Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 60

Tổng truy cập: 1360642

MẶC LẤY ĐỨC KITÔ

MẶC LẤY ĐỨC KITÔ

 

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Trong một trăm người đang sống trên lục địa Á châu, chỉ có hai người gia nhập Hội Thánh Chúa. Hạnh phúc cho ai được liệt vào số ít những người may mắn nầy. Trong số một trăm người đang sống trên giải đất Việt Nam, chỉ có bảy người có diễm phúc tham dự tiệc cưới vua trời, tức được gia nhập vào Hội Thánh Chúa. Chúng ta cũng được may mắn thuộc về thiểu số nầy. Đây quả là một hồng phúc lớn lao cho chúng ta.

Để xứng hợp với tư cách của vị khách được Thiên Chúa ưu ái mời vào dự tiệc Nước Trời, Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải vứt bỏ tấm áo dơ bẩn đang mặc để khoác vào mình y phục xứng đáng.

Khi mặc đồ tang chế mà đi dự tiệc cưới, người ta nghĩ là bạn bị khùng nặng và xua đuổi bạn tức khắc. Khi bước vào bệ kiến Đức Vua mà trang phục lôi thôi lếch thếch, nói năng hồ đồ lỗ mãng thì không khỏi bị kết tội khi quân. Khi bước vào đời quân ngũ mà ăn mặc rách rưới như kẻ bần cùng, thiếu tác phong quân nhân, thì bạn sẽ bị tống cổ ra ngay vì làm ô danh quân đội.

Hội Thánh của Chúa luôn mở rộng cửa để tiếp nhận tất cả mọi người từ khắp tứ phương thiên hạ bất kể sang hèn tốt xấu. Nhưng một khi đã gia nhập đại gia đình nầy, các thành viên phải cởi bỏ tấm áo xấu xa để khoác lên người trang phục xứng đáng, nghĩa là phải có những phẩm chất phù hợp với Tin Mừng.

Một con sâu tuy nhỏ nhưng cũng đủ để làm rầu nồi canh. Vài ba giọt mực tuy không nhiều nhưng cũng đủ để làm hư tấm vải trắng. Chỉ một ít tín hữu sống trái nghịch với Tin Mừng và giáo huấn Hội Thánh, cũng đủ để làm cho khuôn mặt của Giáo Hội trở nên khó thương trước mặt người khác.

Vì thế nên một khi đã gia nhập Hội Thánh mà cách ăn thói ở không phù hợp thì đương sự sẽ bị Thiên Chúa lên án nặng nề. Đoạn Tin Mừng sau đây nhắc nhở chúng ta điều đó.

"Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?" Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng."

Là người được Thiên Chúa mời gọi gia nhập vương quốc Thiên Chúa, chúng ta phải xem lại cách ăn thói ở của chúng ta sao cho thích đáng.

Xưa kia, Augustinô ban đầu theo đuổi phù du ảo ảnh của thế gian, nhưng đến năm 33 tuổi, lần đầu tiên con người lầm lạc nầy tiếp cận với kinh thánh và đoạn văn đầu tiên đập vào mắt Anh là lời dạy của thánh Phaolô trong thư Rô-ma như sau: "Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt." (Rm 13, 13-14).

Nhờ ơn Thánh Linh tác động, Augustinô bừng tỉnh trước Lời Chúa. Anh cảm thấy những câu Lời Chúa nầy như nói riêng với chính mình. Thế là từ đây, Augustinô từ bỏ quãng đời tội lỗi, từ bỏ những đam mê xác thịt, rũ bỏ bộ áo bẩn thỉu hôi hám để mặc áo mới, mặc lấy Đức Giêsu Kitô. Anh được lãnh bí tích rửa tội vào năm 33 tuổi, hiến mình cho Chúa và ba năm sau, trở thành một linh mục thánh thiện, về sau được cất nhắc lên chức giám mục và trở thành vị thánh chói ngời đồng thời cũng là thầy dạy trong Giáo Hội với tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh.

Trong ngày lãnh bí tích rửa tội, ngày chúng ta chính thức gia nhập Hội Thánh, linh mục chủ sự thay mặt Hội Thánh trao cho chúng ta tấm áo trắng với lời kêu gọi: "Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy nhận chiếc áo trắng nầy, hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để con được sống muôn đời".

Xin cùng khẩn cầu Thiên Chúa giúp chúng ta đừng luyến tiếc áo cũ đã hoen ố vì vô vàn thói xấu tật hư. Hãy dứt khoát cởi bỏ nó để quyết tâm mặc lấy áo mới, mặc lấy Đức Kitô, mang những tâm tình cao đẹp như Chúa Giêsu, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Giêsu, biết thứ tha, yêu thương và phục vụ như Chúa Giêsu; Nhờ đó, chúng ta sẽ được cùng với Chúa dự tiệc vui muôn đời.

 

16.Lời mời dự tiệc

(Suy niệm của John W. Martens - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

“Nước Trời ví như một ông vua kia mở tiệc cưới cho đứa con” (Mt 22,2).

Khi nói về nước Thiên Chúa, có lẽ không một hình tượng nào thú vị và hấp dẫn cho bằng quang cảnh một bữa tiệc. Mọi người trong chúng ta đều đã từng trải nghiệm sự hoan vui với đồ ăn thức uống khi tham dự một bữa tiệc như vậy. Nhiều nơi tôi đã đi qua, đã để lại những dấu ấn khó quên với những món đặc sản tại nơi đó. Vì vậy, hình ảnh bữa tiệc mà bài Tin Mừng nói tới hôm nay mang đậm nét văn hóa nhân sinh nơi cuộc sống đời thường của chúng ta. Bữa ăn gợi nhớ những thời khắc thư giãn trong cuộc sống, hoặc đó cũng là những giờ phút đầm ấm, cả gia đình cùng quây quần sum họp bên nhau. Isaia phác vẽ một viễn cảnh tương lai, đó là lúc “Đức Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc thịnh soạn, nào thịt béo, nào rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25,7). Vị tiên tri còn khai mở trong tâm tưởng chúng ta một chân trời tươi sáng hơn: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần” (Is 25,7). Người ta sẽ nhớ mãi đến Vương quốc này, vì không phải chỉ có thịt và rượu, nhưng còn có một đặc nét khác quan trọng hơn, đó là Thành đô sẽ dàn trải ơn cứu độ đến với muôn dân, và tử thần sẽ bị khuất phục.

Mọi người đều phải ngóng đợi, và hướng vọng về bữa tiệc này. Còn bạn, làm sao bạn có được vé mời để đến tham dự? Rất giản đơn và dễ dàng. Bởi vì chính bạn đã được mời từ lâu rồi. Đức Giêsu kể một dụ ngôn về một ông vua tổ chức tiệc cưới cho đứa con. Ông sai gia nhân đi mời các quan khách. Những người được mời, cho dù thiệp mời đã được trọng thị gửi đi từ trước, nhưng họ đã xem nhẹ và lạnh lùng từ chối. Người đi thăm nông trại, người khác mải mê công việc làm ăn...Một số khác còn bắt các gia nhân, ngược đãi và thậm chí còn giết chết họ. Thái độ phản kháng này xem ra rất dị thường trước một lời mời trang trọng như vậy. Thế thì, ai là những con người đã chối từ bữa tiệc của Đức Vua, mà chỉ chú tâm đến những bận rộn đời thường? Còn kỳ lạ và khó hiểu hơn nữa, chúng ta thử hỏi tiếp, ai là những người đã bắt các gia nhân, giết chết họ chỉ vì họ đi mời các quan khách? Dụ ngôn của Đức Giêsu vạch dẫn những ám dụ biểu thị sự từ chối lời gọi mời của chính Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta hôm nay.

Sự việc Vương quốc bị từ chối, còn nêu ra những thái độ kỳ lạ hơn nữa. Tự bản chất, Vương quốc của Thiên Chúa luôn là một bữa tiệc, là một lễ hội, lúc nào cũng được dọn sẵn và rộng mở cho mọi người. Các giáo phụ đã nói nhiều về điều này, ví dụ Thánh Clêment thành Alexandria đã viết “Trọn vẹn cuộc sống chúng ta là một ngày đại lễ”. Thánh Chrysostomo viết tiếp “Chúng ta có những ngày lễ bất tận”. Còn Thánh Augustinô cũng mô tả “ Lễ hội luôn mãi trường cửu trong nhà Thiên Chúa” và Thánh Hiêrônimô còn nói tổng quát hơn “Cuộc sống chúng ta, là một cuộc lễ hội không bao giờ chấm dứt”... Lễ hội hoan vui của Thiên Chúa luôn tuôn đổ niềm vui xuống trên chúng ta, giữa bao lao nhọc và khổ đau của kiếp người. Nhưng trớ trêu thay, con người lại đáp trả một cách vô tâm, hờ hững, và cuối cùng còn phản kháng một cách cuồng nộ nữa.

