Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 59
Tổng truy cập: 1361393
MANG ẤY “ÁCH” VÀ “GÁNH” CỦA CHÚA
Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói…
Thành ngữ. “vào lúc ấy” thường là công thức về văn phong mà các sách Kinh dùng làm lễ đã thêm vào để bắt đầu một đoạn Tin Mừng một cách tự nhiên hơn. Nhưng ở đây là môt ngoại lệ, nó có trong bản văn của Matthêu. Vậy trong bối cảnh nào mà lời cầu nguyện chúng ta sắp đọc được đưa vào?
“Lúc ấy” là một thời điểm bi đát. Đức Giêsu sống trong một bầu khí căng thẳng và thất bại. Ở chương 11 thánh Matthêu vừa mô tả sự “hoài nghi” của Gioan Tẩy trong nhà tù: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? “Đức Giêsu kế đó đã thuật lại cách thức mà những kẻ đồng thời với Người đã từ chối ông Gioan vị ẩn sĩ khổ hạnh và cả Đức Giêsu Đấng Hằng Sống nhân từ (11,16-19). Rồi Đức Giêsu lên án nghiêm khắc những thành phố bên bờ hồ Ti-bê-ri-a đã không đón nhận sứ điệp và các phép lạ của Người. Nhiều người trong hoàn cảnh thất bại này hẳn sẽ rơi vào sự thất vọng và chán nản. Vả lại, đây là một “bài ca vui mừng” trào dâng từ đôi môi Người. Vậy tâm tình thầm kín của Đức Giêsu là gì?
Lạy Cha là Chúa Tể trời đất…
Trong một vài dòng, chúng ta nghe Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là “Cha” năm lần. Chúng ta đã quá quen nên không nhận thấy rằng cách gọi Thiên Chúa này mở ra một cuộc cách mạng tôn giáo thật sự. Những nhà chú giải đã tìm trong toàn bộ Kinh Thánh và tất cả văn chương Do Thái trước Đức Giêsu chưa bao giờ từ ngữ ấy, “Cha” được dùng một cách tuyệt đối và dùng để cầu khẩn trực tiếp Thiên Chúa. Không một Thánh Vịnh nào dám gọi Thiên Chúa một cách thân mật.
Như thế, những người Do Thái, ngày nay cũng thế, bởi lòng tôn kính, không dám phát âm cái tên khôn tả của Thiên Chúa nhưng dùng mọi cách nói tránh, ví dụ như: “Đấng Hằng Hữu, xin chúc tụng…” Dường như các tông đồ không thể nghĩ ra một từ ngữ như thế, bởi họ cũng là người Do Thái, nếu như họ đã không nghe thấy trên đôi môi Đức Giêsu đang cầu nguyện. Và đàng sau từ ngữ ấy, ngày hôm nay đã trở thành thông thường, chúng ta nhận ra tiếng “Abba!” trong ngôn ngữ A-ra-men. Đây là một từ âu yếm của các con nhỏ dùng nói với cha chúng, tương đương với chữ Ba (Bố) của chúng ta..
Cha! Ba, Chúa của trời đất!
Sự đối chiếu của hai khía cạnh ấy của Thiên Chúa thật cảm động. Đây là Thiên Chúa cao cả, Tạo Hóa của toàn thể vũ trụ! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con theo gương Chúa có đủ hai thái độ cầu nguyện ấy: sự đơn sơ của tình cảm; sự tôn thờ chân chính.
Con xin ngợi khen Cha.
Động từ Hy Lạp dùng ở đây là “exomologeisthai” có nghĩa là “xưng thú”, “tuyên xưng công khai đức tin” “dâng lời ngợi khen”, “cảm tạ”. Như thế, giữa những thất bại trong việc rao giảng, đây là một lời cầu nguyện ngợi khen tràn ngập linh hồn; một thứ Thánh Thể “.
Và chúng ta không thể không ngạc nhiên bởi sự giống nhau đáng ngạc nhiên giữa lời Đức Giêsu cầu nguyện với bài ca ngợi khen (Magnificat) của Mẹ Người. “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng”. Cả hai bài kinh này đều được cấu kết bằng những ẩn dụ trong Kinh Thánh (Cn 8,9; Xi-ra-cít 51,1-30; Kn 6,9; Đn 7,13-l4). Và cả hai ca hát niềm vui của những người nghèo khó mà Thiên Chúa ưa thích.
Vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng mạc khải cho người bé mọn.
