Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 23

Tổng truy cập: 1364109

LỬA PHÉP RỬA

Lửa - Phép rửa

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu nói đến lửa và phép rửa: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy ước mong lửa ấy bùng lên. Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Lửa Chúa nói là gì? Tại sao Chúa lại ném lửa vào mặt đất? Phép rửa Chúa nói là gì? Chúa đã chịu phép rửa của Gio-an Tẩy Giả ở sông Gio-đan, tại sao Chúa còn phải chịu một phép rửa nữa. Đó là những điều chúng ta cần tìm hiểu.

Trước hết, về lửa. Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy nhiều lần đề cập đến lửa: ông Mô-sê thấy lửa cháy trong bụi gai, đây là hình ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa khi ông Mô-sê gặp gỡ Ngài. Dân Do Thái thấy cột lửa đi trước hướng dẫn họ trong sa mạc. Ngọn lửa từ trời thiêu hủy hai thành Sôđôma và Gômôra tội lỗi. Lời Chúa mạnh mẽ như lửa nơi miệng ngôn sứ Giêrêmia. Ngọn lửa ngôn sứ I-sa-i-a nhìn thấy trong đền thờ đã thanh tẩy môi miệng ông trở nên thanh sạch để loan báo sứ điệp cho dân. Ngôn sứ Ê-li-a được ví như ngọn lửa, và lời giảng dạy của ông như đuốc cháy, và ông được đưa về trời trên một chiếc xe bằng lửa. Hai môn đệ Giacôbê và Gioan xin Chúa cho phép các ông xin lửa từ trời xuống thiêu hủy dân làng Samari từ chối không đón tiếp Chúa. Mưa lửa từ trời xuống như là một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới. Lưỡi lửa của Chúa Thánh Thần đậu trên các tông đồ vào ngày lễ Ngũ Tuần. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói Ngài đã đến ném lửa vào mặt đất.

Như vậy, Kinh Thánh nói đến lửa, để chấp nhận các của lễ, để thanh lọc, thánh hóa cũng như để luận phạt, hủy diệt những kẻ tội lỗi, những dân thành sống vô luân, đồi trụy. Nhưng cao cả hơn, lửa để biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa nhân loại, cũng như lửa là biểu tượng tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa đối với con người. Lửa được Chúa Giêsu đề cập đến trong bài Tin Mừng hôm nay mang ý nghĩa sau cùng này.

Bởi lẽ với sự nhập thể của Ngài, Chúa Giêsu đã đem sự hiện diện của Thiên Chúa đến giữa nhân loại, Chúa đã đem ngọn lửa của tình yêu Thiên Chúa đến giữa cuộc sống con người. Chúa còn nói: “Thầy còn mong cho lửa ấy bùng lên”. Có nghĩa là Chúa mong cho nhiều người đem ngọn lửa của đời mình vào tình yêu của Thiên Chúa do Ngài mang đến để thế gian được thắp sáng trong tình Chúa cũng như trong tình người. Nhưng trước đó, Chúa phải làm cho ngọn lửa tình yêu bùng cháy thật to để mọi người trải qua mọi thời đại và sinh sống khắp nơi được thấy. Đó là hành động chết trên thập giá để đổ máu cho tình yêu thương cuối cùng mà trong bài Tin Mừng Chúa gọi là “phép rửa”.

Thực vậy, cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là phép rửa mà Chúa muốn nói đến trong Tin Mừng hôm nay. Một lần khác, trên đường lên Giêrusalem, hai môn đệ Giacôbê và Gioan đến xin Chúa cho hai ông được ngồi bên hữu bên tả Chúa khi Chúa được vinh quang, Chúa đã trả lời: “Các anh không biết các anh xin gì. Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”. Cả hai lần, rõ ràng Chúa muốn nói đến cuộc thương khó của Ngài qua tiếng phép rửa. Chúa phải đi vào cuộc thương khó, phải thực hiện sự hy sinh trên thập giá để có thể gieo lửa tình yêu Thiên Chúa xuống trần gian, nhất là gieo tình yêu đó vào trong tâm hồn con người.

Càng mong lửa tình yêu lan rộng, Chúa càng nóng lòng chờ đợi cuộc thương khó và cái chết đau thương trên thập giá của Ngài. Phần chúng ta, để nhập cuộc vào con đường phát huy tình yêu thương này của Thiên Chúa, Chúa đòi chúng ta phải đặt lại bậc thang giá trị: Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong con tim chúng ta, trong cuộc sống và mọi hoạt động của chúng ta, sau đó mới đến những người thân yêu. Khi có sự mâu thuẫn giữa hai bổn phận hay giữa hai ý định khác nhau, chúng ta phải chu toàn phận sự về Thiên Chúa trước. Khi phải chọn lựa giữa hai đối tượng tương phản, chúng ta phải chọn lựa Thiên Chúa.

 

32.Lửa trên mặt đất – McCarthy

(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)

Suy Niệm 1. NGÔN SỨ LÀ “NGƯỜI GÂY RỐI LOẠN”

Đức Giêsu rõ ràng là một con người tinh tuyền lành thánh, cho nên chúng ta vẫn mong rằng Người phải được mọi người yêu mến. Tuy nhiên Người đã gây “rối loạn” đến nỗi bị ghét bỏ và sau cùng bị đóng đinh. Làm thế nào mà điều ấy đã xẩy ra? Bởi vì Đức Giêsu là một ngôn sứ, một ngôn sứ tôn giáo, và một ngôn sứ luôn luôn là một Personna non grata đối với quyền lực hiện hành. Phần lớn các ngôn sứ đều bị bách hại và một số bị giết chết.