Cho dù bị chối từ, các gia nhân vẫn đi và kiếm tìm thực khách để lấp đầy phòng tiệc, bất kể người tốt hay kẻ xấu. Nhưng câu truyện lại nêu ra một khía cạnh khác khá nhức nhối. Nhiều nhà chú giải cho rằng chi tiết này thuộc về một dụ ngôn khác, nhưng đã được gượng ép gắn kết với dụ ngôn về bữa tiệc cưới. Đó là sự kiện xảy ra sau khi các gia nhân đã đi mời, và phòng tiệc đầy kín người, cả tốt lẫn xấu, nhà vua để ý thấy có một thực khách không mang y phục đám cưới. Nhà vua nói với anh ta “Này bạn, sao bạn đến đây mà không mặc áo cưới? Vị khách này đã được mời, và đã ngồi vào bàn, trong khi biết bao người khác lại chối từ. Nhưng tiếc thay, anh ta vẫn còn thiếu một điều quan trọng. Ông vua ra lệnh cho gia nhân “Hãy trói tay chân nó lại, đưa ra chỗ tối tăm bên ngoài, nơi chỉ có khóc lóc và nghiến răng”. Đây là một hình tượng nói về hỏa ngục, theo cách diễn tả truyền thống nơi Tin mừng Matthêu.

Dụ ngôn kết thúc với lời giáo huấn của Đức Giêsu “Người được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít”. Câu kết luận này đan nối câu chuyện tiệc cưới với sự kiện có một vị khách không mặc áo cưới. Khi chúng ta nhìn lại trình thuật của dụ ngôn, rõ ràng hạn từ “nhiều người” mà Chúa Giêsu nói tới, biểu trưng cho “tất cả mọi người”, cho tính phổ quát của ơn cứu độ. Tất cả mọi người, không loại trừ ai, đều được gọi mời vào bàn tiệc, người tốt cũng như kẻ xấu. Nhưng chỉ “ít người được chọn” mà thôi. Đó là những ai đã nhận được lời mời và thực lòng chấp nhận. Họ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hoàn toàn do ân huệ trao ban cách nhưng không, chứ không phải do công lao của họ. Nhưng để được chọn, chỉ lời mời của Thiên Chúa mà thôi, thì không đủ. Còn phải có sự tự nguyện đáp trả từ phía con người, tức là những kẻ được mời. Hơn nữa, một khi chúng ta đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để đến dự tiệc. Y phục phải gọn gàng, khăn áo phải chỉnh tề, tức là chúng ta phải sẵn sàng mọi thứ để có thể ngồi vào bàn tiệc hầu thưởng lãm niềm vui. Y phục tiệc cưới là chính thái độ rộng mở của tâm hồn, sẵn sàng đáp trả lời gọi mời của Thiên Chúa và cộng tác với Ngài, Đấng đem đến cho ta ơn cứu độ. Điểm nhấn của Đức Giêsu nơi dụ ngôn, thể hiện trong câu nói cuối cùng. Không phải là Ngài có ý nói về số người được cứu sẽ ít ỏi. Ngài muốn nêu lên niềm khắc khoải, vì những người được mời thì nhiều, nhưng tiếc thay con số đáp trả lời mời gọi đó, và chuẩn bị sẵn sàng cho Vương quốc lại quá ít. Tất cả mọi người chúng ta được mời, nhưng chúng ta có được chọn hay không, tùy thuộc vào thái độ và sự tự do nơi chính chúng ta. Dầu sao, bạn hãy luôn sẵn sàng, không phải sẵn sàng ngồi vào bàn tiệc hôm nay, hay ngày mai, hay của một thời điểm nào đó, nhưng là bữa tiệc Nước Trời, bữa tiệc của ơn cứu độ, bữa tiệc lúc nào cũng được dọn sẵn và rộng mở để đem lại cho ta niềm vui vĩnh cửu tròn đầy.

 

17.Tiệc cưới Nước Trời

(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)

Chuyện kể rằng: có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại bang. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.

Một ngày kia, đang bươi móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bang con bỗng thấy một con chim đại bang lớn bay lượn trên không thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi mẹ gà:

- Mẹ ơi! Sao mình không bay như chim kia trên trời?

- Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được!

- Thế chúng ta là ai?

- Chúng ta là gà rừng!

Bỗng một ngày, đang khi bươi chải kiếm ăn trên đống rác cậu lại thấy đại bang mẹ bay lượn trên đầu gọi:

- Bay lên con ơi, bay lên đại bang con của mẹ. Thế giới của con là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này! Bay lên đi con.

Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo:

- Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.

Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng sao đại bang kia cứ bảo ta là đại bang con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có gì khó khăn, có lẽ chưa quen thôi. Nào hãy thứ lần nữa xem.

Thế là cậu đại bang đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi. Cậu bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới từ trên cao, lòng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn.

***

Như đại bàng mẹ tha thiết mời gọi đại bàng con bay lên bầu trời thênh thang lộng gió, Thiên Chúa cũng gọi mời các tín hữu Kitô, hãy tiến lên dự tiệc cưới Nước Trời.

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu ví: “Nước Trời cũng giống như chuyệm một vua kia mở tiệc cưới cho con mình” (Mt 22,20). Ông cho mời các quan khách, nhưng họ đều kếm lý do để từ chối; thậm chí, còn sỉ nhục các đầy tớ của vua và giết đi. Cuối cùng vua sai đầy tớ đi mời tất cả mọi người bắt kể tốt xấu vào dự tiệc của ông. Rủi thay, có một thực khách không mặc y phục lễ cưới. Ông liền ra lệnh cho gia nhân: “Trói chân tay nó lại quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó ngươì ta sẽ phải khóc lóc nghiến rằng. Vì kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít” (Mt 22,14).

Mỗi một kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là tấm áo trắng ngày chịu phép Rửa tội.

Tấm áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên.

Tấm áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời.

Tấm áo trắng ấy luôn được mặc vào khi người tín hữu đi dự tiệc Thánh Thể.

Và nhất là, tấm áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày họ bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.

Kitô hữu là người đã được thiên Chúa tuyển chọn., làm con cái của Người. Họ là những con đại bang, luôn ngước mắt nhìn cao, mong bay lên cùng Thiên Chúa là cha đầy yêu thương. Họ luôn sống tâm tình của thánh Au-tinh: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa. Tâm hồn con luôn thao thức cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa”.

Đừng bao giờ nghĩ mình là giống gà rừng, để cúi đầu bươi chải, an phận với những hạnh phúc nhỏ nhoi tầm thường. Tuy được những con sâu bọ là miếng mồi ngon đấy, nhưng chúng cũng nằm trên đống rác, đống phân.

Đừng bao giờ quên rằng, những thành quả trong đời sống kinh tế, và những ân sủng trong đời sống đức tin, chỉ là phương tiện giúp ta đạt đến cứu cánh của cuộc đời, là được vào dự tiệc Nước Trời. Đức Giêsu nói: “Vì nếu người ta được cả thế giớ imà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16,26).

Người do thái bị loại ra khỏi tiệc cưới, cho dù họ là quan khách được mời trước, chỉ vì họ đã không đón nhận Đức Kitô của Thiên Chúa. Mặc lấy “tấm áo trắng Rửa tội” là “Mặc lấy đức Kitô”, là tin tưởng vào Người và ơn cứu độ do Người mang đến.

Người Kitô hữu cũng có thể không vào được Nước Trời, nếu họ để mất “tấm áo trắng Rửa tội”. Chính là việc họ từ chối “mặc lấy Đức Kitô”, từ chối mặc y phục lễ cưới mà vua đã qui định. Đức giêsu nói với họ rằng: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

Rốt cuộc, “chỉ ai thi hành ý muốn của Cha” mới đúng là thực khách của bàn tiệc Nước Trời. Còn tất cả những ai mang danh hiệu Kitô, nhưng sống hòan toàn ngược lại với Tin Mừng, đều phải bị loại ra “chỗ tối tăm bên ngoài”, “nơi khóc lóc nghiến răng”.

***

Lạy Chúa,

Xin giải thoát chúng con khỏi những mê hoặc của khoái lạc, giàu sang, danh vọng. Con đại bang dù có bị cột vào một sợi dây rất nhỏ ấy cũng không thể bay lên cao.

Xin cho chúng con luôn biết lắng nghe tiếng Chúa, và mau mắn đáp lại tiếng gọi yêu thương của ngài. Amen.

 

18.Chúa mời dự tiệc Nước Trời

MINH HỌA LỜI CHÚA:

1. Niềm vui ơn cứu độ

Chúa Giêsu đi dự tiệc cưới Cana. Ở đó, Người đã hóa nước thành rượu ngon cho thực khách tiếp tục ăn uống vui tươi. Trong những bữa ăn thân mật với các môn đệ và mọi hạng người trong xã hội, Người chia sẻ niềm vui với họ. Người nhâm nhi tách rượu với kẻ quen biết, khiến người Biệt Phái kết án Người là bợm nhậu.

