Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 45

Tổng truy cập: 1355307

LÒNG TIN VÀ SỰ CHÂN THÀNH

LÒNG TIN VÀ SỰ CHÂN THÀNH

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Cấu trúc ba bài đọc Lời Chúa hôm nay là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt về lòng tin và sự chân thành.
     Bài đọc 1 trích sách Các Vua kể chuyện bà goá thành Xarêpta. Thời ngôn sứ Êlia, khi Thiên Chúa làm hạn hán trên đất nước Do thái để phạt vua tôi của nước này, ngôn sứ Êlia được lệnh Chúa tạm lánh sang xứ Sarepta. Êlia xin bánh, dù bà goá không đủ bột làm bánh cho hai mẹ con nhưng với lòng tin cậy vào lời hứa của Thiên Chúa nên đã chân thành dâng chút bột và dầu ít ỏi làm bánh nuôi ngôn sứ. Chúa đã trả công bội hậu cho bà thoát cảnh đói khổ “hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Thiên Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”.
     Nơi bài đọc hai, tác giả thư Do thái trình bày một điều căn bản trong đức tin Kitô giáo “Đức Kitô đã tự hiến chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người”, điều chỉ có sự thành tín của Thiên Chúa mới thực hiện được.
     Bài Tin mừng kể lại chuyện Đức Giêsu biểu dương tấm lòng thành của bà goá nghèo dù bà chỉ dâng hai đồng tiền kẽm.
     Đức Giêsu thảnh thơi ngồi quan sát xem đám đông bỏ tiền vào thùng tiền dâng cúng ra sao. Người thấy một cảnh đối chọi thật chát chúa: có những người giàu bỏ thật nhiều tiền (thấy tay họ cầm và tiếng tiền kêu leng keng trong thùng!”), lại cũng có “một bà góa nghèo, đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma”. Phản ứng của Đức Giêsu thật đặc biệt: “Người liền gọi các môn đệ lại mà nói”. Lần trước “Người ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói” (Mc 9,35) là để sửa dạy các ông vì khi đi dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn nhất, trong khi các ông không dám hỏi lại về những lời Người loan báo trong Cuộc Thương Khó. Hôm nay Người ngồi sẵn đó, Người gọi các môn đệ lại, chỉ cho các ông thấy bà góa nghèo này và nói. Tại sao hình ảnh bà góa này dâng cúng hai đồng kẽm, đáng giá một phần tư đồng xu Rôma, lại kéo sự chú ý của Người như thế? Nghe kỹ lời bình luận của Người: “Mọi người đều rút từ tiền bạc dư thừa của họ mà bỏ vào đó; còn bà góa này thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có thể nuôi sống bản thân mình”. Những người khác bỏ nhiều tiền vào thùng, nhưng rút từ tiền bạc dư thừa, chứ không phải tất cả tiền dư bạc thừa, nên tuy bỏ nhiều nhưng chưa đụng tới đời sống của họ. Còn bà góa này rút từ cái túng thiếu của mình, bỏ vào đó “tất cả tài sản, tất cả những gì bà có thể nuôi sống mình”. Số tiền này chỉ đủ mua bánh mì ăn một bữa.
     Trong cuộc hỏi đáp với ông kinh sư, Người vừa đọc lại điều răn thứ nhất. Bây giờ Người bắt gặp bà goá nghèo này đang thực hành điều răn ấy triệt để. Điều răn bảo “yêu mến bằng tất cả trái tim, tất cả mạng sống và tất cả những gì người có”. Bà góa này túng thiếu, không có dư thừa, bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có thể nuôi sống mình, thế là bà đã yêu mến bằng tất cả những gì mình có, bằng cả mạng sống. Có yêu bằng tất cả trái tim hay không thì làm sao kiểm chứng được. Nhưng yêu mến bằng tất cả những gì mình có và bằng cả mạng sống thì chứng minh được, như bà góa này vừa làm. Đã yêu mến như thế thì chắc chắn là yêu bằng cả trái tim rồi.(x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan).