Giêrêmia là một ví dụ. Ông được kêu gọi để trở thành ngôn sứ từ khi còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel và sự tàn phá Giêrusalem và Đền Thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ông yêu thương tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin và quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Người. Tuy nhiên ông bị kết án là một kẻ làm loạn và ông sống trong sự đe doạ thường xuyên đối với mạng sống mình.

Các ngôn sứ là “những người gây rối loạn” theo nghĩa tốt nhất của từ ấy. Không có kẻ khuấy rối sự bình an nào lớn hơn người rao giảng công lý và sự thật. Hãy lấy trường hợp của Martin Luther King ở Mỹ. Ông là một con người của hoà bình. Tuy nhiên, khi đứng lên kêu gọi chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc đối với người da đen, ông đã gây ra nhiều biến động hơn bất cứ người nào khác cùng một thế hệ với ông ở Hoa Kỳ. Hãy lấy trường hợp nhà bác học Nga Andrei Sakharov, ông cũng bị chính quyền cộng sản gán cho nhãn hiệu “kẻ gây rối” khi ông kêu gọi chấm dứt sự đàn áp những người không có cùng quan điểm và sự phát triển các vũ khí hạt nhân.

Một đôi khi điều chúng ta gọi là hoà bình thực ra không phải là hoà bình. Bất cứ hoà bình nào không xây dựng trên nền tảng công lý đều là một hoà bình giả hiệu. Cố Tổng Giám Mục Helder Camara ở Braxin đã mô tả nó như thứ ánh sáng giống ánh sáng mặt trăng trên đầm lầy. Đức Giêsu đã đến để đem lại hoà bình nhưng không phải loại hoà bình ấy. Giống như hoà bình giả hiệu, cũng có sự hiêp nhất giả hiệu trong đó người ta bao che cho sự phân biệt, kỳ thị và bất công.

Khi nhà văn Nam Phi Laurens Vander Post được phóng thích từ một trại giam các tù nhân chiến tranh ở Nhật Bản, ông hầu như phẫn nộ bởi những tàn bạo của thời bình mà ông đang sống không khác gì ông đã phẫn nộ trước những tàn bạo của chiến tranh. Còn Solzhenitsyn nói rằng khi những người lính trở về đời sông dân sự, họ kinh hoàng bởi cách mà người ta đối xử nhau tàn nhẫn nhất trong con người họ khi đem lại cho họ cơ hội phục vụ một chính nghĩa cao cả hơn bất kỳ sự theo đuổi nào của lợi ích bản thân.

Những sự việc như thế được chấp nhận là bình thường thì quả là bất thường. Ví dụ như những bất công trong xã hội, khoảng cách giữa cái nghèo không được giúp đỡ và cái giàu xấc xược. Chúng ta đã quá quen với điều đó nên không còn cảm thấy phẫn nộ. Chúng ta cần có người lay động chúng ta ra khỏi giấc hôn mê và sự thờ ơ đó.

Đức Giêsu nói Người đến để đốt lửa trên mặt đất này. Đây chỉ là một hình ảnh, một ẩn dụ, nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Lửa không phải là một vật mà người ta có thể thờ ơ với nó. Nó không phải là một vật yếu đuối, nhợt nhạt, không sức sống. Lửa sưởi ấm và an ủi. Nhưng nó cũng đốt bỏ những gì vô dụng và thanh lọc những gì ô uế.

Sứ điệp của Tin Mừng là lửa, nó là men của thế gian Chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu phải là những người giữ gìn ngọn lửa ấy.

Suy Niệm 2. CHẠY ĐUA

Vào thời đại hôm nay, chúng ta chứng kiến một hiện tượng lạ lùng nhưng kích động. Đó là hiện tượng chạy đua. Chúng ta thường thấy mười hoặc có khi hai chục ngàn người tham gia vào các cuộc chạy Maratông trong thành phố và trên khắp thế giới. Một vấn đề đặt ra: chạy Maratông một mình hay chạy với người khác, trường hợp nào cho là dễ hơn. Câu thành ngữ: “Người chạy đường dài cô độc” nói lên tất cả.

Một vận động viên chạy một mình trước một khán đài chật ních các cổ động viên reo hò cổ vũ, người ấy lấy hết nghị lực và mọi sức lực để chạy vượt quá khả năng thông thường của người ấy.

Chúng ta lấy hết sức lực để chạy khi thấy xung quanh mình cũng có những người khác đang chạy. Điều này đặc biệt đúng như chúng ta không quan tâm đến việc được xếp vào số những người về đích trước tiên mà chỉ quan tâm đến việc hoàn thành cuộc chạy. Lúc đó, chúng ta coi những người cùng chạy như bạn hơn là những đối thủ. Chúng ta coi họ như những người nâng đỡ. Điều này làm chúng ta có thể rút ra sức mạnh gương sáng của họ. Họ tạo thành một dòng người đưa chúng ta đi như trong một dòng chảy mạnh mẽ.