Tất cả những cuộc gặp gỡ vui vẻ đó là những bằng chứng hùng hồn cho thấy Chúa Giêsu không phải là con người buồn phiền muốn mượn ly rượu giải sầu, nhưng là con người biết chia sẻ, biết đem lại niềm vui cho mọi người. Chính Người đã ví Nước Trời như tiệc cưới, không gì vui bằng tiệc cưới.

Được nhà vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử, còn niềm vui nào bằng, còn danh dự nào hơn. Thế mà nhiều người đã từ chối vì mãi lo làm ăn hưởng thụ.

Chúa Giêsu mượn hình ảnh những người khước từ lời mời dự tiệc cưới của nhà vua để nói lên thái độ của người Do Thái từ khước sứ điệp cứu rỗi của Người. Người mang đến cho họ sứ điệp giả phóng. Người mang đến Tin Mừng cứu độ, nhưng họ không đón nhận vì bận bịu làm ăn buôn bán: “Quan khách không thèm đếm xỉa tới lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán” (Mt. 22,5). Họ coi trọng việc làm ăn buôn bán hơn Tin Mừng giải phóng. Nói cách khách, họ chạy theo hạnh phúc trước mắt mà bỏ hạnh phúc khuất mắt là hạnh phúc Nước Trời.

Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta duyệt lại nếp sống của chúng ta. Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu có đem lại cho chúng ta niềm vui trong cuộc sống không? Hay niềm vui của cuộc sống chúng ta là: đi tham trại, đi buôn bán?

Thực khách bị loại ra khỏi tiệc cưới hôm nay là vì không mặc y phục lễ cưới. Y phục lễ cưới của chúng ta là Đức Giêsu. Như lời thánh Phaolô bảo: “Hãy mặc lấy Đức Kitô” (Gl. 3,27). Hãy để cho Đức Chúa Kitô chiếm ngự tâm hồn chúng ta, hầu cho niềm vui ơn cứu độ đưa chúng ta vào tiệc Nước Trời. (Theo “Lẽ sống”, tập 2)

2. Chối từ

Trong tập sách “Những mảnh vụn suy tư”, linh mục Albert Limet có ghi lại:

“Một buổi sáng, tôi bước ra khỏi nhà, lòng tràn ngập hớn hở. Bỗng tôi thấy một người lạ mặt đi về phía tôi, tôi vui vẻ chào chúc ông mọi điều may mắn tốt lành; nhưng thay vì vui vẻ đáp lại ông ta tỏ vẻ giận dữ, nói liên tục:

- Tôi không biết ông. Tôi không cần biết ông là ai. Tôi không cần lời chào chúc của ông. Tôi không tin có Thiên Chúa. Tôi không cần Ngài, và tôi nhất định không bao giờ cần Ngài...”

Phản ảnh dữ dội của người khách lạ khiến linh mục phải suy nghĩ trong nhiều ngày. Cha ghi tiếp trong tập sách: “Tôi cảm thấy thương người khách lạ đó hơn là giận ghét. Có lẽ ông đang khổ tâm vì công việc làm ăn của ông thất bại. Có thể ông đang bận quá nhiều công ăn việc làm, không thể nhận lời chào chúc tốt lành của tôi, cũng không thể nhận thấy tinh yêu của Thiên Chúa!...”

Câu chuyện trên đây minh họa thái độ từ khước của những thực khách được vua mời dự tiệc cưới trong Tin Mừng hôm nay. Người khách lạ không nhận lời chào chúc của linh mục Albert Limet vì công việc làm ăn, các thực khách được mời dự tiệc cưới cũng vì đi thăm trại, đi buôn bán mà khước từ dự tiệc.

Đối với Chúa cũng thế. Nhiều lần chúng ta từ chối ơn Chúa, lắm khi chúng ta khinh thường Lời Chúa mời gọi vào dự tiệc hạnh phúc Nước Trời của Chúa, vì coi của cải vật chất, danh vọng chức quyền ở đời, lạc thú xác thịt quý hơn Nước Trời, trọng hơn hạnh phúc vĩnh cửu. Như thế chẳng phải chúng ta đánh giá các giá trị sai lầm sao?

Chúa Giêsu mượn đoạn Tin Mừng hôm nay, hay nói đúng hơn “dụ ngôn tiệc cưới” trên đây để cho chúng ta biết: Chúa không trách chúng ta lo cuộc sống vật chất, vì ai trong chúng ta cũng phải sống thực tế hằng ngày. Nhưng Chúa trách những ai chỉ biết lo cho hiện tại mà không nghĩ gì đến tương lai. Điều sai lầm lớn nhất mà Chúa vạch ra cho chúng ta là chỉ lo cho hiện tại mà không đếm xỉa gì đến tiệc Nước Trời, thậm chí còn từ chối lời mời gọi của Chúa, còn nhục mạ và hành hạ các sứ giả Chúa sai đến nhắc nhở chúng ta. Chúa kêu gọi chúng ta: “Thiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác Người sẽ lo cho các con” (Theo “Ánh sáng thế gian”).

3. Đi tìm kho báu

Một người đi tìm kho tàng quý giá. Sau những ngày đi tìm mệt mỏi, ông thấy mình lạc lối. Nhưng may thay, đang lúc lo buồn vì biết mình lạc đường, ông ngước mắt nhìn về trước thì thấy một lâu đài tráng lệ. Trước cổng lâu đài có tấm bảng với hàng chữ lớn: Xin mời vào.

Ông sung sướng tiến đến lâu đài. Đứng trước cổng, ông ngạc nhiên thấy nhiều người lữ hành đi ngang qua cũng có vẻ lạc đường và mệt mỏi mà vẫn lê bước đi như không thấy có lâu đài trước mặt. Ông liền đến hỏi người gác cổng lâu đài:

- Sao những khách lữ hành đó không dừng lại để vào lâu đài an nghỉ?

Người gác cổng trả lời:

- Đây là lâu đài hạnh phúc, nhưng là một lâu đài bí nhiệm. Chỉ những ai biết mình lạc lối mới có thể trong thấy. Trái lại, những kẻ tưởng mình đi đúng đường và cứ cắm đầu đi theo đường đó, thì bị mờ mắt không trông thấy lâu đài hạnh phúc.

Câu chuyện ngụ ngôn trên đây nhắc chúng ta nhớ lâu đài hạnh phúc Nước Trời. Chỉ những ai biết mình lầm đường lạc lối mới nhìn thấy mà tin vào. Còn những kẻ tưởng mình đi đúng đường, và cứ cắm đầu đi theo đường đó thì bị mờ mắt không trông thấy mà vào.

Những người từ chối lời mời gọi dự tiệc cưới của nhà vua trong Tin Mừng hôm nay là những kẻ tưởng mình “đi thăm trại, đi buôn bán” là đúng nên khinh thường bữa tiệc vui mừng, coi rẻ thịnh tình của nhà vua.

Đối với tiệc Nước Trời cũng thế. Chỉ khi nào chúng ta nhận thức bữa tiệc đó là hạnh phúc nhất, chúng ta mới hy sinh những hạnh phúc khác để đến tham dự.

Và Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ tiệc Nước Trời là hạnh phúc nhất, bền vững nhất. Chúng ta cần hy sinh tất cả để đến dự tiệc đó. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập II).

4. Quê trời vĩnh cửu

Ai đi xa cũng nhớ quê hương đất tổ. Đó là tâm tình tự nhiên mà những kẻ xa quê nhà đều cảm nhận. Đó cũng là nhu cầu không thể bỏ qua trong cuộc sống. Hai chữ “quê nhà” bao giờ cũng gợi lên trong chúng ta một sự êm đềm, hạnh phúc.

Tâm trạng đó giải thích cho nỗi thao thức cùng đích của cuộc sống Kitô hữu là “quê trời vĩnh cửu”.

Ai trong chúng ta, khi làm việc gì cũng nhắm đến cùng đích và cứu cánh của nó.

Con người nỗ lực sống, nỗ lực phấn đấu từng giây từng phút để đạt tới cùng đích của mình, đồng thời cũng chọn cho mình một cách thế sống, như một văn hào Nga đã tâm huyết: “Đời người ai cũng chỉ sống có một lần. Cần sống sao cho khỏi xót xa ân hận”.

Trong Tin Mừng hôm nay, ông vua mời quan khách đến dự tiệc cưới là ám chỉ Chúa mời gọi chúng ta vào dự tiệc Nước Trời là quê hương thật của chúng ta, là quê trời vĩnh cửu, là Thiên Đàng hạnh phúc.

Quê trời vĩnh cửu đó chính là cùng đích và là cứu cánh của người Kitô hữu. Tiệc cưới trong Tin Mừng là hình ảnh quê trời vĩnh cửu đó. Muốn xứng đáng dự tiệc cưới, phải ăn mặc đứng đắn. Chiếc áo cưới trong Tin Mừng tượng trưng cho nếp sống phù hợp với Nước Trời. Được mời vào dự tiệc cưới Nước Trời là một hồng phúc, nên phải đáp lại bằng nếp sống phù hợp với nước đó.