Đức Giêsu cầu nguyện và đi từ đời sống cụ thể của Người. Người đi từ sự thất bại mà các kinh sư và các Thầy dạy Luật đã gây ra cho Người… từ sự tiếp đón mà Người đã nhận từ những người khiêm nhượng và nghèo khó. Còn tôi thì sao? Tôi có cầu nguyện từ’ đời sống và những lo lắng của tôi? Tôi có dám thử tìm ra “lời để ngợi khen” giữa những hoàn cảnh bất lợi đang làm tổn thương tôi? Khi đọc lời kinh này của Đức Giêsu người ta có thể bị đụng chạm bởi cảm tưởng Thiên Chúa “giấu giếm” một điều gì đó cho một số người Và mạc khải điều đó cho những người khác! Trong toàn bộ Cựu ước, chúng ta tìm thấy ngôn ngữ Sê-mít này rất mạnh xem ra bất chấp tự do của con người. Ví dụ như, chính Thiên Chúa làm cho “lòng vua Pha-ra-on thành ra chai cứng” (Xh 9,12). Công thức này muốn diễn tả tất cả không ngoại trừ, hoàn toàn tất cả đều phụ thuộc vào Thiên Chúa, nhưng đúng là con người phải chịu trách nhiệm về những sự khước từ của mình, mà không phải là Thiên Chúa. Chính vì thế người ta tìm thấy công thức rõ ràng là trái ngược: “Vua Pha-ra-on làm cho lòng mình ra chai cứng (Xh 8,11). Dĩ nhiên ở đây vấn đề không phải là Đức Giêsu cám ơn Cha Người về việc truyền giảng thất bại và Người cũng không đổ cho Thiên Chúa sự thất bại ấy… Nhưng với sức mạnh trong ngôn ngữ mà chúng ta không còn sử dụng nhưng đã được điển hình hóa về mặt văn hóa, Người cám ơn Cha Người vì đám đông không học vấn đã tiếp đón Lời trong khi những người trí thức, than ôi lại tha hồ bị kẹt cứng trên sự chắc chắn của họ.. Chúng ta còn nhận thấy rằng đây không phải là một thứ kết án trí tuệ. Nhưng Đức Giêsu thừa nhận rằng thông thường trí tuệ quý báu của con người thực ra sẽ dẫn tới chỗ kiêu ngạo mù quáng vì tự phụ. Lý trí con người là khả năng phi thường để con người hiểu biết những sự vật của thế giới này và thiết lập những quy luật khoa học… nhưng lý trí bị giới hạn trong thế giới, và không thể nhận ra Nước Thiên Chúa bởi chỉ ánh sáng duy lý. Thánh Phaolô sẽ nói về đức tin như một thứ điên rồ”: “Tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1Cr 2,1). “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ, nhưng cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người” (1Cr 1,18-30).
Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
Để giải thích sự tiếp nhận của những người bé mọn và nghèo khó, đối diện với sự khước từ của các người thông thái và tự mãn, Đức Giêsu không phân tích khuynh hướng tâm lý và đức hạnh của họ. Người lập tức cho rằng đặc quyền của- những kẻ bé mọn là “lòng nhân từ của Thiên Chúa”. Họ không tốt hơn những người khác nhưng vì họ chịu thua thiệt, họ đặc biệt lôi kéo “lòng nhân hậu của Chúa Cha. Đó là một tư tưởng bền bỉ của Đức Giêsu: bạn là kẻ tội lỗi; bạn bị coi chẳng ra gì; bạn bị khinh bỉ bạn, bị đè bẹp… Cha của Đức Giêsu nhìn bạn với một tình yêu thương đặc biệt.
Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.
Một lần nữa, phải nhận thức về lòng tự hào không chịu nổi của ông Giêsu người Na-da-rét. Người khẳng định có mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa và chính Người là một người nghèo giữa những người nghèo. Vả lại, Người dám nói rằng không một ai biết Người. Không một ai có thể thâm nhập vào căn tính sâu xa của Đức Giêsu trừ Chúa Cha! Và, ngược lại Đức Giêsu thực sự cho rằng chỉ có Người biết được Thiên Chúa!