Điều gì trở ngại cho một vận động viên khi chạy? Bất cứ điều gì làm hỏng hoặc sự yếu đuối nào. Nhưng cũng do thiếu động lực. Khi người ta có động lực cao, họ muốn thực hiện những hy sinh to lớn bằng cách cống hiến thời gian, ăn kiêng, nỗ lực v.v…

Chạy Maratông không phải là để chiến thắng. Cuộc chạy mới đáng kể. Chạy Maratông tự nó là một biến cố. Mọi người đều chiến thắng. Điều quan trọng là sự tham dự và dấn thân. Và qua việc tham dự, chúng ta giúp đỡ những người khác bằng gương sáng của chúng ta: chúng ta có đóng góp một phần nhỏ.

Không phải chỉ khi chạy đua người ta mới rút ra được sức mạnh của tình đồng đội. Tác giả sách Do Thái khích lệ các độc giả của ông phải kiên trì trong đức tin bất chấp cái giá phải trả. Ông nói họ phải rút ra sức mạnh của “đám mây vô số nhân chứng” đã đi trước họ. Ông đã dẫn chứng các thánh nhân trong Cựu Ước là những người đã chạy đua trước họ.

Các Kitô hữu ý thức mình là một phần của một chuỗi các nhân chứng thánh thiện kéo dài từ các thánh Tông đồ. Trong cuộc chiến đấu để giữ lòng trung tín, họ luôn luôn tìm lại những gương sáng đầy cảm hứng của các ngôn sứ, nhân chứng và thánh nhân. Chúng ta rút ra niềm hy vọng và lòng can đảm từ những “anh hùng của đức tin”, các ngài duy trì lòng trung tín bất chấp việc các ngài chưa được nhìn thấy lời hứa hoàn thành trong đời sống các ngài. Và khi chúng ta cảm nghiệm sự mệt mỏi cùng cảm giác thất bại và không hiệu quả, các ngài nói với chúng ta: “Chúng tôi ở với các bạn. Đừng bỏ cuộc”.

Như một phi công tiền phong đã nói: “Một đôi khi bão tố và sương mù chụp xuống bạn. Nhưng bạn hãy nghĩ đến tất cả những người đã băng qua sương mù, bão tố trước các bạn, và bạn chỉ cần tự nhủ: “Họ đã làm được điều đó, nên điều đó có thể được thực hiện lại”.

Nhưng đặc biệt chúng ta phải hướng mắt nhìn về Đức Giêsu. Lòng trung tín của Người đã dẫn đưa Người đến thập giá và sau thập giá đến vinh quang. Người là một gương sáng cao cả toàn thể đám mây các gương sáng trong Cựu Ước.

Sứ điệp ấy thật rõ ràng! Giống như Thầy chúng ta, các Kitô hữu chúng ta phải sẵn sàng chiến đấu vượt qua mọi vật trở ngại trên con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đây không phải là cuộc chiến đấu đơn độc, nhưng là một cuộc chiến đấu mà chúng ta cùng nhau thực hiện. Chúng ta cùng nhau chạy trong một cuộc đua cao cả nhất dành cho tất cả mọi người.

 

33.Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

Trong xu hướng toàn cầu hóa thì định luật cạnh tranh càng trở nên khắt khe: đó là điều làm cho nhiều người lo lắng, và cách đặc biệt các nước thuộc thế giới thứ ba sẽ không còn khả năng tự bảo vệ nền kinh tế vốn quá yếu kém của mình. Nói được rằng ý niệm cạnh tranh giờ đây bao hàm luôn một thuộc tính đáng sợ "không khoan nhượng".

Thực ra sự cạnh tranh trên bình diện cuộc sống thường ngày chỉ là một phản ảnh tất yếu của một cuộc cạnh tranh nằm ngay trong sâu thẳm bản thân mội một con người. Lời Chúa hôm nay muốn phơi bày thực tại ấy, một thực tại mà con người ở mọi thời dường như luôn tránh né và không muốn đối diện.

Giêrêmia hôm nay bị các vương công ném xuống giếng bùn không phải vì Giêrêmia tranh giành địa vị hay tiền bạc với họ, nhưng chỉ vì Giêrêmia tố cáo sự bội tín của họ đối với các huấn lệnh của Thiên Chúa. Các vương công đang biến Dân Chúa trở thành dân của những tham vọng chính trị trần thế, rời bỏ Giao Ước họ đã ký kết với Thiên Chúa theo đó "Họ là dân riêng của Chúa, và Chúa là Thiên Chúa của họ". Các vương công thì muốn chạy theo thế lực của Ai Cập, một Đế Quốc mới. Họ muốn dân quy phục Ai Cập, phục vụ quyền lợi của Đế Quốc này.

Vào thời Đức Giêsu, những nhà lãnh đạo của Israel đạo cũng như đời đã biến Đền Thờ Giêrusalem thành một trung tâm quyền lực phục vụ cho những quyền lợi của phe nhóm và đảng phái chính trị: họ muốn một sự ổn định trong mối tương giao với Đế Quốc Rôma để giữ được quyền lợi của bản thân họ. Với quyền lực ấy họ phế bỏ những lề luật của Giao Ước không trực tiếp phục vụ cho tham vọng của họ: tạo nên một xã hội mà Đức Giêsu gọi là "thế hệ gian tà". Thậm chí họ biến Đền Thờ thành nơi buôn thần bán thánh, thành hang trộm cướp, "để nuốt trửng đồng trinh cuối cùng của các bà góa". Trong bối cảnh như thế, tất yếu con người như Đức Giêsu "đã đến ném lửa vào trái đất" lại còn "những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên", những con người như vậy tất yếu bị loại trừ theo định luật "cạnh tranh không khoan nhượng".