Chiếc áo tượng trưng cho cách sống. Mỗi người chúng ta cần xem lại cách sống của chúng ta, xem cuộc sống hiện tại của chúng ta ra sao. Nó có tốt hơn, đẹp hơn chiếc áo là cách sống của những người không được mời dự tiệc, những người không được ở trong phòng tiệc không?(Theo “Ánh sáng thế gian”).

5. Hạnh phúc thật

Sau đây là kinh nghiệm của một người tìm gặp hạnh phúc thật.

“Tôi là người làm chính trị và cũng là ca sĩ nổi tiếng. Tới đâu, tôi cũng được mọi người hoan nghênh khen ngợi, và họ cảm nghĩ tôi là người hạnh phúc nhất đời. Thế nhưng trong thâm tâm, tôi cảm thấy tôi là kẻ bất hạnh nhất, đến nỗi có lần tôi đã toan tự tử...

Một hôm trên chiếc xe lửa trở về nhà, tôi ngồi đối diện với một người chăm chú đọc sách Kinh Thánh. Một lúc sau, ông ngước mắt nhìn tôi và gợi chuyện:

- Ông là một ca sĩ nổi tiếng. Tôi nghe biết danh tiếng ông.

Tôi đáp:

- Phải đúng vậy.

- Nhưng ông có hạnh phúc không?

Tôi ngập ngừng một lúc rồi thú thật:

- Không hẳn hạnh phúc lắm.

- Xem ra ông thiếu Thiên Chúa trong cuộc sống nên không được hạnh phúc.

Tôi vội vàng đáp:

- Không. Tôi rất hài lòng về cuộc sống của tôi. Tôi có đầy đủ tất cả. Tôi không cần Thiên Chúa.

Nhưng người ấy cứ lặp lại:

- Ông nói thế, chứ thực sự ông cần Thiên Chúa hơn bao giờ hết,

Lời nói của người ấy như sét đánh bên tai tôi. Nó xâm chiếm cõi lòng tôi. Về đến nhà, tôi phải tự nhủ: “Quả thật, người đó nói rất chí lý”.

Hôm sau thấy tôi cần tìm đến người đó, vừa thấy tôi, ông ta vui vẻ hỏi thêm, như để tiếp nối cuộc đối thoại trên xe lửa.

- Ông có muốn được hạnh phúc ngay bây giờ không?

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Làm như ông có sẵn hạnh phúc trong túi vậy?

- Có chứ. Tôi có ngay trong túi đây.

Vừa nói ông vừa rút trong túi ra một cuốn Kinh Thánh nhỏ, trao cho tôi và vui vẻ nói:

- Ông hãy về nhà, đóng cửa phòng lại, mở Kinh Thánh ra mà thầm thỉ: “Lạy Chúa, con chấp nhận Chúa là Chúa của con, là chủ cuộc đời con...”

Tối hôm đó, sau khi vợ con tôi đã đi ngủ, tôi vào phòng và làm như người đó khuyên bảo tôi. Từ ngay đó, niềm vui xâm chiếm tâm hồn tôi. Thiên Chúa thực sự là hạnh phúc duy nhất đời tôi.

Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta, nhất là những người xa lìa Chúa, những kẻ từ chối vào dự tiệc Nước Trời với Chúa, những kẻ gạt Chúa ra bên lề cuộc sống của họ, để chỉ lo bon chen với công ăn việc làm, với việc “đi thăm trại và đi buôn bán” như Tin Mừng hôm nay thuật lại.

Họ chạy theo hạnh phúc mau qua để rồi chỉ còn tồn lại sự trống rỗng tâm hồn. Hạnh phúc chân thật và lâu bền chỉ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Và chỉ những ai biết dừng lại, lắng nghe lời mời gọi của Người, trở về với Người, tìm gặp lại Người, dự bữa tiệc với Người mới được hưởng hạnh phúc đích thực Người ban cho. Nói cách khác, chúng ta chỉ thực sự tham dự bữa tiệc hạnh phúc Nước Trời, khi chúng ta chấp nhận để cho Người bước vào trong tâm hồn chúng ta, làm chủ trọn vẹn cuộc sống của chúng ta.

(Theo “Ánh sáng thế gian”).

 

19.Mời hết vào tiệc cưới – Lm. Trầm Phúc

“Nước Trời giống như…”

Chúng ta đã được nghe nói đến Nước Trời qua nhiều dụ ngôn. Hôm nay, chúng ta hãy suy nghĩ đến một hình ảnh khác của Nước Trời qua dụ ngôn nhà vua mở tiệc cưới cho con mình.

Dụ ngôn này có nhiều điểm tương tự với dụ ngôn mà chúng ta đã nói đến trước đây: dụ ngôn những tá điền sát nhân. Tuy mỗi dụ ngôn đều nhằm một mục đích riêng nhưng cả hai đều nói đến sự từ chối của nhóm Pha-ri-siêu đối với hồng ân cứu độ của Thiên Chúa và thái độ ngoan cố, cực đoan của họ về việc giết các đầy tớ của ông chủ và của nhà vua.

Chúa Giêsu thường dùng hình ảnh tiệc cưới để nêu lên hình ảnh Nước Trời là một bữa tiệc vui. Đó là niềm vui ơn cứu độ.

Dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử này là một tóm lược lịch sử ơn cứu độ. Ơn này được xem như một bữa tiệc cưới; không phải là một tiệc cưới bình thường nhưng là tiệc cưới do nhà vua thết đãi.

Những người được vua mời phải xem như một vinh dự được vua chiếu cố. Đức Vua, chính là Thiên Chúa. Ngài đã tuyển chọn dân Do Thái làm dân riêng của Ngài, nhưng họ không nhận biết hồng ân Chúa ban cho họ, nên họ đã nhiều lần chối từ và phản bội Thiên Chúa. Mặc dù vậy, Chúa vẫn tiếp tục mời gọi họ. Ngài sai các tiên tri đến thúc giục, cảnh báo, và kêu gọi họ trở về với Chúa, nhưng họ càng trở nên ương nghạnh hơn, thậm chí họ còn dám giết chết các tiên tri. Sau cùng, Chúa đã bỏ dân Ngài và kêu gọi các dân tộc khác vào bàn tiệc yêu thương của Ngài.

Dân Do thái đã từ chối Chúa bằng cách không đến dự tiệc cưới. Còn chúng ta, là những người đến sau, là dân mới nhưng được Chúa mời gọi vào dự tiệc của Vua.

Thánh Mat-thêu viết quyển Tin Mừng này cho người Do Thái. Ngài vạch rõ sự cứng lòng của họ. Ngài muốn cho họ thấy rằng, chương trình của Chúa vẫn tiếp tục dù họ từ chối. Chúa kêu gọi tất cả các dân tộc vào dự tiệc của Chúa.

Chúa đã nhẫn nại kêu gọi người Do Thái trở về, nhưng họ càng tỏ ra ngoan cố hơn, đến nỗi giết người Con Một yêu dấu là Chúa Giêsu.

Chúng ta thấy gì? Chối từ ơn Chúa và tình thương của Ngài là một tai họa lớn cho con người.

Những thiên tai, bão lụt, động đất… là những gì đáng sợ; nhưng cái đáng sợ nhất là sống không có Thiên Chúa. Mà sống không có Thiên Chúa, nghĩa là không có tình yêu. Không có tình yêu là khốn nạn, là hỏa ngục. Thiên Chúa không cần sai đạo binh nào đến tiêu diệt những người từ chối lời mời gọi yêu thương của Ngài. Chính con người tiêu diệt lẫn nhau bằng bạo lực, chiến tranh và bằng mọi thứ… mà chúng ta đang chứng kiến hôm nay.

Chúng ta đang sống vào một thời điểm quyết định tương lai của con người. Nhân loại đang đi về đâu? Đó là câu hỏi được đặt ra cho chúng ta hôm nay.

Nếu con người chỉ lo cho bản thân và quyền lợi của mình mà bất cần Thiên Chúa, bất cần người khác, thì sớm hay muộn, chúng ta sẽ hủy diệt lẫn nhau. Hình ảnh của thế chiến thứ ba đang chập chờn trước mắt chúng ta… Thế giới chúng ta đang lâm nguy vì ô nhiễm… Ai có thể cứu thế giới? Những cuộc hội họp quốc tế có đem lại kết quả gì không?

Giêrusalem đã chối từ và Chúa Giêsu phải rơi lệ: “Giêrusalem, Giêrusalem, biết bao lần Ta đã muốn ấp ủ ngươi như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh, nhưng ngươi đã từ chối…”

Và hậu quả là “Không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.”

Chúng ta có hơn dân Do Thái xưa kia không? Chúng ta có chăm chú nghe lời mời gọi của Chúa không? Hay chúng ta vẫn chối từ, vẫn cứng lòng?