     Bà góa đã dâng cúng với tất cả tấm lòng thành, với niềm tin và bằng lòng mến nồng nàn đối với Thiên Chúa. Bà dâng cúng hai đồng tiền kẽm, tuy nhỏ nhất nhưng đó là tất cả những gì thiết yếu cho cuộc sống của bà, như thế bà đã dâng cả mạng sống. Nhìn cung cách dâng cúng của bà, Đức Giêsu đã khen: “Bà góa nghèo khó này đã bỏ vào hòm tiền nhiều hơn mọi người”.
     Chiêm ngắm hai thái độ, hai hành động của bà goá trong Cựu Ước và Tân Ước, họ có chung một điểm đó là tấm lòng chân thành khi cho đi và tâm hồn hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Kết quả là họ không mất gì cả mà được tất cả. Bà goá ở Xarépta được một hủ bột không cạn và bình dầu không vơi. Bà goá nghèo trong Tin Mừng tuy không biết kết quả sau này thế nào nhưng việc làm của bà lại đẹp lòng Thiên Chúa, như vậy đã đủ đối với một con người tin tưởng phó thác vào Chúa.
     Đây là sứ điệp Lời Chúa gởi đến chúng ta hôm nay: Con hãy sống và hành động chân thành, nhiệt tâm và tin tưởng. Nếu con giúp đỡ ai, con hãy giúp đỡ cách thành tâm và hết lòng, theo khả năng con có thể. Nếu dâng cúng tiền của hay bất cứ điều gì cho Thiên Chúa và Giáo Hội, con hãy dâng cúng theo khả năng của con, nhưng phải dâng một cách thành tâm. Bởi vì trước mặt Thiên Chúa, của lễ cũng như số lượng của lễ hoàn toàn không quan trọng. Chính tâm tình con thảo và tấm lòng tin tưởng của con mới là điều Thiên Chúa muốn.      Ðối với của lễ dâng cúng, không phải lễ vật và trị giá của nó, mà chính là sự chân thành và lòng tin của con mới là điều quan trọng và đáng kể.
    Đối với Thiên Chúa, lễ vật dâng tiến không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là với cả tấm lòng. Cách cho quý hơn của cho. Của cho kèm theo tấm lòng là của cho quý hóa nhất.
     Yêu mến thì phải cho. Nhưng của cho không bằng tấm lòng người cho. Và cho chính cái mình quý nhất mới là cái cho lớn nhất, giá trị nhất. Bà góa đã cho nhiều nhất vì đã cho cả tấm lòng.Xét về số lượng khách quan thì số tiền một phần tư xu so với năm, ba chục ngàn hoặc từng mấy trăm ngàn hay một triệu thì thật mỉa mai, thật tức cười. Nhưng với Chúa Giêsu hai đồng tiền nhỏ của người phụ nữ vô danh lại nhiều hơn hết. Điều có nghĩa là những công việc đạo đức và từ thiện, bác ái hơn nhau ở động lực và lý do hay mục đích chứ không phải ở số lượng. Giá trị của việc dâng cúng, việc bác ái không hệ tại ở số lượng của cải nhiều hay ít, có giá trị hay không, mà chính là tùy thuộc vào tấm lòng chân thành của người dâng cúng.Muốn của dâng trở thành một của dâng đích thực thì phải là của dâng do lòng hy sinh. Vấn đề không nằm ở số tiền dâng mà ở cái giá người dâng phải trả, không phải là tầm cỡ của lễ vật, nhưng là sự hy sinh. Mẹ thánh Têrêsa Calcutta nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”. Thiên Chúa nhận định giá trị về một con người không dựa trên những gì họ có mà dựa trên những gì họ đã cho đi. Ai không bao giờ biết cho đi mới thực sự là người nghèo khốn cùng. Chính lúc cho đi là lúc lãnh nhận.
     