Vào thời hoạt động của Phaolô, thời cực thịnh của Đế Quốc Roma, khi mà trong toàn đế quốc sự phồn vinh và hưởng thụ trở thành nếp văn hóa tiêu biểu, thì những lời rao giảng về "một Đức Giêsu chịu đóng đinh" đúng là sự điên rồ, và trở thành tư tưởng phá hoại sự ổn định xã hội. Vì vậy người ta nghỉ là phải cưỡng bách giập tắt. Người tín hữu bị ruồng bắt khắp nơi.

Trong xã hội ngày nay, để có cơm ăn áo mặc, và để có một cuộc sống có thể đối diện với mọi người, con người bị ném vào một guồng máy lao động không thể cưỡng chế. Những giá trị luân lý và đạo đức không cho người ta công ăn việc làm, không cho người ta leo lên những nấc thang xã hội, đều trở thành những giá trị nghiệt ngã phải chối bỏ. Vì thế người ta rời xa Giáo Hội, rời xa cuộc sống Đức Tin để đáp ứng những nhu cầu không thể thiếu của đời sống thường ngày.

Xem như thế, vào bất cứ thời điểm nào Lời Chúa luôn đặt trước mắt con người phải làm một cuộc lựa chọn. Sự lựa chọn nào cũng có những đòi hỏi tất yếu phải thanh tẩy những điều không tương xứng và không tương hợp. Và điều ấy tạo nên những đối kháng, những đấu tranh. Những con người như Giêrêmia, như Phaolô giống như chính Đức Giêsu đã phải dùng chính cái chết của mình để khẳng định sự bình an đích thật là sự bình an mà Giao Ước của Thiên Chúa trao ban. Sự bình an ấy đòi hỏi phải thanh tẩy tội lỗi khỏi cuộc sống. Sự thanh tẩy ở đây không phải là những cưỡng chế từ bên ngoài, không phải là những vu khống, bắt bớ, cho dù nó vẫn thường diễn ra như thế. Nhiều người đã nhân danh niềm tin để đòi cho được thứ tự do trong cơ chế, trong tổ chức, trong cơ cấu xã hội. Nhưng Tin Mừng lại chỉ mời gọi con người hãy dấn thân cho một cuộc đua tâm linh: nơi con người chỉ đối diện với chính mình.

Thánh Phaolô thật chí lý khi nhận định về mọi nỗi khổ cực và cả sự chết của Đức Giêsu. Đây không phải là cơ chế, tổ chức, cơ cấu xã hội là nguyên nhân cái chết ô nhục của Người, nhưng "Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá...", đúng như chính Người đã minh xác "Thầy sẽ phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất". Sự đấu tranh kiên cường phải có là sự đấu tranh với chính mình, với lựa chọn phải có trong cuộc sống, để luôn luôn biết "mở miệng hát bài ca mới. Bài tán dương Thượng Đế chúng ta".

 

34.Đem gươm giáo tới

Chúa Giêsu đã cảnh cáo dân chúng về hiểm hoạ của đời sống hưởng thụ - qua dụ ngôn phú nông ngu dại. Rồi Ngài lại khuyên những kẻ theo Ngài - qua dụ ngôn ông chủ về và kẻ trộm đến. Nhưng Ngài không muốn cho họ lầm lạc mà cho rằng nước ấy sẽ thiết lập ngay mà không cần phải tranh đấu và chờ đợi. Thời hiện đại là thời của tranh giành chia rẽ, mà nguyên nhân chia rẽ ấy lại là chính Chúa. Một ngày kia Ngài sẽ trở lại đem lại sự công bình, an lạc đến chỗ toàn thắng và lúc ấy Ngài sẽ là Vua của Hoà Bình. Còn bây giờ Ngài đến thế gian quẳng lên nó một đốm lửa chia rẽ, xung đột. Đó là điều không thể tránh được, nên Chúa Giêsu không ân hận gì khi thấy lửa bén cháy, nhưng cho đến khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá lửa ấy mới bùng lên thành hoả hoạn. Ngài cảm thấy bồn chồn mong cho xong cái kỳ hạn khủng khiếp ấy, Ngài sẽ là cây đuốc châm vào thế gian, ngọn lửa hừng của xung đột và chia rẽ. Sự chia rẽ sẽ xảy ra dầu ngay trong hàng ngũ những người thân yêu nhất.

1. Trong tư tưởng của người Do thái, lửa là biểu tượng của phán xét.

Vì thế Chúa Giêsu nói Nước Ngài đến như một thời kỳ phán xét. Người Do thái tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ phán xét các dân tộc thế gian theo một tiêu chuẩn và phán xét, họ theo một tiêu chuẩn khác. Và sự kiện họ là người Do thái cũng đủ cho họ thoát khỏi sự phán xét của Ngài. Đối với những người đang nhìn biết Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Xức Dầu của Thiên Chúa, thì những lời này khiến họ phải ngỡ ngàng, sững sờ. Họ đã coi Đấng Mêsia là Đấng Chiến Thắng, là Vua, và thời đại của Đấng Mêsia là hoàng kim thời đại… Mặc dầu tư tưởng chúng ta cũng muốn loại bỏ yếu tố phán xét ra khỏi sứ điệp của Chúa Giêsu nhưng nó vẫn tồn tại một cách bất di bất dịch.