Chúng ta đã đáp lại tiếng mời gọi của Chúa như thế nào?

Ai trong chúng ta cũng biết rằng: “Chúa đã yêu tôi và đã liều mạng sống vì tôi.” Hằng ngày Chúa vẫn mời gọi chúng ta vào bàn tiệc yêu thương của Chúa. Ngài đến với chúng ta qua tấm bánh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt Máu Ngài, chúng ta đáp lại như thế nào? Chúng ta đòi hỏi Chúa phải làm gì nữa để chúng ta yêu Ngài?

Nhiều người vẫn không thèm đến dự tiệc của Vua: “người thì đi thăm trại, người thì đi buôn…” Bàn tiệc đã sẵn, nhưng khách mời không đến dự. Họ khinh thị nhà vua, họ còn làm nhục và giết cả những thuộc hạ của vua sai đến mời họ. Họ khiêu khích đến mức độ như thế, hậu quả sẽ như thế nào? Vua sai quân triệt hạ thành phố của họ, và sau cùng, vua sai gia nhân mời tất cả những người ngoài đường phố vào bàn tiệc của vua. Những khách được mời đã từ chối, những người khác được nhờ.

Chúng ta nghĩ thế nào khi chúng ta mở tiệc mời những người thân, những người hàng xóm đến dự, nhưng mọi người đều từ chối, họ đưa ra mọi lý do để không đến? Chúng ta sẽ thất vọng như thế nào?

Nhưng Thiên Chúa vẫn không thất vọng, vì Ngài mãi mãi yêu thương, và Ngài vẫn tiếp tục mời gọi. Bàn tiệc của Ngài luôn sẵn sàng, nhưng chúng ta không đến vì quá bận. Chân trời của chúng ta hẹp hòi, chúng ta ham thích bữa tiệc thế gian hơn bữa tiệc Vua Trời, quyền lợi vật chất của chúng ta quan trọng hơn hồng ân của Chúa. Chúng ta lầm tưởng rằng, thế gian sẽ đem lại cho chúng ta hạnh phúc, mà quên rằng, chỉ một mình Chúa mới là hạnh phúc độc nhất mà thôi.

Chúng ta là khách mời của Chúa. Đây chính là vinh dự lớn lao, nhưng có mấy người hiểu được điều đó? Nhiều người nghĩ rằng Chúa đòi buộc họ quá đáng. Theo Chúa, dự vào bàn tiệc của Chúa không có lợi, vì Chúa không cho họ tiền bạc, danh vọng, và tiện nghi.

Chúng ta hãy nghĩ đến những chối từ của chúng ta. Bao nhiêu lần chúng ta đã phản bội? Bao nhiêu lần chúng ta vì ham mê tiền bạc, của cải đã bỏ quên việc thờ phượng Chúa?

Chúng ta có tốt hơn mấy ông Pha-ri-sêu mà Chúa đã cảnh báo không?

Làm sao chúng ta vào bàn tiệc yêu thương của Chúa với chiếc áo nhơ nhớp, đầy hận thù, tham lam và tranh chấp?

Bàn tiệc của Chúa là một tiệc cưới của hoàng tử. Hoàng tử là Con Chúa Cha hằng hữu đã đến trần gian, cưới một người phàm là nhân loại.

Tất cả chúng ta là cô dâu, một người hèn mạt và xấu xa, nhưng được Thiên Chúa yêu thương trọn vẹn… Hoàng tử thần thiên kia đã yêu thương người vợ nhân loại này đến nỗi quên hết tất cả quyền uy sang trọng của mình, yêu đến nỗi chết cho người mình yêu.

Ai có thể dám chối từ tình yêu của một Hoàng Tử như thế? Và nếu chối từ… thì chỉ còn ngục tối tăm, ở đó họ sẽ khóc lóc nghiến răng…

Hãy mau vào tiệc cưới! Vì tất cả mọi người đều được mời…

Vua Trời không bỏ sót một ai.

 

20.Mời hết vào tiệc cưới

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Nếu chúng ta được vua mời dự tiệc cưới, chúng ta sẽ từ chối không? Hay chúng ta sẽ lấy làm vinh dự được vua chiếu cố? Nhưng trong dụ ngôn, những người được vua mời lại từ chối, lấy những lý do này khác để xin kiếu.

Dụ ngôn này, cũng như nhiều dụ ngôn khác mang màu sắc tranh luận. Chúa Giêsu nhắm thẳng vào nhóm Pharisêu và cả dân Do Thái. Chúng ta biết rằng mối căng thẳng giữa Chúa Giêsu và nhóm Pharisêu càng ngày càng tăng và Chúa Giêsu cũng không ngại nói lên cho họ biết những sai lầm của họ. Ngài dùng nhiều dụ ngôn để giúp họ suy nghĩ, nhưng hình như lòng dạ của họ, vì quá kiêu căng và tự mãn, vẫn không thể nhìn thấy; và ngược lại, thay vì hồi tâm suy nghĩ, họ lại tìm cách tiêu diệt Chúa như một đối thủ hiểm nghèo, một cái gai trong mắt họ.

Bàn tiệc của vua chính là bàn tiệc cứu độ của Chúa. Chúa chọn dân Do Thái để mạc khải ơn cứu độ của Ngài, dân này từ xa xưa đã là một dân cứng cổ, luôn làm theo sở thích của mình, chạy theo các thần ngoại và bỏ Chúa. Chúa đã nói qua miệng tiên tri Isaia: “Suốt ngày, Ta dang tay kêu gọi một dân không vâng lời và ngỗ nghịch”. Nhưng Chúa vẫn kiên nhẫn không thôi kêu gọi họ trở về. Vua sai các đầy tớ đến mời khách nhưng họ chẳng những không đến mà lại bắt các đầy tớ của vua giết đi. Đó là một xúc phạm không thể tha thứ. Vua sai quân tiêu diệt thành phố của họ. Chúa Giêsu nhắc đến lịch sử dân Do Thái, một dân cứng cổ. Chúa nhắc lại việc xưa kia, cha ông của họ giết các tiên tri Chúa sai đến giúp họ tuân giữ Giao Ước. Tiên tri Êlia đã nói: “Lạy Chúa, các ngôn sứ của Ngài chúng đã giết chết… Còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con”. Chúa cũng tiên báo việc Giêrusalem sẽ bị tàn phá vì dân Chúa đã không đón nhận tin mừng cứu độ Chúa mang đến. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã nói lên đau khổ của ngài, vì thấy dân Do Thái từ chối tình yêu của Chúa: “Có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi” vì sao? Vì Chúa đã thương họ nhưng họ không đáp lại tình thương đó, Ngài phải nói lên rằng: “giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng”.

Tiệc đã sẵn sàng, nhưng những khách mời không đến dự. Vua sai gia nhân đi ra khắp các ngã đường mời hết mọi người, không phân biệt giàu nghèo. Chúa mở rộng cửa phòng tiệc cho mọi người mọi thời, không giới hạn. Mọi người trở thành khách mời của Chúa. Nhà tiệc đầy người. Phải chăng đây là hình ảnh của Giáo hội được quy tụ vào bàn tiệc cứu độ? Trong đó gồm đủ mọi hạng người. Chúng ta không thể tưởng tượng niềm vui của những khách mời bất ngờ này!

Mọi người vui mừng được vào bàn tiệc sang trọng của vua. Và vua đến để thăm các thực khách. Bàn tiệc đang vui, vua nhìn thấy một người dự tiệc mà không mặc phục lễ cưới. Vua hỏi: “Sao ngươi dự tiệc mà không mặc y phục lễ cưới?” Người ấy im lặng. Vua truyền: “Hãy trói chân tay nó lại quăng vào chỗ tối tăm bên ngoài…” Chúng ta ngạc nhiên chăng? Mời người ta từ ngoài đường vào mà lại đòi phải mặc y phục lễ cưới là thế nào? Có nhiều cách giải thích nhưng chúng ta không cần phải đi vào chi tiết. Đây chỉ là một dụ ngôn, tức là những hình ảnh ghép lại từ nhiều câu chuyện khác nhau để nêu lên một bài học. Bài học ở đây là không mặc lễ phục như qui định. Không mặc lễ phục là gì? Phải chăng là không đủ điều kiện. Điều kiện gì? Là không hoán cải, không khiêm tốn. Vào tiệc cưới của vua mà mang theo hận thù ghen ghét thì làm sao xứng đáng?

