được tái sinh để sống con người mới, cuộc sống mới, nhờ Chúa Giêsu Phục Sinh. Vì thế, chúng ta được mời gọi sống trong niềm vui, hy vọng và hân hoan, cho dù có trải qua những gian nan thử thách. Chúng ta không thể để mình rơi vào tình trạng hoảng sợ trước nghịch cảnh như những người không có niềm tin. Trái lại, chúng ta được mời gọi sống trong sự tin tưởng và phó thác cho lòng thương xót của Chúa. Sống tin tưởng phó thác không có nghĩa là chúng ta thụ động ỷ nại vào Thiên Chúa mà không có sự nỗ lực cố gắng của bản thân. Ví dụ: dịch bệnh đang diễn ra trên thế giới là hết sức nguy hiểm, chúng tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, nhưng vẫn phải khôn ngoan và biết áp dụng những cách phòng tránh để gìn giữ sức khoẻ cho mình và cho cộng đồng.

Trong thời đại ngày nay, ma qủy dùng nhiều cách để gieo sự hồ nghi và làm lung lạc đời sống đức tin của người tín hữu, đặc biệt niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Những lúc gặp khó khăn trong đời sống đức tin, noi gương Tôma, hãy quay trở về với Giáo Hội, trình bày những khó khăn của mình với Giáo Hội. Vì khi liên kết mật thiết với Giáo Hội, đức tin của chúng ta sẽ được nuôi dưỡng, được củng cố nhờ các thánh lễ và các bí tích. Nơi thánh lễ mỗi ngày, chúng ta sẽ gặp được Chúa Phục Sinh và được đụng chạm đến lòng thương xót của Ngài, Ngài sẽ ban lại cho chúng ta sự bình an.

 Xin Chúa Phục Sinh thổi hơi trên chúng ta, ban cho ta sự sống mới của Ngài. Xin Ngài cũng ban Thánh Thần của Ngài xuống trên chúng ta, cách riêng những người trẻ, để Thánh Thần là sức mạnh, biến chúng ta thành những con người mới, can đảm mạnh mẽ, không sợ hãi, sống và làm chứng cho Chúa Phục Sinh trong thời đại công nghệ hôm nay. Amen.

Về mục lục

CÁC VẾT SẸO

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ Ngài đều “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài. Chính trong cộng đoàn bị thương tích, đau đớn và vỡ mộng này, Chúa Giêsu đã đến, mang theo những lời tha thứ và chữa lành: “Bình an cho anh em”.

Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại. Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông. Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.  Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.

Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?

  1. Những vết sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa

Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần. Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây…”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi… Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).

Chúa Giêsu phục sinh mang các vết sẹo như là chiến tích vĩnh cửu. Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.

Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.

  1. Những vết sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả

Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.

Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.

Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.

Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.

3Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh

Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh. Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!

Đức Giêsu đã không lạ lẫm với đau đớn, âu lo, thất bại và nỗi cô đơn. Người biết sự phản bội của bạn hữu. Người đã mang lấy những vết thương hữu hình và vô hình vì nhân loại. Chúng ta cũng vậy, không chỉ mang lấy những vết thương của mình, mà còn cưu mang những thương tổn của những người ta yêu mến, những người gặp hoạn nạn và bệnh tật. Chúng ta cũng thổn thức với những âu lo, đau khổ của thế giới trong những tháng ngày dịch bệnh virut Vũ hán. Giờ đây, ánh sáng của Thiên Chúa đã chiếu sáng xuyên qua bóng tối của ngôi mộ, chúng ta không còn phải lo sợ về cái chết cuối cùng nữa.Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân, một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình thì cũng có thể gọi đó là sự phục sinh! Trước khi thụ nạn, Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ về những thống khổ như là nỗi đau quặn của một phụ nữ khi sinh nở, để sau đó có được niềm vui khi một mầm sống mới được khai sinh (Ga 16, 20-22).

Ngày 23/9/1968, cha Piô Năm Dấu, vị linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại nước Ý. Ngài nổi tiếng vì được Chúa in năm dấu thánh trên thân thể suốt 50 năm. Năm dấu thánh đó là năm vết thương của Chúa được in trên hai tay, hai chân và cạnh sườn cha Piô. Những vết thương đó thường rỉ máu và làm cho ngài đau đớn khôn tả. Ngài được khám nghiệm y khoa và được kiểm chứng bằng khoa học nhiều lần. Nhưng tất cả các nhà chuyên môn đều không thể giải thích được hiện tượng này và cũng không có cách nào chữa trị được các vết thương đó.Ngày 02/5/1999 ngài được phong chân phước và ngày 16/6/2002 được phong hiển thánh bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Cha thánh Piô đã được in năm dấu thánh để được hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Giêsu. Đó cũng là những chứng tích niềm tin cho một thế giới “cứng lòng tin” hôm nay. Chúng ta cũng hãy mang lấy những dấu tích đau thương của Chúa không phải nơi thân xác nhưng trong tâm hồn và cuộc sống chứng nhân, để làm cho niềm tin được tỏa sáng đến mọi người.

Như mùa xuân sau đông tàn, Phục sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.

home Mục lục Lưu trữ