2. “Có một phép rửa mà Ta phải chịu”

Động từ Hi-lạp baptizein có nghĩa là dìm xuống nước. Trong thể thụ động nó có nghĩa là chịu dìm xuống nước. Thường thường từ ngữ đó được dùng theo nghĩa bóng. Chẳng hạn dùng để chỉ về một chiếc tàu bị sóng biển vùi dập và chìm xuống. Cũng có thể dùng chỉ một người “uống rượu như hũ chìm” và say đến chết. Cũng có thể dùng để chỉ một thí sinh bị tấn công bởi các câu hỏi dồn dập của các giáo sư khảo hạch. Nhưng đặc biệt nó được dùng để chỉ về một người nhận chìm trong một kinh nghiệm rùng rợn, khủng khiếp, đến nỗi có thể nói “các đợt sóng ba đào bao phủ lên tôi”. Nó có nghĩa của từ mà Chúa Giêsu dùng ở đây. Ngài muốn nói “Ta có một kinh nghiệm khủng khiếp mà Ta phải trải qua và đời sống đầy căng thẳng cho đến khi Ta qua khỏi nó và xuất hiện cách toàn thắng”. Thập giá hằng ở trước mặt Ngài luôn. Ý tưởng đó thật khác xa với ý tưởng của người Do thái về vị Vua của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đến, không phải với những đạo binh báo thù và những ngọn cờ phấp phới, nhưng Ngài đến để phó mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.

3. Sự đến của Ngài chắc chắn mang lại sự chia cách.

Thực tế điều đó đã xảy ra. Đó là lý do khiến người La-mã ghét Kitô giáo, bởi vì nó khiến gia đình phân rẽ. Perpetua thuộc gia đình quý tộc, bị bắt vì đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngoại, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình nàng lễ phép nói với cha: “Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Kitô hữu”. Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới. Perpetua có một đứa con còn đang bú, rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.

Vì biết con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết: Con ơi, hãy thương đếm mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả.

Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ ngẹn ngào trả lời: Thưa cha, tại toà án sẽ xảy ra điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình. Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ: con hãy thương đến đứa con nhỏ của con.

Ngay cả trong gia đình tin Chúa cũng xảy ra chia rẽ. Cha của Phanxicô muốn chàng theo nghề buôn bán để được giàu sang, còn chàng lại quyết tâm theo tiếng Chúa gọi sống nghèo khó tận cùng, thế là bố con chia rẽ nhau.

Mỗi người tin Chúa phải quyết định hoặc yêu mến gia đình hơn hoặc yêu Chúa Giêsu hơn. Bản chất của Kitô giáo là phải đặt sự trung thành với Chúa Giêsu lên trên tất cả cá sự trung thành khác của thế gian. Người ta phải sẵn sàng coi mọi sự như thua lỗ vì cớ cao trọng tuyệt đối của Chúa Giêsu.

 

35.Lửa của tình yêu

“Thầy không muốn đến để đem bình an…”

Sách Xuất Hành kể rằng Môsê dẫn đàn cừu đi vào sa mạc, đến núi của Thiên Chúa là Khoreb. Thần sứ của Giavê hiện ra cho ông trong ngọn lửa giữa bụi gai, bụi gai bốc cháy nhưng không bị thiêu huỷ. Chúa phán cùng Moisê: “Chớ lại gần. Cởi dép khỏi chân đi vì đây là thánh địa”.

Lửa biểu tượng sức mạnh của Thiên Chúa. Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: “Thầy đến để đem lửa xuống trần gian và mong muốn cho lửa cháy lên”. Lửa ấy là gì? Là sức mạnh, vừa soi sáng vừa đốt cháy của tình yêu Thiên Chúa. Là Chúa Thánh Linh đã đến trong ngày Hiện xuống để làm bừng sáng trí khôn, để nung nấu tâm hồn các tông đồ, đã làm cho các ông lãnh nhận phép rửa mà Gioan tiền hô đã loan báo: “Ngài sẽ đến, làm phép rửa anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11).

Vậy muốn trở nên đồ đệ chân thật của Chúa, chúng ta hãy đón nhận lửa tình yêu mà Chúa mang đến. Tâm hồn ta phải đầy lửa. Có lửa mới có thể đem chia sẻ cho người khác. Đó là điều kiện tiên quyết của những ai làm tông đồ của Chúa, nhưng ai có phận sự “làm cho lửa cháy lên” trong các linh hồn.

Lễ Hiện xuống năm 1544, trong khi Thánh Philipphê Nêri đang cầu xin Chúa Thánh Thần thì như có một bầu lửa xâm nhập vào tâm hồn, khiến người cảm thấy đầy lửa yêu mến. Phải chăng đây là triệu chứng một cơn bệnh mà Người mang theo suốt đời? Bệnh thể xác hay bệnh tâm linh, không ai dám quả quyết. Chỉ biết chắc một điều là sau khi Thánh nhân qua đời, các bác sĩ đã mổ khám tử thi, nhận thấy phía trên trái tim của Người, có hai chiếc xương sườn bị gẫy và cong uốn lên như để dành đủ chỗ cho trái tim. Philiphê Nêri là một vị tông đồ đầy lửa của thành phố Lamã.