Đối với các ông nhóm Pharisêu và những người Do Thái, nếu họ hiểu, họ sẽ nghiến răng tức tối. Nhưng đối với chúng ta, những người đã được mời gọi vào bàn tiệc Nước Trời, chúng ta có từ chối lời mời của vua không? Chúng ta không đến nỗi bắt gia nhân của vua làm nhục và giết chết, nhưng chúng ta khinh thường những gì Giáo hội dạy, chúng ta chỉ làm theo sở thích của chúng ta, chúng ta dùng những ơn lành của Chúa để phạm tội. Chúng ta đã làm gì với trí khôn và những năng khiếu Chúa ban? Chúng ta sử dụng tiền bạc của cải như thế nào? Để yêu thương hay chỉ để xài phí một cách vô lý, để chà đạp anh em chúng ta, để thỏa mãn những dục vọng đê hèn, hay để phô trương? Làm sao chúng ta vào được Nước Trời là Nước Tình Yêu với những điều kiện như thế?

Dụ ngôn hôm này là một cảnh báo rất gắt gao cho mỗi người chúng ta. Giữ đạo không phải chỉ là nói “lạy Chúa, lạy Chúa”, mà làm theo ý Chúa. N ước Trời không dành cho những hạng người chỉ biết sống cho mình mà cho những người biết dùng mọi hồng ân để tạo hạnh phúc cho anh em, xả thân phục vụ anh em, những người biết yêu thương.

Vua trên trời đã yêu trần gian đến nỗi đi tìm một người yêu cho con mình nơi trần gian này. Tiệc cưới này, chàng rể chính là Chúa Giêsu, Con Một của Cha trên trời, và cô dâu là chính chúng ta. Tình yêu đã khiến cho chàng phải rời bỏ mọi vinh quang đi tìm người yêu tận trần gian này, chết cho người mình yêu. Nhưng người yêu không xứng đáng. Chúng ta không tha thiết gì với người đã yêu chúng ta và đã liều mạng cho chúngta. Chúng ta chạy theo tiền bạc, của cải, những gì làm thỏa mãn xác thịt hơn là hạnh phúc Chúa dành cho chúng ta. Thánh Phanxicô Assisi đã đau lòng nhìn thấy sự hờ hững của con người và ngài đã chạy khắp thành phố vừa khóc vừa la lên: “Tình yêu không được yêu thương, Tình Yêu không được yêu thương!”. Chúa Giêsu đã làm hết mọi cách để tỏ tình với chúng ta, nhưng hình như chúng ta vẫn không để ý gì đến Ngài, không thấy tình yêu của Ngài. Chúng ta dửng dưng khi nhìn cây thập giá là dấu hiệu mạnh mẽ nhất của tình yêu. Chúng ta không thấy người đã dám chết cho chúng ta. Lắm lúc, chính chúng ta cầm giáo đâm vào trái tim của Ngài.

Nước Trời là Nước Tình Yêu. Nước đó đang ở đây, trong thế giới chúng ta đang sống. Nước Trời không phải là mộng mơ của một số người khùng điên mà là hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho con người. Tiệc cưới chính là cuộc sống yêu thương mà chúng ta được mời tham dự. Phải mang áo tiệc cưới như vua đòi buộc. Lễ phục tiệc cưới chính là chiếc áo choàng tình yêu cần mặc để tham dự bữa tiệc của vua. Yêu thương nhau chúng ta mới vui mừng dự vào bàn tiệc cưới, vì đó cũng là tiệc cưới của chúng ta. Con Thiên Chúa đã đến cưới cô gái nhân loại này, thì đó là một hạnh phúc lớn. Hãy vui mừng vì chúng ta được yêu đến tuyệt vời.

Và bàn tiệc cưới hằng ngày vẫn mời gọi đó là bàn tiệc Thánh Thể. Nơi đây chúng ta được mời gọi ăn lấy người yêu thần linh của chúng ta và sống với Ngài liên lỉ cho đến ngày chúng ta dùng tiệc Con Chiên trên thiên quốc. Nơi đó chúng ta sẽ nếm được hạnh phúc tràn đầy mà hôm nay chúng ta đang khao khát và đang chuẩn bị tham dự.

 

21.Cần một tấm lòng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Một trong những cung cách giảng dạy của các danh sư là dùng các câu chuyện kể. Khi sinh thời, Chúa Giêsu cũng đã từng làm người kể chuyện. Cách kể chuyện của Chúa hẳn rất có duyên khiến cho đám đông thính giả say sưa nuốt từng lời, từng câu nói. Chúa Nhật 28 TN A này, Mẹ Hội Thánh cho chúng ta nghe lại câu chuyện Chúa Giêsu kể năm nào: "Nước Trời giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho hoàng tử. Đến hẹn, vua sai gia nhân đi mời quan khách. Ngày xưa, đi dự tiệc cưới của hoàng cung có phải mang theo quà cáp hay phong bì chăng? Ngày nay rất nhiều người cứ đến mùa cưới là như trong tư thế sẵn sàng đi trả nợ đời. Cứ mỗi tấm thiệp mời ăn cưới là một tờ giấy báo nợ không bằng. Tìm được cớ hợp lý để thoái thác tham dự một tiệc cưới kể như lập một chiến công, dù không trọn vẹn, vì cũng phải nhờ người gửi quà biếu, nhưng dẩu sao cũng tiết kiệm được một buổi công làm. Tuy nhiên hầu hết đây là những trường hợp "được hay bị mời", kiểu phải đáp lễ, ít có liên hệ họ hàng hay thân thuộc.

Trở lại với câu chuyện dụ ngôn Chúa kể. Được vua mời dự tiệc cưới hoàng tử quả là một vinh dự to lớn mà nhiều người thời phong kiến hằng ước ao. Không chỉ vì mình được nhà vua sủng ái mà còn có nhiều vận hội lớn, mỗi khi được dịp vào hoàng cung, được dịp gặp gỡ bao vị quyền chức cao trọng. Hơn nữa, ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rõ sự hào phóng của đức vua: Thịt thì béo, rượu thì ngon mà khỏi phải trả đồng nào (x. Is 25,6; 55,1). Thế mà những người được mời lại nỡ tâm từ chối với những lý do không chút tương xứng: đi thăm nông trại, đi buôn bán. Có kẻ lại bắt đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết! Không thể hình dung và cũng chẳng thể hiểu được.

Chuyện hình như không thể xảy ra trong đời thường thì lại rất có thể có trong đời sống đức tin, và thực sự đã hiển nhiên với lịch sử đoàn dân được tuyển chọn ngày xưa. Israel, họ được Thiên Chúa ưu ái mời gọi đến hưởng nhận bao ân phúc của Người. Chỉ là một dân nhỏ bé giữa các dân, họ chẳng có gì xứng đáng. Tất thảy chỉ vì tình Chúa bao la. Chúa sủng ái họ cách đặc biệt hơn các dân. Thế mà khi sai các đầy tớ là các sứ ngôn đến mời gọi thì họ lại chối từ và còn nhẫn tâm hãm hại các ngài. Chính sự vô tình và sự nhẫn tâm của họ đã kết án họ, đã loại họ ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Và rồi muôn dân khắp thiên hạ đã được mời vào dự tiệc của Thiên Chúa. Thiên hạ sẽ từ Đông chí Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc Nước Thiên Chúa, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài. Người ta bị loại chỉ vì thiếu một tấm lòng.

Chúa Giêsu kể thêm một câu chuyện khác cũng về tiệc cưới của hoàng tử. Khi đức vua vào phòng tiệc thì thấy một người không mặc y phục lễ cưới. Đi dự một đám cưới mà trên người chỉ có chiếc "may - ô" và cái quần cộc hay với bộ đồ đen của "đám tang" thì quả là xấc xược với đôi tân hôn, với chủ tiệc và với cả quan khách. Lại còn ương ngạnh, không thèm trả lời khi được chất vấn, thì quả là người chẳng coi ai ra gì, đúng hơn là chẳng biết nghĩ đến kẻ khác. Đi dự một lễ hội, tiệc tùng hay đình đám thì chuyện mặc y phục gì, kiểu dáng ra sao, màu sắc thế nào... không nguyên là để làm đẹp bản thân mà tiên vàn là để tôn trọng chủ nhà, tôn trọng nội dung, bầu khí buổi lễ, buổi tiệc... Đã là người biết nghĩ, thì không ai ăn mặc hở hang, lòe loẹt đi dự đám tang và cũng chẳng có ai mặc toàn màu đen đi dự đám cưới.

Nguời không biết nghĩ đến kẻ khác thì không xứng đáng dự tiệc nước trời, vương quốc của tình yêu. Vào đạo, gia nhập Hội Thánh...mà chỉ biết lo cho bản thân mà thôi, cho dù là phần rỗi linh hồn mình, thì không xứng đáng lãnh nhận ân tình của Chúa. Chốn khóc lóc và nghiến răng là nơi dành cho những kẻ chỉ biết sống cho riêng mình.

Được làm con cái Chúa thì phải lấy danh Chúa làm trọng. Nguyện xin cho danh Cha cả sáng. Được làm tín hữu trong Hội Thánh thì phải mến yêu người mẹ sinh ta trong đức tin. Xin gìn giữ Hội Thánh Chúa trong chân lý và binh an. Được làm con dân nước Việt thì phải đồng hành với dân tộc trong mọi hoàn cảnh lịch sử. Xin cho quê hương được thái bình thịnh vượng trong công lý. Những lời cầu xin cũng là những ý chỉ định hướng cuộc đời ta, hành vi của ta.

Những ngày vừa qua, truyền thông đại chúng nước nhà đất Việt chúng ta đã dùng xảo kế làm méo mó chân dung một vài đấng bậc trong Hội Thánh, gieo rắc ác cảm nơi tâm hồn nhiều bà con lương dân và khác đạo. Chính quyền Hà Nội lại còn dùng bạo lực đối xử cách bất công với nhiều tín hữu Công giáo. Là người đang cùng chung bữa căn nhà Hội Thánh, chúng ta hẳn đau xót cách này cách khác. Thế nhưng, sau một vài ngày, một vài tuần, lòng ta có lại dửng dưng như chưa có chuyện gì xảy ra? Hy vọng rằng sẽ chẳng có ai tự bằng lòng với một vài lời kinh hiệp thông cầu nguyện để che dấu tấm lòng ích kỷ chỉ lo cho riêng mình, sợ bị phiền toái, sợ bị bách hại hay sợ ảnh hưởng đến đường thăng tiến tương lai.

Trước tình cảnh đất nước nhiễu nhương vì nạn tham nhũng, gian dối, bạo lực, bất công... là đồng bào, là người con cùng một dạ mẹ tổ quốc, chúng ta có dừng lại ở một vài xuýt xoa, than thở, tán gấu vĩa hè...để rồi phủi tay xem như chuyện của người khác phải lo, phải liệu, chứ không phải của tôi? Hy vọng rằng sẽ chẳng có ai đóng khung các mối lo toan bằng vòng tay của bản thân hay các cánh cửa gia đình riêng mình.

Lạy Chúa xin cho chúng con có một tấm lòng.

 

22.Chúa Nhật 28 Thường Niên

(Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

Qua hình ảnh bàn tiệc, các ngôn sứ đã thử mô tả niềm vui tương lai của những người công chính trong thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, đồng thời ơn cứu độ và muôn vàn thiên ân đa dạng vào thời Thiên Sai. Bàn tiệc thời Cánh Chung hay bàn tiệc thời Thiên Sai trộn lẫn với nhau ít nhiều trong cùng một biểu tượng.

Is 25: 6-9

Trong Bài Đọc I, được trích từ “sấm ngôn khải huyền của I-sai-a”, bàn  tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi muôn dân là bàn tiệc thời Cánh Chung cũng là bàn tiệc thời Thiên Sai. Đây là niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn, vì mọi đau khổ và sự chết đều hoàn toàn biến mất trong Nước Trời.

Pl 4: 12-14, 19-20

Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng tri ân đối với cộng đoàn Phi-líp-phê nầy. Trái với thông lệ vốn có của mình, thánh Phao-lô đã chấp nhận sự giúp đỡ vật chất của họ khi thánh nhân gặp phải sự khốn khó trong cảnh giam cầm.

Mt 22: 1-14

Tin Mừng thuật lại dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử được Đức Vua thiết đãi cho các vị quan khách thân hữu của mình. Tuy nhiên các vị quan khách lại từ chối, vì thế lời mời được gởi đến tất cả mọi người.

BÀI ĐỌC I (Is 25: 6-9)

Trong văn mạch của các chương 24-27, bản văn được trích dẫn là một phân đoạn đặc thù của sách I-sai-a, thuộc thể loại sấm ngôn khải huyền. Người ta nghi ngờ tác giả của phân đoạn nầy không phải là ngôn sứ I-sai-a, bởi vì văn phong và tư tưởng thuộc thời đại sau nầy. Viễn cảnh của đoạn văn này là thời Cánh Chung (25: 6-8) và thời Thiên Sai (25: 9). Hình ảnh bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn dân diễn tả ơn cứu độ phổ quát và niềm hân hoan khôn tả của những người được tuyển chọn.

1. Viễn cảnh thời Cánh Chung:

“Ngày ấy, trên núi nầy,

Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết tiệc đãi muôn dân một bữa tiệc” (Is 25: 6a)

“Trên núi nầy”, đó là ngọn đồi Si-on trên đó Đền Thờ được xây dựng. Theo ngôn ngữ khải huyền, “núi Si-on” chỉ thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi Thiên Chúa thiết tiệc đãi “muôn dân muôn nước”. Ơn gọi phổ quát của núi thánh đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo, chính xác vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên:

“Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa

đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao,

vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.

Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,

nước nước dập dìu kéo nhau đi.” (Is 2: 1-5).

 Cũng chính vị ngôn sứ này nhắc lại:

“Vì Đức Chúa các đạo binh hiển trị

trên núi Si-on và tại Giê-ru-sa-lem” (Is 24: 23).

Vào thời hậu lưu đày, ngôn sứ Da-ca-ria cũng loan báo theo cùng một cách như thế: “Các dân đông đảo và các nước hùng cường sẽ đến tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh ở Giê-ru-sa-lem” (Dcr 8: 22). Thời cánh chung sẽ là giờ Đức Chúa hiển trị. Bữa tiệc cánh chung là bữa tiệc của Đức Vua. Đức Giê-su sẽ lấy lại chủ đề nầy trong dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử.

Chất lượng tuyệt hảo của thức ăn thức uống nhấn mạnh tấm thịnh tình của Thiên Chúa đối với các quan khách mời:

“Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon,

thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25: 6b).

 Cho đến lúc đó, trong các hy lễ, “thịt béo” luôn luôn được dành riêng để dâng tiến Chúa (Lv 3: 3-5, 9-11, 14-15). Điều đó muốn nói lên rằng con người sẽ được dự phần vào những thiện hảo được dành riêng cho chỉ một mình Thiên Chúa.

Trong Kinh Thánh, rượu luôn luôn là dấu chỉ của niềm vui. Vào dịp nầy, đây là một niềm vui vĩnh viễn bởi vì:

“Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân,

và tấm màn trùm lên muôn nước.

Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần

Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ

trên khuôn mặt mọi người,

và trên toàn cõi đất, Người sẽ xóa sạch

nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy” (Is 25: 7-8)

Sách Khải Huyền Gioan sẽ lấy lại viễn cảnh chứa chan hy vọng nầy: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 4).

2. Viễn cảnh thời Thiên Sai (25: 9)

Sấm ngôn hoàn tất với cuộc hội ngộ vượt quá niềm mong đợi:

“Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta,

chúng ta từng trong đợi Người, và được Người thương cứu độ” (25: 9a)

và một niềm hân hoan chưa bao giờ dám ước mơ:

“Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông.

Nào chúng ta hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ” (25: 9b).

Niềm vui viên mãn, sự no thỏa dư dật cũng sẽ là những dấu hiệu của thời Thiên Sai như tiệc cưới Ca-na hay phép lạ hóa bánh ra nhiều, cả hai đều là dấu chỉ của bàn tiệc thời Thiên Sai đích thật là bàn tiệc Thánh Thể: “Hãy cầm lấy mà ăn”.

BÀI ĐỌC II (Pl 4: 12-14, 19-20).

Với đoạn trích nầy, chúng ta kết thúc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê. Xin nhắc lại rằng thánh Phao-lô viết bức thư nầy khi thánh nhân đang sống trong cảnh giam cầm ở Rô-ma hoặc ở Ê-phê-xô. Các tín hữu Phi-líp-phê đã giúp đỡ ngài, vả lại đây không là lần đầu tiên (Pl 4: 16). Quả thật, các tín hữu Phi-líp-phê là cộng đoàn độc nhất mà thánh nhân đã không từ chối sự giúp đỡ vật chất của họ. Thánh nhân luôn luôn bận lòng là không bao giờ để cho mình phải trở thành gánh nặng cho các cộng đoàn mà ngài loan báo Tin Mừng để không bao giờ làm hại đến sứ vụ của ngài. Để người ta có thể tin rằng lời loan báo Tin Mừng của ngài là vô vị lợi, thánh nhân đã không ngừng lặp đi lặp lại Tin Mừng mà ngài đem đến là một ân ban nhưng không. Với tư cách là “tôi tớ” của Đức Kitô, thánh nhân không mong chờ bất kỳ bổng lộc nào. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thánh nhân đã lao động bằng chính bàn tay của mình để chi cấp cho nhu cầu của mình: “Chúng tôi phải vất vả và tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu” (1Cr 4: 12). Khi từ chối sự giúp đỡ của các tín hữu, thánh Phao-lô muốn họ hiểu rằng ngài không muốn bị ràng buộc với bất cứ ai và quyết tâm gìn giữ sự tự do của mình để Tin Mừng mà ngài rao giảng không gây trở ngại cho bất kỳ ai, như ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây trở ngại cho Tin Mừng của Đức Kitô” (1Cr 9: 12).