Trong những công thức ấy, người ta nhận ra những tư tưởng thường được Thánh Gioan hòa điệu: “Không ai đến Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Khi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V định nghĩa Đức Giêsu như “Thiên Chúa thật, và người thật”, khi các Công đồng ấy định nghĩa Ba Ngôi với sự bằng nhau về bản tính của Chúa Cha, Chúa Con và. Chúa Thánh Thần, thì các Công đồng ấy chỉ nói lại bằng những từ ngữ chính xác hơn điều mà các sách Tin Mừng và giáo lý tiên khởi đều đã khẳng định. Một bản văn nhân bản văn này, trong số nhiều bản văn khác, chứng tỏ rằng những giáo huấn về Chúa Giêsu đã đồng hóa “con người này” với “Đức Chúa Giavê. Phải, những người Do Thái đã gán cho con người Giêsu những câu nói chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa: “Không ai biết Tôi ngoài Thiên Chúa; và không ai biết Thiên Chúa ngoài Tôi. Vả lại, giả thuyết những người Do Thái “thần linh hóa” một người Do Thái quả là một điều không có thật.
Trong các tôn giáo khác của Đế quốc La Mã, có thể nghĩ đến những con người, ví dụ như những Hoàng đế đã được thần linh hóa. Nhưng điều này không thể nghĩ ra được trong môi trường Do Thái: họ thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất siêu việt không thể diễn tả, mà người ta không bao giờ đám gọi tên! Kết hợp Đức Chúa Giavê với một con người, dù người này là ai là một sự phạm thánh ghê tởm.
Để đi đến điều đó, cần phải có những sự bó buộc mạnh mẽ trên bình diện các “sự kiện” và những “lời” của Đức Giêsu; tác động đến những người đã là các chứng nhân.
Phần chúng ta, sau 2000 năm, chúng ta chiêm niệm mầu nhiệm kỳ diệu ấy với nhiều sự đơn sơ và tôn thờ? Con người mà người ta thấy ăn bánh và quả ô-liu là người nông dân bé mọn ở Na-da-rét đã từng đốt lửa trên bờ hồ, là người mà người ta đã thấy lúc khóc và lúc cười, lúc tức giận và lúc đói khát. Một con người mà ban đêm người ta nghe thấy tiếng ngáy trong những lúc cắm trại ở giữa cảnh trời sao diễm ảo; người ta đã nghe Người trong lúc cầu nguyện, đã gọi Thiên Chúa “‘Abba?”. Và, với một vẻ bề ngoài tầm thường nhất, người khẳng định: “Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con, và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho!”. Mạc khải? Thật vậy, người ta chỉ biết Thiên Chúa qua điều mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta!
Mạc khải. Một cách hiểu biết khác với sự nhận thức duy lý Thiên Chúa không được chinh phục sau một quá trình suy luận thông thái. Thiên Chúa được tiếp đón trong một tấm lòng nghèo khó: “Thầy sẽ chỉ cho con bí mật của Thầy nếu con yêu mến Thầy Điều đã bị giấu đối với các bậc khôn ngoan và thông thái được mạc khải cho người bé mọn! Người ta không đổ đầy một cái chén đã đầy rồi phải có một tấm lòng trống trải để Thiên Chúa tìm được chỗ cho Người. Phải có một trí tuệ khiêm tốn để Thiên Chúa bày tỏ Người ra. Lạy Chúa, xin tạo ra trong chúng con sự sẵn sàng để đón nhận mạc khải.
Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi,.vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.
Đức Giêsu khẳng định rằng “ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Tin Mừng có những yêu sách rất mạnh mẽ. Điều quan trọng là không nên giản lược những yêu sách ấy. Nhưng Đức Giêsu tự giới thiệu như đầy sự hiền hậu và khiêm nhường: Người là lòng nhân hậu của Thiên Chúa nhập thể. Lúc đó có thể nói sự hoàn thành những yêu sách ấy xuất phát tự bản chất của hữu thể. Rõ ràng Người đến đề nghị một cách sống mới cho những người không thể mạng gánh nặng của Luật pháp; tức những người nghèo và những người tội lỗi.
Các ngôn sứ đã loan báo rằng Thiên Chúa từ chối viết Luật trên các bảng đá, theo cách ở bên ngoài của con người, nhưng Người sẽ viết Luật trên lòng người: đó là sự loan báo của Tân ước (Gr 32,31-34). Chúng ta nhận thấy sự nhất quán của tư tưởng ấy. Luôn luôn là vấn đề những người “nhỏ bé”, hèn mọn. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa cao cả, Con của Đức Chúa trời đất, đến chia sẻ sự đau khổ của những người nghèo, để giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy. Người đề nghị làm nhẹ bớt những gánh nặng của chúng ta. Phải luôn suy niệm thấu đáo hình ảnh này: người nào mang gánh nặng nề; dừng lại một giây lát để đặt gánh xuống! Và đây là điều Đức Giêsu đề nghị chúng ta: “Thầy sẽ cho anh em nghỉ ngơi bồi dưỡng!”.
CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN- A
THIÊN CHÚA MẠC KHẢI CHO NHỮNG NGƯỜI BÉ MỌN- Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Vị Tẩy Giả đã sai môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không?” (Mt 11,3). Các đối thủ của Đức Giêsu thì đã tìm cách hạ giá Người (x. 11,18-19). Còn các thành miền Galilê thì đã không đón nhận sứ điệp của Người (x. 11,21-24). Vậy Người là ai? Tại sao lại phải tuyệt đối lắng nghe Người? Do đâu mà Người có thể đòi buộc như thế? Bản văn chúng ta sắp tìm hiểu sẽ cung cấp câu trả lời.
Đức Giêsu xác định lập trường của Người bằng những khẳng định hết sức đậm đặc và cũng vô cùng căn bản.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
*1) Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (11,25-26);
*2) Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (11,27);
*3) Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (11,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
– Lạy Cha (25): Trong Tin Mừng Mt, đây là lần đầu tiên Đức Giêsu thưa gửi với Thiên Chúa bằng danh xưng “Cha”, sau khi đã nhiều lần khuyến khích các môn đệ làm như thế (5,16.45.48; 6,1.4.8.14.15 …). Lời thưa này giống như câu đáp cho lời giới thiệu “Đây là Con yêu dấu của Ta” (3,17) mà Đức Giêsu đã nhận khi chịu phép rửa và chính Người sắp nhắc lại lúc này (x. 11,27).
– ngợi khen (25): Động từ Hy Lạp exomologoumai (praise) luôn mang những sắc thái ca ngợi chúc tụng, tôn kính, biết ơn, và hân hoan.
– bậc khôn ngoan thông thái … những người bé mọn (25): Trong ngữ cảnh Mt, “những bậc khôn ngoan thông thái” là các luật sĩ và Pharisêu, còn “những người bé mọn” (theo nghĩa chữ là “các em bé”) là đám đông dân chúng, các môn đệ, những đám thợ thuyền, những kẻ tội lỗi.
– những điều này (25): Đức Giêsu không nói rõ, nhưng dựa vào văn cảnh, có thể cho rằng “những điều này” chính là sứ mạng của Đức Giêsu, tức là mầu nhiệm bản thân Người và các hoạt động của Người.
– điều đẹp ý Cha (26): Đây là ý muốn của Chúa Cha. Ý muốn này chính là kế hoạch cứu độ.
– biết (27): Động từ Hy Lạp epigignôskein (know) dịch động từ Híp-ri yada diễn tả một quan hệ thâm sâu, một sự hiệp thông giữa hai bên; động từ này đồng nghĩa với “yêu mến”.
– trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho (27): Sự hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Cha không phải là một vòng tròn khép kín, nhưng mở ra với loài người, vì họ cũng được phép gọi Thiên Chúa là Cha (x. Mt 5,45-48).
– mang gánh nặng nề (28): Ở 23,4, Đức Giêsu trách người Pharisêu đã chất những “gánh” nặng lên vai người ta. Đây là gánh nặng vác không nổi gồm những truyền thống vị luật của các kinh sư, chứ không phải là các thử thách và vất vả của cuộc đời, hay gánh nặng tội lỗi… Truyền thống này cũng dùng công thức “mang ách”: ách của Nước Thiên Chúa, ách Luật Môsê, ách các điều buộc …
– hiền hậu và khiêm nhường (29): Hai từ ngữ này có ý nghĩa tương tự. Đây là Mối Phúc thứ hai. Đức Giêsu lại tự liên kết với những con người sầu khổ của Mối Phúc thứ ba.