Điều kiện thứ hai của vị tông đồ là sẵn sàng xả kỷ và hy sinh. Chúa phán: “Thầy đến để đem sự chia rẽ”. Thật là trái ngược! Ngài “hiền lành và khiêm tốn trong lòng”, nhưng “lại đến để đem sự chia rẽ”, cha mẹ chống đối con cái, người trong nhà chia rẽ nhau!

Vì tình yêu chân chính đòi hỏi sự chọn lựa và hy sinh. “Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta”. Lịch sử Giáo Hội nhan nhản những gương hy sinh của các vị Tông Đồ của Chúa. Thân mẫu của Thánh Nữ Catarina Sienna kêu lên ngày con ra đi sống đời tận hiến: “Ôi sức mạnh nào đã chiếm đoạt con tôi?” Đó là sức mạnh của Đấng đã chết trên cây thập giá cách đây XIX thế kỷ, nhưng vẫn còn lôi cuốn “tuổi trẻ, sắc đẹp và tình yêu” (Montalembert).

Chúa Giêsu thật là Đấng đã đem đến cho thế giới máu và lửa. Lửa của Tình Yêu. Máu của Hy Sinh để cứu chuộc nhân loại như trong một phép rửa. “Thầy phải chịu một phép rửa và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.

Yêu mến, tận hiến và hy sinh cùng là ba đức tính của người tông đồ của Chúa.

Tôi khốn khổ cơ bần, nhưng có Chúa ân cần chăm nom. Người là Đấng phù trợ giải thoát.

Ôi, Lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ(Tv 39).

 

36.Ngọn lửa tình yêu – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.

Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.

“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.

Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vẫn bừng cháy trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn người tín hữu giữa đêm tăm tối, cũng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí khôn các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.

Nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm.

Nếu lòng hai môn đệ Emmau đã bừng cháy lên khi nghe lời Chúa, thì nhân loại sao chẳng rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?

Lời yêu thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian.

Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho trần thế.

Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ.

Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.

Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.

Lạy Chúa, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những kẻ đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.

 

37.Hai cách hiểu câu khó hiểu

(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)

Quen tai với những lời dịu dàng của Chúa, nào là “Hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng;” nào là “Phúc cho ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp…” mà hôm nay nghe từ miệng Chúa những câu ghê người: "Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng."

Ta phải hiểu thế nào đây? Có 2 cách hiểu:

1. Chính Giêsu là Đấng Thiên Sai

- Gioan Tẩy Giả khi bị tù đã nghi ngờ không biết ông Giêsu em họ mình có phải là Đức Kitô, là Đấng Chúa sai đên không. Và ông Giêsu đó đã ngầm bảo cho Gioan là chính mình là Đấng Thiên Sai, vì khi Đấng ấy đến thì “kẻ què được đi, điếc được nghe, mù được thấy, người chết sống lại…”

- Kinh Thánh và Do thái giáo chắc chắn biết rõ chủ đề chia rẽ trong gia đình vào thời buổi cuối cùng trước khi Đấng Thiên sai đến.

Sách Talmud, sách giảng giải bậc nhất của Do Thái giáo đã viết: “Thế hệ lúc con vua Đavít (tức Đấng Thiên Sai) đến là thế hệ mà con gái chống đối mẹ mình, nàng dâu chống đối mẹ chồng…”

Còn sách Tiên tri Mikê (7,6) nói về thời buổi cuối cùng khi Đức Kitô đến như sau: “Quả thật, con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch.”

Vậy, thay vì nói chính tôi là Đấng Thiên Sai, Đấng phải đến, thì Đức Giêsu nói “tôi đến gây chia rẽ mẹ chồng nàng dâu, con trai với cha, con gái với mẹ…” vì đó là những lời sấm, những hình ảnh Thánh Kinh dùng để chỉ ngày Chúa đến.

Ví như cô kia thách cậu nọ:

Bao giờ rau diếp làm cột đình,

gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta.

Rồi bất ngờ có ngày anh lấy cô thật, anh Bất lấy chị Ngờ thật, thì thay vì nói hôm nay hai người lấy nhau, thiên hạ nói: hôm nay rau diếp làm cột đình, hôm nay gỗ lim thái ghém.

Thành ra chưa chắc Chúa có chia rẽ hay không, nhưng vì Kinh Thánh và sách Talmud nói, khi Đức Kitô đến, ngài sẽ chia rẽ nàng dâu mẹ chồng… thì Giêsu, thay vì nói chính mình là Đấng Kitô Thiên Sai, sẽ nói bóng gió: ta đến gây chia rẽ.

Mà có khi Ngài chia rẽ thật, vì Ngài đến đâu chia rẽ đó. Và đó là cách hiểu thứ hai.

2. Ngài đến gây chia rẽ

Không phải Ngài đến có mục đích gây chia rẽ, mà là Ngài đến, kẻ yêu Ngài và kẻ ghét Ngài trở nên xa nhau, chia rẽ. Vợ chồng trẻ đang thương nhau, có kẻ thứ ba xuất hiện là một cô gái, chồng mến cô gái này, còn vợ thì ghét cay ghét đắng, thế là vợ chồng chia rẽ nhau vì người thứ ba đến. Ngài đến gây chia rẽ.

- Khi bế trẻ Giêsu trên tay, cụ Simeon nói: đứa trẻ này sẽ nên cớ cho nhiều người vấp phạm, chia rẽ

- Trong dân chúng, có những người nghe các lời Đức Giêsu giảng thì nói: "Ông này thật là vị ngôn sứ." Kẻ khác rằng: "Ông này là Đấng Ki-tô." Nhưng có kẻ lại nói: "Đấng Ki-tô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao? Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?" Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ.

- Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát"; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" Thế là họ đâm ra chia rẽ. (Giống y hệt vụ việc cha Long lòng Chúa Thương Xót hôm nay!)

- Các tông đồ, môn đệ cũng chia rẽ nhau vì một lời quá chói tai của Đức Kitô Giêsu: Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống.

- Chia rẽ để phân biệt trắng đen, trúng sai, trung kiên hay bất tín. Thực tế chia rẽ đã xảy ra. Đó là lý do khiến người La-mã ghét Ki-tô giáo, bởi vì nó khiến gia đình phân tách.

Perpetua thuộc gia đình quý tộc, bị bắt vì Đạo. Cha của nàng vẫn là dân ngoại, thuyết phục nàng bỏ đạo. Chỉ vào chiếc bình nàng lễ phép nói với cha: "Thưa cha, người ta có thể gọi vật này bằng một cái tên nào khác hơn là cái bình không? Đối với con cũng thế, con không thể cho mình một cái tên nào khác ngoài danh hiệu là Ki-tô hữu." Tức quá, ông đánh đập nàng tàn nhẫn, rồi bỏ đi nhiều ngày không tới.

Perpetua có một đứa con còn đang bú và nàng rất khổ vì phải xa con. Đứa bé kiệt sức nên người ta đưa lại cho mẹ nó, và nàng quên hết đau khổ vì có con bên cạnh.

Vì biết Perpetua con gái mình sắp bị án tử, người cha lại đến với những lời thảm thiết: “Con ơi, hãy thương đến mái tóc bạc của cha, hãy nhớ đến đôi tay cha đã dưỡng nuôi con. Hãy nhớ tới mẹ con, anh em con và đến con nhỏ của con nữa, nó sống làm sao nếu không có con. Con hãy bỏ Đạo, bỏ đi điều đã làm cho chúng ta mất tất cả.

Tuy rất cảm động và đau khổ, Perpetua chỉ ngẹn ngào trả lời: “Thưa cha, tại tòa án sẽ biết được đâu là điều Chúa muốn, bởi vì chúng ta không thuộc về mình.”

Người cha còn cho đem đứa trẻ đến năn nỉ: “Con hãy thương đến đứa con nhỏ của con.”

Tuy nhiên trước tòa án, cùng với các bạn khác, Perpetua đã công khai tuyên bố trung thành với Chúa và bằng lòng hi sinh tất cả.

Ngay cả trong gia đình tin Chúa cũng xảy ra chia rẽ. Cha của Phan-xi-cô muốn chàng theo nghề buôn bán để được giàu sang, còn chàng lại quyết tâm theo tiếng Chúa gọi sống nghèo khó tận cùng, thế là bố con chia rẽ nhau.

Sẽ không có chia rẽ giữa mẹ chồng nàng dâu, giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, khi… ai nấy sống đúng với danh hiệu Kitô hữu, tức là bằng hữu, là fan, là cùng phe với Chúa Giêsu Kitô. Amen.

 

38.Lửa

Có một cô gái, mặc dù được sinh ra trong một gia đình đạo đức, thế nhưng vì hoàn cảnh, đã sống một cuộc đời bê tha tội lỗi. Số là vào năm mười tám tuổi, ba của cô thì bị mất việc làm, còn má của cô thì đau yếu triền miên. Và thế là hằng đêm, cô phải la cà vào các hàng quán để mồi chài khách khứa.

Sau một thời gian, cuộc sống thác loạn này đã gieo vào lòng cô một nỗi chán chường, khiến cho cô chỉ muốn nghĩ đến cái chết. Thế rồi, trong một bài giảng, cô được nghe nói về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Tình yêu ấy dạt dào đến độ Ngài tha thứ tất cả với điều kiện là chúng ta phải hoàn toàn phó thác trong vòng tay của Ngài.

Bài giảng được minh họa bằng những sự kiện cụ thể, qua đó, Chúa đã tha thứ cho người đàn bà Samaria, cho Mađalêna, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô và cho tên trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.

Bài giảng này đã tác động mạnh mẽ trong tâm hồn cô gái, khiến cô rưng rưng như muốn khóc. Sau đó cô gái đã dọn mình lãnh nhận bí tích giải tội và quyết tâm làm lại cuộc đời. Giờ đây cô như một em nhỏ, đặt mình vào bàn tay Chúa và để Ngài dẫn dắt. Bởi vì Chúa luôn yêu thương những kẻ bé mọn và yếu đuối. Ngài yêu thương chúng ta với tất cả những khổ đau và vấp ngã của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải biết chạy đến với Ngài vì Ngài là tình yêu.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay với lời xác quyết của Chúa:

- Ta mang lửa đến trần gian và chỉ mong sao cho lửa ấy bừng cháy lên.

Theo các thánh giáo phụ thì ngọn lửa Chúa Giêsu đem vào thế gian là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, đã bừng lên trong ngày lễ Hiện xuống… Chính ngọn lửa này đã làm phát sinh ra Giáo hội, là dụng cụ mà Ngài dùng để thanh lọc và thánh hóa nhân loại.

Thế nhưng chúng ta cũng có thể hiểu ngọn lửa nói đây là ngọn lửa tình yêu mà Ngài đã thắp lên trong cõi lòng mỗi người.