Khi khen tặng bà góa nghèo, có vẻ như Chúa muốn nói rằng “Hãy nhìn, đây là một mẫu gương của một người nghèo chân thành cho đi tất cả những gì bà có vì lợi ích chung”. Đóng góp vào việc xây dựng Giáo xứ là bổn phận của mọi tín hữu. Đối với Giáo Hội, người Kitô hữu có bổn phận sống bác ái, chia sẻ và góp sức xây dựng nhà Chúa, giáo họ, giáo xứ ngày càng khởi sắc, ngày càng đi lên, ngày càng tốt đẹp. Nói thì dễ, thực hiện nhiều khi cũng có những lấn cấn, khó nói, khó làm. Trong vai trò lãnh đạo giáo xứ, tôi muốn biểu dương những công việc và hy sinh của mọi thành viên. Họ là những vị hội đồng giáo xứ, những bà mẹ mỗi chiều 3 giờ đến nhà thờ đọc kinh lòng thương xót, những ca viên, giáo lý viên, các chú lễ sinh, nhóm quét nhà thờ, người giật chuông, ông bà cao niên đọc kinh sáng tối. Những hội viên caritas, hội giúp đỡ kẻ liệt, các giới các đoàn thể… Họ là những người phục vụ theo khả năng của mình. Không có họ, giáo xứ không sinh hoạt sống động. Những đóng góp của họ dù là tiền bạc, dù là công sức đều có giá trị trước mặt Thiên Chúa và Giáo Hội. Rồi còn có các bà goá, những người bệnh hoạn tật nguyền, những người lao động chân tay hay trí óc. Tất cả đều cống hiến để xây dựng Giáo xứ. Chắc chắn Chúa cũng nhìn đến công lao của mỗi người và cũng khen thưởng như khen thưởng bà goá: “Thầy bảo thật anh em, người này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”.
     Có lẽ tài sản quý giá nhất chúng ta có là thời giờ của mình. Đôi lúc cho đi tiền của lại là điều dễ thực hiện hơn; cái khó là cho đi thời giờ, tài năng và khả năng của mình. Hãy biết cho đi. Thương yêu là cho đi. Càng cho nhiều là dấu càng yêu thương nhiều. Không chỉ cho đi những gì là vật chất mà còn những gì là tinh thần như một nụ cười, một cái nhìn thiện cảm, một lời nói vui vẻ hiền hòa, những lời an ủi chân thành…mà còn cho đi lời cầu nguyện trong đời sống siêu nhiên.
     Trong tháng 11 này, chúng ta tưởng nhớ những người đã qua đời. Họ đang yên nghĩ, họ cần điều gì nhất? Họ cần đến lòng thương xót Chúa. Họ cần chúng ta nhớ đến họ bằng tình yêu thương của trái tim. Họ muốn chúng ta đừng quên họ nhưng hãy nhớ đến họ bằng kinh nguyện và thánh lễ.
     Họ đã bước vào cõi thinh lặng ngàn thu. Họ chỉ cần chúng ta nhớ đến và cầu nguyện. Họ muốn chúng ta cho họ những bông hoa tưởng nhớ, những nụ hoa cầu nguyện, những mật hoa bác ái, những hương hoa hy sinh.
     Người Công Giáo được khuyến khích thực hiện những điều thiết thực, như xin Lễ, dự Lễ, đọc kinh cầu nguyện, làm việc lành phúc đức… để chuyển cầu cho những người đã ra đi mà còn đang vướng mắc một vài trở ngại nào đó khiến họ chưa hoàn toàn chia sẻ vinh quang và hạnh phúc với Thiên Chúa. “Cầu nguyện cho người chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một ý tưởng lành thánh” (2 Mcb 12, 46; GH, 50). Khi cầu nguyện cho họ, chúng ta không chỉ giúp họ, mà còn làm cho lời họ chuyển cầu cho chúng ta hiệu quả hơn” (GLCG, số 958). Những việc lành phúc đức cho chúng ta một cảm giác hạnh phúc và ý nghĩa bởi vì thân nhân của chúng ta đã và sẽ còn được tưởng nhớ đến mãi.
     Trên giường hấp hối, mẹ Monica đã nhắn nhủ con trai Augustinô: “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh”.
     Tháng 11, tháng cuối năm phụng vụ. Tại các nghĩa trang, người tín hữu thường đến thắp nhang, cắm cành hoa tươi, đọc kinh cầu nguyện trước phần mộ người đã qua đời. Người còn sống cầu nguyện cho người đã chết. Người đã an giấc ngàn thu nhắn nhủ người đang sống về lý lẽ cuối cùng của cuộc sống làm người. Bầu khí phụng vụ tháng 11 hướng về cùng đích của cuộc sống làm người. Đó chính là Cánh Chung.
     Trong suốt tháng các linh hồn này, hãy chân thành và tin tưởng dâng mọi ý nguyện và những hy sinh của chúng ta để cầu nguyện cho người thân và mọi người quá cố. Ước gì những lời cầu nguyện và hy sinh ấy cũng nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào cuộc sống mai hậu, và nhờ đó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống hàng ngày.

 
CÁI NHỎ CHỨNG TỎ CÁI TO

Trầm Thiên Thu


     Có lần đề cập sự lo lắng và tin tưởng, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Việc nhỏ nhất mà anh em còn làm không được, thì anh em lo lắng về những việc khác làm gì?” (Lc 12:26) Và khi nói về việc trung tín trong cách sử dụng tiền của, Ngài nói: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn.” (Lc 16:10)
     Người ta coi thường cái lỗ thủng nhỏ nhưng bất ngờ con thuyền bị đắm. Kiến tha lâu cũng đầy tổ, đó là vấn đề tích cực. Miệng ăn núi lở, đó là vấn đề tiêu cực. Những cái nhỏ có vẻ chẳng đáng gì nhưng lại rất quan trọng. Cuộc sống có nhiều thứ không như chúng ta tưởng. Có những thứ nghịch mà thuận, nhỏ mà vĩ đại, ít mà dồi dào, bình thường mà rất khác thường.
     Có một ví dụ thú vị mà các triết gia đã tốn nhiều công sức để phân định xem một ly nước “BỊ cạn một nửa” hay “ĐƯỢC đầy một nửa.” Bị hay Được cũng là dạng thụ động, ngoại ngữ chỉ có thể diễn tả một kiểu, còn Việt ngữ có thể diễn tả hai cách – cái tốt gọi là Được, cái xấu gọi là Bị.
     Cách suy nghĩ cũng khác nhau về cách nhìn vấn đề. Người bi quan thấy ly nước BỊ CẠN MỘT NỬA và họ LO SỢ nước sẽ tiếp tục cạn, người lạc quan thấy ly nước ĐƯỢC ĐẦY MỘT NỬA và họ HY VỌNG nước sẽ được đổ thêm cho đầy hơn. Quan điểm hay thế giới quan là điều khó thay đổi vì nó chính là lăng kính mà qua đó, chúng ta nhìn mọi sự xảy ra. Cái ly trong mắt người bi quan sẽ không bao giờ đầy và cái ly trong mắt người lạc quan sẽ không bao giờ cạn.
     Vấn đề nhỏ – to cũng “dính líu” con người. Trong xã hội, người ta tự phân chia đa cấp – người trọng, kẻ khinh. Ngày xưa, một dạng bị coi thường là người góa bụa. Góa là tình trạng của một người đã lập gia đình nhưng chết vợ hoặc chết chồng, nhưng người ta thường có ý nói về phụ nữ: Bà góa, góa phụ, quả phụ hoặc sương phụ. Góa phụ và quả phụ đều là phụ nữ chết chồng – có thể có con hoặc không, và có khác một chút xíu: Quả phụ là người còn trẻ, góa phụ là người đã luống tuổi. Kể cũng lạ, “gà trống nuôi con” thì người ta thấy thương cảm, còn “gà mái nuôi con” thì người ta lại thấy… bình thường! Loại phụ nữ góa bụa thường bị xã hội coi thường, xưa cũng như nay, vì vậy mà họ cũng thường cảm thấy cô độc và tự ti mặc cảm. Thế nhưng Chúa Giêsu lại chú ý và đề cao “giai cấp” khốn khổ này.
Thân phận không ảnh hưởng cách sống. Thật vậy, trình thuật 1 V 17:10-16 kể về một bà góa tốt bụng đã nuôi ngôn sứ Êlia 
     Ngày đó, sau một thời gian hạn hán, Đức Chúa bảo ông Êlia đi Xarépta thuộc Siđôn, và ở lại đấy, rồi sẽ có một bà góa ở đó nuôi ông. Thế là ông đi ngay. Vừa đến cổng thành, ông thấy có một bà góa đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và xin nước uống. Bà ấy liền đi lấy nước cho ông, rồi ông bảo bà cho ông xin miếng bánh. Bà lấy danh Thiên Chúa mà thề rằng bà không có bánh, chỉ còn nắm bột và chút dầu trong vò, bà đi lượm vài thanh củi về nhà nấu nướng cho mẹ con bà ăn bữa cuối rồi chờ chết. Ông Êlia bảo bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói, nhưng trước tiên hãy làm một chiếc bánh nhỏ cho ông ăn trước, sau đó làm cho mẹ con bà. Ông nói rằng Thiên Chúa đã hứa hũ bột sẽ không vơi và vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Ngài đổ mưa xuống trên mặt đất.
 