– ách tôi êm ái (30): Đức Giêsu cũng đề nghị “ách” của Người, tức là các huấn lệnh của Người. Người không khẳng định rằng các huấn lệnh này ít quan trọng và ít đòi buộc hơn các điều luật của các kinh sư; trái lại Người đã cho thấy là Người đưa chúng đến để hoàn tất Luật cũ, chỉ có điều là con đường Người theo không có chuyện luật lệ chi li giáo điều phức tạp nặng nề của các kinh sư và Pharisêu. Nếu “ách” của Người “êm ái” là vì nó phát xuất từ toàn bộ Tin Mừng, tức là từ những tương quan mới mà Thiên Chúa cứu độ đã thiết lập với loài người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu hân hoan dâng lời ngợi khen Chúa Cha (25-26)
Đức Giêsu đã ngỏ lời với Chúa Cha trong mộtlời cầu nguyện tạ ơn và chúc tụng. Người gọi Thiên Chúa là Cha và Chúa tể trời đất. Người đã mạc khải cho thấy là Cha, vị Thiên Chúa mà lâu nay người ta chỉ biết là Đấng Tạo hóa và Chúa tể toàn thế giới. Thiên Chúa là Đấng mà Đức Giêsu nhận biết là Cha, nhờ tương quan con cái mà Người có với Thiên Chúa. Do ý muốn của Thiên Chúa mà sứ điệp của Đức Giêsu được đón nhận cách khác nhau: những bậc khôn ngoan thông thái thì không hiểu gì, còn những người bé mọn thì hiểu. Phải chăng sứ điệp của Người chỉ được dành cho những em bé hoặc những người đã lớn tuổi mà vẫn còn ấu trĩ và chưa chín chắn? Phải chăng Kitô giáo đi ngược lại với kiến thức và khoa học và khả năng tự quyết của con người? Phải chăng Kitô giáo chỉ phù hợp với tình trạng thiếu khả năng tự cáng đáng bản thân và chỉ hỗ trợ tình trạng lệ thuộc trong cách xử sự? Thật ra, với những con người nghĩ rằng mình hiểu biết mọi sự, Đức Giêsu chẳng có gì để nói với họ cả. Người không thể mạc khải cho họ biết Thiên Chúa là Cha và Chúa tể, bởi vì họ không thể nhận được, vì họ không cần Thiên Chúa. Con người cứ việc tận dụng trí thông minh và tất cả sức lực, và hành động với tự do và trách nhiệm, nhưng cần nhận biết những giới hạn của mình. Nếu chúng ta lương thiện và biết nhìn nhận hoàn cảnh thực sự của mình, chúng ta đang mở ra đón nhận mạc khải của Đức Giêsu. Những người có tinh thần nghèo khó (5,3) là những người bé mọn. Họ sống lệ thuộc Thiên Chúa và quy chiếu về Người, họ nhận biết Người là Chúa tể trời đất và vui hưởng mạc khải bởi vì họ biết ký thác bản thân cho tình yêu và sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
* Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (27)
Trung tâm của bản văn là những khẳng định của Đức Giêsu về tương quan của Người với Thiên Chúa. Giữa Thiên Chúa và Người có một quan hệ duy nhất Cha-Con: Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu và Đức Giêsu là Con của Thiên Chúa. Chỉ duy có Thiên Chúa, trong tư cách là Cha, mới biết Đức Giêsu là ai, và chỉ duy Đức Giêsu, trong tư cách là Con, mới biết Thiên Chúa là ai. Hai Đấng hiểu biết lẫn nhau do có sự hiệp thông sâu xa và chan hòa sức sống. Những con người đang phê phán Đức Giêsu với tất cả sự trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng biết rõ Người, nhưng thật ra chẳng biết gì về Người cả. Chúa Cha đã giao phó tất cả, mọi quyền bính và uy quyền trên con người, cho Đức Giêsu. Duy mình Đức Giêsu có thể mạc khải Chúa Cha, giúp người ta thực sự biết Chúa Cha. Vị trí này của Người là do tương quan của Người với Chúa Cha: vì chỉ một mình Người biết Chúa Cha, do thực tại thâm sâu của Người là Con, thì cũng chỉ một mình Người có thể mạc khải Chúa Cha trong thực tại thâm sâu của Người là Cha. Do đó, loài người không thể tránh khỏi đối diện với ý muốn của Thiên Chúa, khi quan hệ với Đức Giêsu.