Chính ngọn lửa này đã bùng cháy trong tâm hồn hai môn đệ đi Emmaus trong ngày Phục sinh, để các ông nhận biết Chúa. Và cũng ngọn lửa ấy đã bùng cháy lên trong tâm hồn cô gái tội lỗi, khi cô được nghe biết về tình thương của Chúa, để rồi dứt khoát với dĩ vãng tăm tối của mình.

Với chúng ta cũng vậy, Chúa cũng đã đặt để trong cõi lòng chúng ta ngọn lửa tình yêu của Ngài giống như ngọn nến chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Thế nhưng ngày hôm nay, ngọn lửa đó đã tắt ngấm hay chỉ còn leo lét như một ngọn đèn thiếu dầu?

Chính vì thế chúng ta hãy cầu xin Chúa gia tăng sức mạnh, để ngọn lửa tình yêu của Ngài được bùng cháy trong tâm hồn, nhờ đó mà bản thân chúng ta được sưởi ấm và cuộc đời chúng ta tìm thấy đường nẻo phải đi.

 

39.Lửa tình yêu – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy mang lửa xuống trần gian, thầy mong ước gì, nếu không phải là muốn lửa ấy cháy lên”. Nhóm lên, và làm ngọn lửa tình yêu bừng cháy, là sứ mạng của Đức Giêsu và của mỗi người môn đệ Ngài.

Phải chọn lựa giữa Đức Giêsu và thế gian

Đừng tưởng thầy tới mang hòa bình, nhưng ngược lại, thầy tới mang chia rẽ. Chia rẽ ở đây hiểu theo nghĩa, người ta phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu và giá trị trần gian. Những ai theo trần gian, có thể có ngày họ phản bội và làm hại thậm chí cả anh em hay cha mẹ mình; còn những ai theo Đức Giêsu, phải sống theo luật tình yêu. Qua Đức Giêsu, con người phải chọn lựa, phải có thái độ dứt khoát. Theo nghĩa này, Đức Giêsu mang chia rẽ.

Ở một chỗ khác Đức Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an cho anh em. Bình an Thầy ban cho anh em, không như thế gian ban tặng”. Bình an của Đức Giêsu, không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra; đúng hơn, bình an là thái độ sống mà không gì có thể làm mất được. Bình an do xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài làm những điều tốt nhất cho mình, Ngài biến cả những điều xấu người khác làm cho mình trở thành ích lợi cho mình.

Bình an Đức Giêsu ban tặng, người ta tìm thấy nơi các tông đồ. Dù bị bách hại nhưng các ngài vẫn kiên vững loan truyền Tin Mừng cứu độ “Thiên Chúa yêu thương con người”. Bình an này các thánh tử đạo là những người cảm nghiệm và làm chứng bằng chính cuộc sống của các ngài.

Lửa tình yêu đã thiêu đốt Giêrêmia

Giêrêmia đã nhân danh Chúa nói với dân chúng những điều mà những người lãnh đạo cùng chính dân chúng không ưa thích. Và điều này đã làm cho tiên tri bị ghét, và người ta tìm cách hãm hại tiên tri.

Đã có lúc tiên tri bỏ cuộc, không muốn nói nhân danh Chúa nữa, những lúc đó lòng tiên tri bừng bừng như lửa thiêu đốt, và cuối cùng tiên tri đã trở lại với Chúa, để tiếp tục sứ mạng Ngài trao phó. “Vì nhiệt thành với luật Chúa, mà con phải thiệt thân”. Thiên Chúa ban lửa tình yêu cách đặc biệt nơi một số người, để họ thành chứng nhân của Chúa, để họ trở thành dụng cụ làm bùng cháy ngọn lửa tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với con người nơi nhiều tâm hồn.

Lửa tình yêu với Thiên Chúa trong lòng Giêrêmia, lửa tình yêu đối với con người nơi người đến xin vua Zedekiah giải cứu Giêrêmia, và ngọn lửa tình yêu nơi tâm hồn vua, đã làm tất cả những người này hành động theo tình yêu, theo lương tâm, theo Lời Chúa. Giêrêmia sống theo lửa tình yêu thúc đẩy, và chính Giêrêmia cũng được cứu bởi lửa tình yêu.

Lửa Thánh Thần tình yêu

Thánh Thần là lửa tình yêu. Thánh Thần tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, làm nhiều người can đảm đáp trả tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng sống chết cho tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Trên đường trần không thiếu những gai góc và gian nan vất vả, nhưng với tình yêu của Thánh Thần, biết bao người đang tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, đang nỗ lực làm bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu. Nhìn lên Đức Giêsu như người mẫu và lý tưởng, Kitô hữu hiên ngang sống giữa đời, đem tình yêu đến với mọi người bằng sống yêu thương, ngay cả với những người thù ghét mình.

Tình yêu chiến thắng hận thù. Yêu thương làm cuộc đời đẹp hơn, tươi hơn, thoải mái và hạnh phúc hơn. Lửa tình yêu Đức Giêsu mang xuống trần đã bùng cháy trong tim mỗi người, và mỗi người được gọi để làm ngọn lửa tình yêu lan rộng mãi.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Theo bạn, có khi nào không còn tình yêu trên trần gian nữa không? Tại sao?

2. Dựa vào đâu để bạn nói Đức Giêsu yêu thương con người?

3. Đức Giêsu làm lửa tình yêu bùng cháy bằng cách nào?

 

home Mục lục Lưu trữ