Tuy nhiên, do mối quan hệ thân tình và niềm tin tưởng gắn bó của thánh nhân với các tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô chấp nhận sự giúp đỡ của họ, vì biết rằng nghĩa cử của họ biểu lộ tấm lòng yêu mến chân thành đối với ngài. Thánh Phao-lô tế nhị cám ơn họ và xin họ đừng bận lòng thái quá đối với ngài, vì thánh nhân biết hài lòng trong mọi sự và thích nghi với mọi hoàn cảnh. Ở đây, người ta có thể gặp lại cách nói tương tự dưới ngòi bút của các triết gia khắc kỷ như Ēpictète hay Sénèque. Nhưng trong khi các hiền triết xưa múc lấy nguồn bình an tự tại nơi chính mình, thánh Phao-lô đánh dấu sự khác biệt: thánh nhân múc lấy sức mạnh của mình chỉ từ Đức Kitô, Đấng đang sống trong thánh nhân.

Thánh Phao-lô bày tỏ tấm lòng biết ơn chân thành của ngài đối với các tín hữu Phi-líp-phê, bởi vì thánh nhân biết rất rõ cộng đoàn Phi-líp-phê không giàu có gì. Quả thật, trong bức thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô về việc lạc quyên giúp Giáo Hội Giê-ru-sa-lem, chúng ta đọc thấy những lời nầy khi thánh nhân nói về các tín hữu Phi-líp-phê: “Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ trở nên những người giàu lòng quảng đại. Họ tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm chứng là quá sức họ nữa” (2Cr 8: 2-3). Dù không muốn nhận bất kỳ sự giúp đỡ của bất cứ ai, thánh Phao-lô biết rằng những quà tặng của các tín hữu Phi-líp-phê vượt quá con người của ngài. Chúng đẹp lòng Thiên Chúa. Đó thật sự là một sự giàu có tinh thần. Thánh nhân có thể nói với các tín hữu Phi-líp-phê: “Họ đầy công đức vì những việc lành và bố thí họ đã làm”, như thánh Lu-ca nói về bà Ta-bi-tha ở Gia-phô: “Bà này đầy công đức vì những việc lành và bố thí bà đã làm” (Cv 9: 36). Vì thế, họ phải tôn vinh Thiên Chúa.

Trong phần cuối, trước tiên thánh nhân nói về “Thiên Chúa của tôi”, vì Thiên Chúa sẽ thay thánh nhân trả công bội hậu cho những người làm phúc cho thánh nhân; tiếp đó “Thiên Chúa là Cha chúng ta”, vì Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ bi nhân hậu sẽ săn sóc các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của thánh nhân.

TIN MỪNG (Mt 22: 1-14).

Dụ ngôn “tiệc cưới” hôm nay cùng với hai dụ ngôn đi trước: “hai người con” và “những tá điền gian ác”, hình thành nên một bức tranh bộ ba theo cùng một chủ đề: vì bất trung với sứ mạng của mình, dân được tuyển chọn sẽ được thay thế bởi lương dân. Tuy nhiên, có một sự tiến triển: Dụ ngôn “tiệc cưới” nhấn mạnh ơn cứu độ phổ quát. Dụ ngôn nầy chứa đựng hai bài học: “tiệc thời Thiên Sai” (22: 1-10) và “tiệc thời Cánh Chung” (22: 11-14), cả hai viễn cảnh nầy rất thường được đặt chồng chéo lên nhau (như trong trường hợp Bài Đọc I).

1. Tiệc thời Thiên Sai (22: 1-10)

Như trong sấm ngôn khải huyền của Bài Đọc I, hình ảnh bàn tiệc gợi ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài trong niềm vui cứu độ. Trong dụ ngôn, Đức Vua đại diện Thiên Chúa, Người Con đại diện Đấng Mê-si-a, và tiệc cưới biểu tượng giao ước mới, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với nhân loại. Nhưng các quan khách được mời không thèm đếm xỉa tới giao ước mới nầy, đó là dân Ít-ra-en, họ từ chối nhận ra Người Con là Đấng Mê-si-a. Vài khách mời còn đi xa hơn nữa, họ ngược đãi và sát hại các gia nhân của vua, tức là các ngôn sứ thời Cựu Ước và các tông đồ thời Tân Ước.

“Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”: Thái độ như thế được đặt vào trong bối cảnh Kinh Thánh: những án phạt của Đức Chúa, nhưng dường như ở đây là một trong những lời tiên báo trực tiếp của Đức Giê-su về biến cố đạo quân Rô-ma tàn phá Giê-ru-sa-lem vào năm 70 sau Công Nguyên. Vài nhà chú giải thấy ở đây không là một lời tiên báo, nhưng lời nhắc nhở về một biến cố đã xảy ra. Tuy nhiên, trong câu chuyện đối chiếu của Lu-ca (14: 15-24), không có chi tiết nầy. Vì thế, người ta có thể nghĩ chi tiết nầy đã được thêm vào Tin Mừng Mát-thêu sau các biến cố nầy.

Các quan khách đã được mời nhưng không đến. Mỗi người đã theo đuổi lợi ích riêng của mình. Họ đã không đáp trả lời mời, từ chối dự phần vào vương quốc thiên sai, hình ảnh của Giáo Hội.

Thành phố bị thiêu hủy, tuy nhiên, tiệc cưới vẫn được tiến hành. Các quan khách từ chối lời mời được thay thế. Lời mời gọi được vang lên khắp các ngã đường: “Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới”. Dụ ngôn nhấn mạnh tính nhưng không của lời mời gọi: Gia nhân liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại”. Như vậy, toàn thể nhân loại, không phân biệt chủng tộc, được mời gọi thế chỗ dân Ít-ra-en bất trung.

Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca ghi nhận các đầy tớ ra các ngã đường đến hai lần (Lc 14: 21-24). Trong lần thứ nhất, các đầy tớ mời các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào tham dự tiệc cưới; trong lần thứ hai, tất cả những khách qua đường. Có lẽ thánh Lu-ca đã nghĩ trước hết đến những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà chính Đức Giê-su đã ưu ái đặc biệt; còn họ đã hoan hỉ tiếp đón Tin Mừng và dự phần vào niềm vui thời Thiên Sai, vì thế, họ không thể nào bị loại ra ngoài. Hạng người thứ hai là lương dân, đây là nét tinh tế của thánh Lu-ca khi đề cập đến hạng người nầy.

2. Tiệc thời Cánh Chung (22: 11-14)

Từ tiệc thời Thiên Sai, dụ ngôn chuyển sang tiệc thời Cánh Chung. Vả lại, dụ ngôn ngắn về một khách mời bị loại trừ có thể tự ban đầu đã là một dụ ngôn độc lập. Quả thật, có sự khác biệt đáng kể giữa phần trước và phần tiếp theo nầy. Trong bàn tiệc thời Thiên Sai, mọi người đều được mời tham dự, dù tốt hay xấu, công chính hay tội lỗi, dân Do thái hay dân ngoại. Thật ra, đó không phải là lời mời gọi của Đấng Thiên Sai đặc biệt gởi đến những người tội lỗi hay sao? Trái lại, trong bàn tiệc thời Cánh Chung, nghĩa là trong Nước Trời, người ta chỉ được phép dự tiệc khi mặc y phục của những người công chính. Đức Vua nói: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới?”. Trong Tin Mừng Mát-thêu, lời chất vấn nầy luôn luôn hàm chứa sắc thái khiển trách, như ông chủ vườn nho đáp lại lời kêu ca của người thợ làm vườn nho ngay từ sáng sớm: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20: 13), hay Đức Giê-su nói với ông Giu-đa, kẻ dẫn người đến bắt Ngài: “Nầy bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi” (Mt 26: 50).

Ấy vậy, trong dụ ngôn này, làm thế nào có thể khiển trách người khách nầy không mặc y phục lễ cưới khi anh ta được mời cách bất ngờ từ ngoài đường vào phòng tiệc? Vài nhà chuyên môn giải thích rằng tại vài dân tộc Đông Phương, gia chủ đã tiên liệu vài y phục lễ cưới cho khách mời ở lối vào tiệc cưới. Tuy nhiên, một tập tục như vậy không được chứng thực ở Ít-ra-en. Vì thế, không nên quá coi trọng vài chi tiết nhỏ nhặt của dụ ngôn. Ý nghĩa thì rõ ràng. Người ta không được dự phần vào bàn tiệc Nước Trời nếu như đã không chu toàn những đòi hỏi sứ điệp Tin Mừng.

Câu cuối: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” rõ ràng không ăn nhập với toàn bộ dụ ngôn trong đó có một số lượng lớn khách mời dự tiệc trong khi chỉ riêng một người bị loại. Đúng hơn lời cuối nầy có liên quan đến phần thứ nhất của dụ ngôn, theo đó có ít người dân Ít-ra-en, dân được tuyển chọn, được dự phần vào bàn tiệc thời Thiên Sai, trong khi so sánh với muôn dân muôn nước hân hoan tiếp đón Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội.

 

home Mục lục Lưu trữ