     Không chú đắn đo, bà góa làm theo lời ông Êlia. Bà góa này thực sự đạo đức. Cả mẹ con bà và ông Êlia có đủ ăn lâu ngày, vì hũ bột không hề vơi và vò dầu chẳng hề cạn, đúng như lời Đức Chúa đã hứa. Phép lạ nhãn tiền.
     Chắc chắn chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm như vậy, bởi vì duy nhất một mình Ngài là Tạo Hóa chứ chẳng có thần linh nào khác. Người Việt chúng ta, kể cả những người không tin vào Thiên Chúa, thường cầu xin khi trời nắng lâu ngày: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm.” Cuộc sống cho thấy rằng El Niño hay La Niña thì chúng ta cũng đều khổ sở, vì khô quá hoặc ướt quá cũng bất thường, bất ổn!
     Theo tiếng Tây Ban Nha, El Niño nghĩa là “bé trai,” có ý nói đến Chúa Hài Đồng. Trung bình cứ 3-10 năm, ngư dân vùng biển ở Peru lại thấy nước biển ấm dần lên vào mùa đông, khoảng vài tuần trước Lễ Giáng Sinh. Đó là một nghịch lý, nhưng nó vẫn tồn tại có chu kỳ và kéo theo hiện tượng hơi nước ở biển bốc lên nhiều hơn, tạo ra những cơn mưa như lớn. Người ta gọi đó là hiện tượng El Niño để đánh dấu thời điểm nó xuất phát gần dịp Giáng Sinh. Còn La Niña nghĩa là “bé gái,” hiện tượng này trái ngược với El Niño. La Niña thường bắt đầu hình thành từ tháng Ba đến tháng Sáu hằng năm, ảnh hưởng mạnh nhất vào cuối năm cho tới tháng Hai năm sau. La Niña xảy ra ngay sau khi hiện tượng El Niño kết thúc. El Niño là hiện tượng nước biển tăng độ nóng, La Niña là hiện tượng nước biển tăng độ lạnh – còn gọi là El Viejo hoặc Anti-El Niño. 
     Thiên Chúa nhân hậu nhưng cũng công bằng. (x. 1 Pr 1:17; Rm 2:2; Kh 19:11) Thánh Vịnh gia cho biết: “Thiên Chúa xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính.” (Tv 146:7-8) Ngài giàu lòng thương xót, yêu thương mọi người, không phân biệt và không thiên vị ai, đặc biệt xót thương những người bị xã hội ruồng bỏ: “Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân. Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở, Sion hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.” (Tv 146:9-10)
 
     Chúa Giêsu đã tự hạ đến tột cùng và yêu thương chúng ta đến cùng, yêu thương đến muôn đời. Thánh Phaolô minh chứng: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng NGƯỜI ĐÃ VÀO CHÍNH CÕI TRỜI, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa CHUYỂN CẦU CHO CHÚNG TA. Người vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh.” (Dt 9:24-25) Hy lễ của Đức Giêsu Kitô chỉ một mà trọn vẹn tất cả, nhưng Ngài vẫn chấp nhận tiếp tục chịu đau khổ vì chúng ta. Thật kỳ diệu vô cùng!
 
     Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần để TIÊU DIỆT TỘI LỖI bằng việc hiến tế chính mình. Phận con người là PHẢI CHẾT MỘT LẦN, rồi sau đó CHỊU PHÁN XÉT. Cũng vậy, Đức Kitô đã tự hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để CỨU ĐỘ NHỮNG AI TRÔNG ĐỢI NGƯỜI.” (Dt 9:26-28)
 
    Có sự trùng hợp thú vị: Cuối Năm Phụng Vụ cũng là thời điểm cuối năm đời thường. Cuối năm như lời nhắc nhở mỗi chúng ta về đoạn cuối cuộc đời của mình – không chỉ đối với người già mà cả người trẻ. Sắp hết năm và chắc chắn sẽ hết, cuộc đời cũng sẽ hết và chắc chắn chúng ta sẽ chết. Chuyện nhỏ hay to, bình thường hay đặc biệt? Chết rồi còn gì chăng? Mọi thứ vật chất chúng ta sở hữu sẽ thuộc về người khác, chỉ những gì chúng ta trao tặng thì còn lại mãi với chúng ta. Đó là các nhân đức và công phúc, đặc biệt là đức ái, vì đức ái còn mãi mãi: “Lúc hiến thân là lúc nhận lãnh, lúc quên mình là lúc gặp lại chính mình.” (Thánh Phanxicô Assisi)
 
     Trình thuật Mc 12:41-44 (≈ Lc 21:1-4) nói về việc dâng cúng của bà góa nghèo, tức là đề cập việc trao tặng, biếu hoặc cho. Điều này cho thấy rằng động từ “cho” là động từ quan trọng lắm: “CHO thì có Phúc hơn là NHẬN.” (Cv 20:35) Thật vậy, “hãy làm mọi sự vì Đức Ái.” (1 Cr 16:14)
 
     Một hôm, Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền, cũng có một BÀ GÓA NGHÈO đến bỏ vào đó HAI ĐỒNG TIỀN KẼM – trị giá 1/4 đồng xu Rôma. Đồng kẽm (số ít: lepton, số nhiều: lepta) là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất thời La Mã. Khi lưu hành ở Palestine, 1 lepton trị giá khoảng 6 phút làm công theo lương trung bình mỗi ngày. Thực tế rất đời thường, nhưng Đức Giêsu dùng sự thật này để dạy bài học vô giá: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng NHIỀU HƠN AI HẾT. Quả vậy, mọi người đều rút từ TIỀN DƯ BẠC THỪA của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, TẤT CẢ NHỮNG GÌ BÀ CÓ để nuôi sống mình.” Bà góa nghèo bị người ta khinh miệt nhưng bà lại là “thầy dạy” của chúng ta về cách làm việc từ thiện.
 
     Chúa Giêsu đề cao bà góa với ngụ ý chỉ trích giới lãnh đạo Do Thái giáo là những kẻ đạo đức giả, họ dâng cúng chỉ để người khác chú ý và được tôn trọng. Ngài có chỉ trích chúng ta? Liệu chúng ta có cảm thấy thanh thản?
 
     Dâng cúng là điều cần thiết, rất tốt. Điều răn thứ năm của Giáo Hội có đề cập. Tuy nhiên, những gì chúng ta gọi là “việc thiện” hoặc “việc đạo đức” thì phải thực sự có “chất” đạo đức và thánh thiện. Có lẽ chúng ta cần cảnh giác mà đặt vấn đề, kẻo “chưa rối đạo mà lại rối việc đạo!”
 
     Thế nào là nhỏ hay to? Ông A dâng cúng bạc tỷ thì nhận bằng ân nhân đặc biệt, bà B dâng cúng vài chục triệu thì nhận bằng ân nhân bậc I, II hoặc III, anh C dâng cúng vài triệu thì nhận bằng ân nhân bình thường, còn chị D không ai chú ý vì chị không có nhiều tiền để dâng cúng, chị ngó trước ngó sau rồi vội vàng bỏ vài chục ngàn đồng vào thùng ở cuối nhà thờ. Sợ người ta nhìn thấy nên chị rất ngại!
 
     Lạy Thiên Chúa cảnh báo chính trực, xin giúp chúng con sống thật và hành động đúng, xin để đừng để chúng con “ra vẻ” để được người khác chú ý, xin tận diệt mọi thứ xấu xa trong chúng con, dù chỉ là ý nghĩ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

home Mục lục Lưu trữ