* Đức Giêsu mời gọi loài người lắng nghe sứ điệp của Người (28-30)
Đức Giêsu mời gọi tất cả những ai mệt mỏi chán chường và vất vả với những gánh nặng hãy đến với Người. Người ngỏ lời trực tiếp với những người đang nghe Người nói. Họ đang phải “gánh” 613 điều luật buọc mà các kinh sư đã bày ra khi giải thích Cựu Ước (23,4) và họ đang vất vưởng như đàn chiên không có người chăn dắt (x. 9,36). Người hứa ban cho họ được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Phải chăng chúng ta ngạc nhiên và thất vọng vì Người cũng mời chúng ta nhận lấy ách của Người? Từ quan điểm của Đức Giêsu, con người không “tự do” theo kiểu hoàn toàn là mình, không mắc bất cứ ràng buộc nào. Trong tư cách là thọ tạo của Thiên Chúa, do chính bản tính của mình, con người luôn ở trong thế quy chiếu về với Thiên Chúa. Hỏi về sự tự do đích thực đúng ra là hỏi về mối dây ràng buộc đích thực. Chỉ khi chấp nhận được ràng buộc với vị Chúa tể đích thực, người ta mới được tự do thật, thoát khỏi ràng buộc với mọi chủ nhân khác. Vì thật sự biết Thiên Chúa nhờ hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa, Đức Giêsu có thể chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa không phải cách méo mó giới hạn, nhưng trong thực tại đúng đắn của Thiên Chúa. Và Người ra sức dẫn đưa chúng ta về với Chúa Cha, đồng thời khuyến khích chúng ta tin tưởng tuyệt đối nơi Người và ký thác trọn vẹn nơi Người. Nhận lấy ách của Người chính là đón nhận tất cả sứ điệp của Người và sống như Người vẫn sống, đó là hết lòng yêu mến Chúa Cha và dấn thân phục vụ loài người.
+ Kết luận
Đức Giêsu tự giới thiệu là Đấng “hiền hậu và khiêm nhường trong lòng”: các từ ngữ này, chúng ta thấy có trong các Mối Phúc, không hề có nghĩa là những người nhút nhát, rụt rè, nhưng là những người nghèo và bị áp bức, những người đang chịu bất công và không sao đứng dậy được. Đây là những người nghèo mà Đức Giêsu bảo: Hãy nghe tôi, hãy tin tôi, vì tôi ở về phía các bạn, tôi là một người trong các bạn, tôi cũng nghèo và bị loại trừ!
Muốn học được sự khôn ngoan của Nước Trời, thì phải sống nghèo cùng với Đức Giêsu. Điều gây vấp phạm, chính là sự mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người: quyền năng được tỏ bày trong sự yếu đuối…
5.- Gợi ý suy niệm
-Những kẻ phê phán Đức Giêsu cách trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng là đã biết Đức Giêsu! Thật ra, chỉ có Thiên Chúa mới biết Đức Giêsu trong tư cách là Con, trong sự quy hướng hoàn toàn về Chúa Cha trong tình yêu trọn vẹn.
-Đọc bản văn này trong liên hệ với đoạn văn cuối cùng của Tin Mừng Mt (28,16-20), chúng ta sẽ thấy tất cả tầm mức sâu xa của các lời khẳng định của Đức Giêsu. Sau khi sống lại, Người chính là Đấng đã được Chúa Cha ban cho toàn quyền trên trời dưới đất. Chính Người hiện diện bên các môn đệ “mọi ngày cho đến tận thế” để nâng đỡ các ông trong nỗ lực chu toàn sứ mạng.
-Hans Urs von Balthasar, một nhà thần học Thụy Sĩ, đã nói đến một thứ “thần học bàn quỳ”: chúng ta chỉ thật sự hiểu biết về Thiên Chúa không phải nhờ cứ khăng khăng dùng trí tuệ mà tìm tòi suy luận, nhưng nhờ biết quỳ xuống nhận biết quyền năng của Người trên chúng ta. Thánh Anselmô cũng nói: “Tôi tin để tôi có thể hiểu được Thiên Chúa”.
-Thiên Chúa đã ban toàn quyền cho Đức Giêsu; do đó, trong khi hành động, loài người luôn phải đặt mình đối diện với ý muốn của Thiên Chúa về định mệnh của mình. Muốn cuộc đời mình đi đúng hướng, loài người phải quan tâm đến ý muốn này.
-Chúng ta sẽ cảm thấy sứ điệp của Đức Giêsu về Chúa Cha và về ý muốn của Chúa Cha trở nên như một “cái ách”, khi các ước muốn, các tâm trạng và các ý tưởng của chúng ta đi ngược lại với sứ điệp ấy. Như thánh Âu-tinh đã nói: “Trái tim chúng con vẫn còn bồn chồn bất an, cho đến khi nó được nghỉ yên trong Chúa”, chúng ta chỉ được yên hàn, thanh thản, khi sống trong tình hiệp thông với Thiên Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam